Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân

Đánh giá nhận thức và xác

định các yếu tố liên quan đến nhận thức

về giáo dục liên ngành (IPE) và hoạt động

nhóm liên ngành trong chăm sóc sức khỏe

 của sinh viên Y đa khoa và sinh viên điều

dưỡng tại trường Đại học Duy Tân. Đối

tượng và phương pháp nghiên cứu:

Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến

hành trên 146 sinh viên điều dưỡng và y

đa khoa năm cuối tại trường Đại học Duy

Tân từ 12/2020 đến 3/2021. Nghiên cứu sử

dụng 02 bộ câu hỏi gồm: Thái độ về giáo

dục liên ngành (0.76) và Thái độ về hoạt

động nhóm liên ngành trong chăm sóc sức

khỏe (0.84)

 

Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân trang 1

Trang 1

Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân trang 2

Trang 2

Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân trang 3

Trang 3

Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân trang 4

Trang 4

Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân trang 5

Trang 5

Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân trang 6

Trang 6

Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 13620
Bạn đang xem tài liệu "Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân

Thái độ về giáo dục kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành của sinh viên điều dưỡng và y đa khoa tại trường đại học Duy Tân
124
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
& Löfmark, A. (2010). Translation of the 
nursing clinical facilitators questionnaire 
(NCFQ) to Norwegian language. Nurse 
education in practice, 10(4), 196-200.
15. Đỗ Thị Ý Như (2013). Ảnh hưởng 
của môi trường thực hành trên chât lượng 
đào tạo điều dưỡng trường trung cấp 
Phương Nam. Luận văn thạc sĩ Đại học Y 
Dược thành phố Hồ Chí Minh.
16. Sedgwick M and Harris S (2012), 
A critique of the undergraduate nursing 
preceptorship model. Nursing research and 
practice, 2012.
17. Manninen K, Henriksson E W, 
Scheja M, and Silén C (2015), Supervisors’ 
pedagogical role at a clinical education 
ward–an ethnographic study. BMC nursing, 
14(1): p. 55.
18. Hồ Thị Lan Vi, Dương Thị Ngọc Bích, 
Phạm Thị Thảo. Khảo sát sự hài lòng về 
môi trường học tập lâm sàng của sinh viên 
Điều dưỡng Trường Đại học Duy Tân. Tạp 
chí Khoa học và công nghệ Đại học Duy 
Tân; 2020.
19. Haskvitz LM, Koop EC. Students 
struggling in clinical? A new role for the 
patient simulator. Journal of Nursing 
Education. 2004;43(4):181-4.
20. Kim KH, Lee AY, Eudey L, Dea 
MW. Improving clinical competence and 
confidence of senior nursing students 
through clinical preceptorship. International 
Journal of nursing. 2014;1(2):183-209.
21. Papastavrou E, Dimitriadou M, 
Tsangari H, Andreou C. Nursing students’ 
satisfaction of the clinical learning 
environment: a research study. BMC 
nursing. 2016;15(1):44.
22. Phạm Thị Hạnh. Thực trạng dạy-học 
lâm sàng tại trường Đại học Y Dược Hải 
Phòng và kết quả áp dụng thử nghiệm một 
số biện pháp can thiệp. Đại học Y tế công 
cộng; 2018.
THÁI ĐỘ VỀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG HOẠT ĐỘNG NHÓM LIÊN NGÀNH 
CỦA SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG VÀ Y ĐA KHOA TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
Nguyễn Diệu Hằng1
1Trường Đại học Duy Tân
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá nhận thức và xác 
định các yếu tố liên quan đến nhận thức 
về giáo dục liên ngành (IPE) và hoạt động 
nhóm liên ngành trong chăm sóc sức khỏe 
của sinh viên Y đa khoa và sinh viên điều 
dưỡng tại trường Đại học Duy Tân. Đối 
tượng và phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến 
hành trên 146 sinh viên điều dưỡng và y 
đa khoa năm cuối tại trường Đại học Duy 
Tân từ 12/2020 đến 3/2021. Nghiên cứu sử 
dụng 02 bộ câu hỏi gồm: Thái độ về giáo 
dục liên ngành (0.76) và Thái độ về hoạt 
động nhóm liên ngành trong chăm sóc sức 
khỏe (0.84), điểm tổng thể càng cao thể 
Người chị trách nhiệm: Nguyễn Diệu Hằng
Email: nguyendieuhang@duytan.edu.vn
Ngày phản biện: 27/5/2021
Ngày duyệt bài: 01/6/2021
Ngày xuất bản: 28/6/2021 
125
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
ATTITUDE OF MEDICAL AND NURSING STUDENTS 
TOWARD INTERPROFESSIONAL EDUCATION IN DUY TAN UNIVERSITY
ABSTRACT
Objective: To measure the medical 
and nursing students’ attitude toward 
Interprofessional Education (IPE) and 
Interprofessional health care teamwork 
in Duy Tan University and examine 
the related factors. Method: A cross-
sectional study survey was distributed to 
146 senior medical and nursing students 
at Duy Tan University from December, 
2020 to March, 2021. Attitudes towards 
Interprofessional Health Care Teams 
scale (0.84) and Attitudes towards 
Interprofessional Education (0.76) were 
used to measure primary outcomes. The 
higher total scores indicate the more 
positive attitudes. Results: The mean 
scores range from 38 to 53 indicating 
positive attitudes toward IPE and 28 to 
40 in regards to interprofessional health 
care teamwork. Nursing students were 
found to have significant higher mean 
scores than medical students in attitude 
towards IPE and attitude towards 
interprofessional health care teamwork 
as well (p < 0.01). Students aged above 
25 years reported higher mean scores 
(p<0.05) on IPE, but there was no 
relationship between gender and prior 
experiences to students’ attitude toward 
IPE and Interprofessional health care 
teamwork. Conclusion: Study results 
provided the first baseline to promote 
attitude toward IPE and interprofessional 
health care teamwork. The findings also 
showed that participants were having 
positive attitudes, however there were 
low scores on some items of the survey, 
it was helpful to identify gaps in the 
understanding of students, that will be 
valuable evidence for an institution to 
make decisions on curriculum design 
and provide IPE in education programs.
Keywords: Nursing education, 
Medical education, Attitude, 
Interprofessional education, 
Interprofessional teamwork. 
hiện sinh viên càng có thái độ tích cực. Kết 
quả: Cả sinh viên Y đa khoa và sinh viên 
điều dưỡng đều có nhận thức tích cực về 
IPE (38 – 53 điểm) và nhận thức về hoạt 
động nhóm liên ngành trong chăm sóc sức 
khỏe (28-40 điểm). Sinh viên điều dưỡng 
cho thấy có nhận thức tích cực hơn sinh 
viên y đa khoa (p<0.01). Nhóm sinh viên 
> 25 tuổi có nhận thức tích cực hơn các 
nhóm tuổi còn lại (p<0.05). Không có mối 
liên quan giữa nhận thức của sinh viên với 
giới tính và trải nghiệm trước đây về IPE. 
Kết luận: Kết quả cung cấp dữ liệu đầu 
tiên giúp góp phần cải thiện nhận thức của 
sinh viên về IPE và hoạt động nhóm liên 
ngành trong chăm sóc sức khỏe. Mặc dù 
kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên có 
nhận thức khá tích cực, nhưng trong đó 
vẫn còn một số mục cho điểm số khá thấp, 
thể hiện những thiếu sót trong nhận thức 
của sinh viên. Từ đó giúp cho nhà trường 
có thêm cơ sở để đưa ra quyết định thiết kế 
và đưa IPE vào chương trình đào tạo.
Từ khóa: Điều dưỡng, Y đa khoa, nhận 
thức, giáo dục liên ngành, hoạt động nhóm 
liên ngành.
126
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục liên ngành là cách tiếp cận đã 
được chứng minh là có tiềm năng giúp cải 
thiện chất lượng chăm sóc và hiệu quả tích 
cực trên người bệnh. Nhiều bằng chứng 
nghiên cứu cho thấy thiếu hợp tác giữa bá ...  
trình IPE được duy trì tốt và tạo ra một nền 
tảng IPE bền vững cho trường đại học ở 
Châu Á. Ở Indonesia, các nghiên cứu đã 
cho thấy IPE đã được áp dụng vào chương 
trình đào tạo khối khoa học sức khỏe, đồng 
thời kết quả đánh giá cũng đã đưa ra nhiều 
gợi ý cho việc cải thiện chất lượng đào 
tạo. Vấn đề chính trong việc thực hiện IPE 
là thay đổi văn hóa không chuyên nghiệp 
sang văn hóa đào tạo chuyên nghiệp hơn 
trong cơ sở giáo dục đại học [2].
Mặc dù trong nhiều nghiên cứu trên thế 
giới cũng như khu vực ASEAN đã chỉ ra 
hiệu quả thiết thực của IPE mang lại cho 
việc rèn luyện các kỹ năng cho sinh viên 
khối khoa học sức khỏe và đồng thời về 
lâu dài sẽ góp phần cải thiện vấn đề an 
toàn người bệnh khi sinh viên bước vào 
quá trình thực tập trên lâm sàng [3][4]. Tuy 
nhiên việc áp dụng và đánh giá hiệu quả 
của IPE trong giáo dục y khoa ở Việt Nam 
còn phần nào hạn chế, thể hiện ở việc có 
rất ít nguồn thông tin nghiên cứu liên quan 
đến lĩnh vực này khi được tra cứu. Để góp 
phần đánh giá về nhận thức ban đầu của 
người học về IPE và vai trò của IPE vào 
an toàn người bệnh chính là một khía cạnh 
quan trọng trong lộ trình lên kế hoạch và 
triển khai hình thức IPE vào chương trình 
giáo dục cho sinh viên khối khoa học sức 
khỏe. Chúng tôi tiến hành đề tài nhằm mục 
tiêu: Đánh giá nhận thức về giáo dục kỹ 
năng hoạt động nhóm liên ngành và xác 
định các yếu tố liên quan của sinh viên Khối 
Khoa học Sức khỏe, Trường Đại học Duy 
Tân 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tiêu chuẩn lựa chọn:
Sinh viên năm cuối Y đa khoa (K21YDK) 
và Điều dưỡng (K23YDD), trường Đại học 
Duy Tân
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu: 
Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng 
thời gian từ 12/2020 đến 3/2021 tại Trường 
Đại học Duy Tân.
2.3. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt 
ngang
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn 
mẫu
Cỡ mẫu: 146 sinh viên.
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu toàn 
bộ
Mẫu cho nghiên cứu pilot: 30 sinh viên 
Điều dưỡng.
2.5. Công cụ nghiên cứu
Bộ công cụ đánh giá về thái độ đối với 
IPE được tham khảo từ “Interdisciplinary 
Education Perception Scale”. Gồm 11 
mục với mức độ đánh giá từ 1- “rất đồng 
ý” đến 5- “rất không đồng ý” cho mỗi mục. 
Tổng điểm đi từ 11- 55 điểm. Điểm số càng 
cao cho thấy thái độ càng tích cực. Chỉ số 
Cronbach’s alpha cho bộ câu hỏi sau khi 
điều chỉnh là 0.76.
Bộ công cụ đánh giá về thái độ đối với 
hoạt động nhóm liên ngành trong chăm sóc 
sức khỏe được tham khảo từ “Attitudes 
Toward Health Care Teams Scale” [2]. Gồm 
127
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
8 mục với mức độ đánh giá từ 1- “rất đồng ý” đến 5- “rất không đồng ý” cho mỗi mục. 
Tổng điểm đi từ 08 - 40 điểm. Điểm số càng cao cho thấy thái độ càng tích cực. Chỉ số 
Cronbach’s alpha cho bộ câu hỏi sau khi điều chỉnh là 0.84.
2.6. Xử lý và phân tích số liệu
Nhập dữ iệu và xử lý theo phần mềm SPSS 20.0, sử dụng các test thống kê mô tả và 
Anova test để mô tả và tìm mối liên quan và so sánh. 
3. KẾT QUẢ 
Bảng 1. Phân bố về giới tính, nhóm tuổi, ngành học và trải nghiệm liên quan 
đến IPE của đối tượng nghiên cứu
Nội dung SL TL %
Giới tính
Nam 
Nữ
49
97
33,6
66,4
Tuổi
<=22
23 – 24
>=25
69
56
21
47.3
34.3
14.4
Ngành học
Điều dưỡng
Y đa khoa
78
68
53.4
46.6
Trải nghiệm liên quan đến IPE
Có
Không 
101
45
60.2
39.8
Trong 146 sinh viên tham gia nghiên cứu có 53.4% là sinh viên năm cuối ngành Điều 
dưỡng và 46.6% là sinh viên Y đa khoa. Nữ giới chiếm 66,4 % (n=97). Đa số sinh viên 
tham gia nghiên cứu nằm trong độ tuổi < 22 tuổi. Có 69.2% (n=101) sinh viên cho biết đã 
từng có tham gia các hoạt động điều trị, chăm sóc trong đó có sự phối hợp với các nhân 
viên y tế khác ngành hoặc được đào tạo về kỹ năng hoạt động nhóm liên ngành.
Bảng 2. Thái độ về giáo dục liên ngành và nhận thức về thực hành 
hoạt động nhóm liên ngành trong an toàn người bệnh
Thang đánh giá Thang đánh giá Thực tế TB Tổng
Thái độ về giáo dục liên ngành 11-55 38- 53 42.75 ± 2.97
Thái độ về thực hành hoạt động nhóm 
liên ngành trong an toàn người bệnh 8-40 28- 40 33.39 ± 2.68
Sinh viên có Thái độ tích cực về IPE với 42.75 ± 2.97 và Thái độ của sinh viên về thực 
hành hoạt động nhóm liên ngành trong an toàn người bệnh cũng đạt điểm số trung bình 
33.39 ± 2.68.
128
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
Bảng 3. Các yếu tố liên quan đến thái độ về việc giáo dục liên ngành và thái độ 
về thực hành hoạt động nhóm liên ngành trong an toàn người bệnh.
Nội dung
IPE TEAM
n M±SD F/t M±SD F/t
 Tuổi
≤ 22
23 - 24
≥ 25
69
56
21
3.84 ± 0.22
3.96± 0.65
4.08± 0.24
F(2,143)=2.83
p<0.01
4.16 ± 0.32
4.17 ± 0.33
4.22 ± 0.40
F(2,143)= 0.31 
p>0.05
Ngành học
Điều dưỡng
Y đa khoa
78
68
4.11 ± 0.36
3.89 ± 0.41
= 3.406
p< 0.01
4.39 ± 0.47
4.15 ± 0.42
= 143.833
p< 0.01
Đã phối hợp hoạt động với nvyt khác ngành hoặc được trải nghiệm về IPE
Có 
Không 
101
45
4.02± 0.39
3.96± 0.41
= -0.652
p>0.05
4.25 ± 0.46
4.34 ± 0.46
= 1.094
p>0.05
Những yếu tố có sự liên quan đến thái độ của sinh viên khối khoa học sức khỏe về IPE 
là nhóm tuổi (F(2,143)=2.83, p<0.01) và ngành học = 3.406, p= 0.001). Có sự tăng dần về 
điểm số trung bình theo nhóm tuổi, điểm trung bình thái độ về giáo dục liên ngành của sinh 
viên điều dưỡng cao hơn sinh viên y đa khoa. Mặt khác, chỉ có sự liên quan giữa ngành 
học và thái độ của sinh viên về hoạt động nhóm y tế liên ngành trong đó sinh viên điều 
dưỡng cũng có điểm trung bình cao hơn sinh viên y đa khoa (p<0.01).
Bảng 4. So sánh điểm trung bình thành phần thái độ về IPE
Nội dung
Y đa khoa Điều dưỡng
M±SD M±SD
IPE giúp có cơ hội rèn luyện để trở thành một thành 
viên đắc lực trong nhóm chăm sóc sức khỏe. 4.04 ± 0.63 4.35 ± 0.66
IPE giúp hiểu sâu hơn các vấn đề trên lâm sàng 4.22 ± 0.67 4.44 ± 0.52
IPE nên được đưa vào chương trình giảng dạy 3.96 ± 0.66 4.28 ± 0.68
Việc đào tạo kỹ năng làm việc nhóm là rất quan trọng. 4.16 ± 0.61 4.47 ± 0.57
IPE giúp người học hiểu hơn về những mặt còn hạn 
chế của mình. 4.09 ± 0.62 4.41 ± 0.52
IPE giúp sinh viên hiểu và có suy nghĩ tích cực hơn về 
ngành khác 4.12 ± 0.59 4.35 ± 0.55
Để học tập và làm việc nhóm, mỗi thành viên cần tôn 
trọng và tin tưởng những thành viên khác. 4.19 ± 0.68 4.51 ± 0.55
Những vấn đề trên lâm sàng chỉ có thể được xử lý hiệu 
quả bởi những sinh viên cùng ngành.* 3.42 ± 1.11 3.67 ± 0.97
IPE sẽ giúp người học có thêm nhiệt tình và hứng thú 
với công việc 4.07 ± 0.65 4.14 ± 0.63
Để tham gia vào hoạt động nhóm liên ngành, cần phải có 
nhiều kiến thức và kỹ năng hơn những sinh viên khác.* 2.50 ± 0.89 2.42 ± 0.93
Sẵn sàng tham gia những dự án theo nhóm nhỏ với 
những sinh viên/ chuyên gia chăm sóc sức khỏe ngành 
KHSK khác
4.03 ± 0.49 4.10 ± 0.34
Trung bình chung 3.89 ± 0.41 4.11 ± 0.36
129
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
Đa số sinh viên điều dưỡng và y đa khoa 
đều có điểm trung bình thành phần thái độ 
về IPE tương đối tích cực. Trong đó các lựa 
chọn thuộc nhóm có điểm số trung bình cao 
nhất lần lượt là “IPE giúp hiểu sâu hơn các 
vấn đề trên lâm sàng” “Việc đào tạo kỹ năng 
làm việc nhóm là rất quan trọng đối với tất 
cả sinh viên/ nhân viên y tế” và “Để học tập 
và làm việc nhóm, mỗi thành viên cần tôn 
trọng và tin tưởng những thành viên khác”. 
Ngoài ra việc cân nhắc nên đưa IPE vào 
chương trình giảng dạy lại có điểm đánh 
giá khá thấp ở sinh viên y đa khoa (M=3.96, 
SD=0.66) nhưng cao hơn ở sinh viên điều 
dưỡng (M=4.28, SD=0.68).
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu có sự tham gia của 68 sinh 
viên Y đa khoa (46.6%) và 78 sinh viên 
điều dưỡng (53.4%). Trong đó có 69.2% 
sinh viên đã từng trải nghiệm về các 
hoạt động điều trị, chăm sóc trong đó có 
sự phối hợp với các nhân viên y tế khác 
ngành trong quá trình thực tập trên lâm 
sàng. Hầu hết sinh viên có phản hồi đã 
trải nghiệm hoặc kiến tập hình thức này 
thông qua việc phối hợp hoạt động cùng 
các nhân viên y tế hay các sinh viên khác 
ngành cũng đang trong quá trình được đi 
thực tập, thực tế trên lâm sàng. Tỷ lệ này 
cao hơn so với nghiên cứu của Curran 
và cộng sự (2008) trên 1359 với 46.6% 
sinh viên cho biết đã từng trải qua ít nhất 
một lần được trải nghiệm IPE [5]. Tuy vậy 
nghiên cứu của Yune và cộng sự (2020) 
trên 1084 sinh viên khối khoa học sức 
khỏe cho thấy 89,6% sinh viên không biết 
đến khái niệm IPE [6]. 
Sinh viên có thái độ tích cực về vấn đề 
giáo dục liên ngành với điểm trung bình tổng 
(M=42.75, SD=2.97) và trung bình chung 
các mục lựa chọn (M=4.00, SD=0.66) khá 
cao, trung bình điểm thái độ về IPE trong 
nghiên cứu của Curran và cộng sự (2008) 
(M=3.99, SD=0.49) [5]. Trong một nghiên 
cứu định tính của Fawaz và cộng sự (2019) 
cũng cho thấy một thái độ tích cực của sinh 
viên điều dưỡng về IPE [7].
Thái độ về thực hành hoạt động nhóm 
liên ngành trong an toàn người bệnh 
đạt điểm số trung bình tổng (M=33.39, 
SD=2.68) và trung bình chung các mục lựa 
chọn (M=4.26, SD=0.48) ở mức tương đối 
cao, cao hơn so với bệnh trong nghiên cứu 
của Curran và cộng sự (M=3.98, SD=0.43) 
[5]. Tuy vậy theo June và cộng sự (2020) 
cho thấy mức độ nhận thức về IPE của 
sinh viên trong nghiên cứu của tác giả trên 
thực tế thấp hơn mức yêu cầu năng lực mỗi 
chuyên ngành. [6].
Mặc dù trong nghiên cứu của chúng tôi 
thì không có sự khác nhau trong cả thái 
độ về IPE (=-1.660, p>0.05) và thái độ 
về thực hành hoạt động nhóm liên ngành 
trong an toàn người bệnh =-0.923, p>0.05) 
giữa sinh viên nam và nữ, tuy vậy kết quả 
cũng cho thấy sinh viên nữ có điểm số 
trung bình thái độ cao hơn nam. Trong 
nghiên cứu của June và cộng sự (2020) 
thì điểm thái độ về IPE của sinh viên nữ 
(M = 3.53, SD = 0.75) cao hơn sinh viên 
nam (M = 3.79, SD = 0.74), (t = -5.457 p < 
0.001) [6]. Tương tự trong nghiên cứu của 
Curran và cộng sự (2008) lại cho thấy giới 
tính có liên quan đến nhận thức về thực 
hành hoạt động nhóm liên ngành trong an 
toàn người bệnh (F1,1168 = 12.686, p = 
0.000), trong đó sinh viên nữ (M = 3.96, 
SD = 0.446) có điểm trung bình cao hơn 
nam (M = 3.83, SD = 0.398) và nhận thức 
về IPE của sinh viên nữ (M = 4.03, SD 
= 0.470) cao hơn sinh viên nam (M = 
3.79, SD = 0.561), (F1,1165 = 39.730, P 
= 0.000) [7]. 
Thái độ về IPE của sinh viên điều dưỡng 
(M=4.11, SD = 0.36) có điểm trung bình 
cao hơn sinh viên y đa khoa (M=3.89, SD 
= 0.41) (= 3.406, p<0.01). Điều này cũng 
được đề cập đến ở các kết quả nghiên 
cứu khác với điểm số đánh giá thái độ của 
sinh viên y đa khoa thấp hơn sinh viên các 
130
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 04 - Số 02
ngành còn lại [6], [8], [9]. Theo Van và cộng 
sự (2012) thì sinh viên y đa khoa dường 
như còn hoài nghi về IPE hơn những sinh 
viên thuộc khối khoa học sức khỏe khác và 
có xu hướng xem nhẹ IPE hơn. Sinh viên 
y khoa coi IPE là một sự lãng phí thời gian 
do chương trình học chặt chẽ và gánh nặng 
học tập quá mức và có xu hướng ít quan 
tâm và đam mê hơn đối với việc triển khai 
IPE trong chương trình học [10].
Tương tự như điểm trung bình thái độ về 
IPE thì điểm trung bình thái độ về thực hành 
hoạt động nhóm liên ngành trong an toàn 
người bệnh trong nghiên cứu của sinh viên 
điều dưỡng (M=4.39, SD=0.47) cao hơn 
sinh viên y đa khoa (M=4.15, SD=0.42), = 
143.833, p< 0.01). Thêm một lần nữa lại có 
sự tương đồng giữa nghiên cứu của chúng 
tôi với kết quả nghiên cứu của Curran và 
cộng sự (2008) [7]. 
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy sinh viên được biết 
đến IPE thông qua các hoạt động không 
thuộc chính khóa hay các hoạt động trải 
nghiệm trên lâm sàng nhưng nhận thức 
của sinh viên về IPE đều khá tích cực. Mặc 
dù vậy vẫn tồn tại các quan điểm thành kiến 
về ngành nghề tạo nên rào cản cho việc 
tiếp thu và sẵn sàng cho triển khai IPE hiệu 
quả. Kết quả cung cấp dữ liệu đầu tiên giúp 
góp phần cải thiện nhận thức của sinh viên 
về IPE và hoạt động nhóm liên ngành trong 
chăm sóc sức khỏe. Từ đó giúp cho nhà 
trường có thêm cơ sở để đưa ra quyết định 
thiết kế và đưa IPE vào chương trình đào 
tạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Friman A., Edström D.W., Edelbring 
S (2017). Attitudes and perceptions from 
nursing and medical students towards the 
other profession in relation to wound care, 
Journal of Interprofessional Care; 31(3):1-8
2. IPEC (2016). Core Competencies for 
Interprofessional Collaborative Practice: 
Report of an Expert Panel. Washing- 
ton, DC: Interprofessional Education 
Collaborative;11: 1351.
3. Mladenovic J., Tilden V.P. (2017). 
Strategies for overcoming barriers to IPE 
at a health sciences university. Journal of 
Interprofessional Education & Practice; 8: 
10-13.
4. Gordon MA., Lasater K., Brunett P 
et al (2015). Interprofessional education: 
finding a place to start. Nurse Educ; 40: 
249–53.
5. Curran V.R., Sharpe D., Forristall J 
et al (2008). Attitudes of health sciences 
students towards interprofessional 
teamwork and education. Learning in 
Health and Social Care; 7 (3): 146–156.
6. Yune S.J., Park K.H., Min Y.H et al 
(2020). Perception of interprofessional 
education and educational needs of 
students in South Korea: A comparative 
study. PLoS ONE; 15(12).
7. Fawaz M., Anshasi H.A (2019). 
Senior nursing student’s perceptions of 
an interprofessional simulation-based 
education (IPSE): A qualitative study. 
Elsevier Ltd; 5: 2405-8440.
8. Maeno T et al (2019) Interprofessional 
education in medical schools in Japan, 
PLoS ONE; 14(1).
9. Curran V.R., Sharpe D., Forristall 
J (2007). Attitudes of health sciences 
faculty members towards interprofessional 
teamwork and education, Medical 
Education; 41: 892–896.
10. Winkle L.J.V et al (2012). 
Interprofessional Workshop to Improve 
Mutual Understanding Between Pharmacy 
and Medical Students. American Journal of 
Pharmaceutical Education; 76 (8).

File đính kèm:

  • pdfthai_do_ve_giao_duc_ky_nang_hoat_dong_nhom_lien_nganh_cua_si.pdf