Tần suất và mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh trung học phổ thông tại TP. Hồ Chí Minh
Đặt vấn đề: Hành vi tự làm tổn thương (HVTLTT) bao gồm nhiều hành vi tự gây thương tích lên cơ thể
chính mình. HVTLTT có thể gây ảnh hưởng trước mắt và lâu dài cho người thực hiện. Tuy nhiên, hiện có rất ít
nghiên cứu về vấn đề này ở vị thành niên tại Việt Nam.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tần suất của các loại hành vi và các mục đích của hành vi tự làm
tổn thương ở học sinh trung học phổ thông (THPT) tại thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM).
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 36 lớp trong 6 trường tại 6
quận/huyện TP.HCM vào tháng 5 năm 2019 với sự tham gia của 1316 học sinh thỏa tiêu chí chọn mẫu. Học sinh
trả lời bộ câu hỏi tự điền được soạn sẵn gồm thông tin cá nhân, gia đình, môi trường học tập, rối loạn sức khỏe
tâm thần bằng thang đo DASS-21 và hành vi tự làm tổn thương bằng thang đo FASM.
Kết quả: Trong số 1316 học sinh tham gia nghiên cứu thì nữ chiếm đa số (63,3%) và phân bố gần như nhau
ở các khối lớp (35,3% khối 10; 35,3% khối 11 và 29,4% khối 12). Tỉ lệ học sinh có HVTLTT trong nghiên cứu là
46,5%. Các hành vithường được học sinh THPT sử dụng là tự đánh mình, chọc phá vết thương, tự cắn và kéo
giật tóc của mình. Nam có tỉ lệ kéo giật tóc và làm bỏng da cao hơn nữ (p<0,05). Mục đích phổ biến nhất khi thực
hiện hành vi là ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực, để trừng phạt chính mình, kiểm soát tình hình hoặc để thư
giãn. Sự khác biệt về các mục đích giữa nam và nữ, khối lớp cũng được xác định.
Kết luận: Các học sinh sử dụng nhiều phương pháp tự làm tổn thương khác nhau để phục vụ cho các mục
đích khác nhau. Hành vi tự làm bỏng da và kéo giật tóc có sự khác biệt giữa nam và nữ. Một số mục đích thực
hiệnHVTLTT có liên quan đến giới và khối lớp. Kết quả cho thấy cần có sự hỗ trợ can thiệp và quản lí để tránh
những hậu quả từ HVTLTT trên đối tượng học sinh THPT.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tần suất và mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh trung học phổ thông tại TP. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 208 TẦN SUẤT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HÀNH VI TỰ LÀM TỔN THƯƠNG Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Vân Thảo*, Nguyễn Phương Thảo*, Thái Thanh Trúc* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hành vi tự làm tổn thương (HVTLTT) bao gồm nhiều hành vi tự gây thương tích lên cơ thể chính mình. HVTLTT có thể gây ảnh hưởng trước mắt và lâu dài cho người thực hiện. Tuy nhiên, hiện có rất ít nghiên cứu về vấn đề này ở vị thành niên tại Việt Nam. Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tần suất của các loại hành vi và các mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh trung học phổ thông (THPT) tại thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 36 lớp trong 6 trường tại 6 quận/huyện TP.HCM vào tháng 5 năm 2019 với sự tham gia của 1316 học sinh thỏa tiêu chí chọn mẫu. Học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền được soạn sẵn gồm thông tin cá nhân, gia đình, môi trường học tập, rối loạn sức khỏe tâm thần bằng thang đo DASS-21 và hành vi tự làm tổn thương bằng thang đo FASM. Kết quả: Trong số 1316 học sinh tham gia nghiên cứu thì nữ chiếm đa số (63,3%) và phân bố gần như nhau ở các khối lớp (35,3% khối 10; 35,3% khối 11 và 29,4% khối 12). Tỉ lệ học sinh có HVTLTT trong nghiên cứu là 46,5%. Các hành vithường được học sinh THPT sử dụng là tự đánh mình, chọc phá vết thương, tự cắn và kéo giật tóc của mình. Nam có tỉ lệ kéo giật tóc và làm bỏng da cao hơn nữ (p<0,05). Mục đích phổ biến nhất khi thực hiện hành vi là ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực, để trừng phạt chính mình, kiểm soát tình hình hoặc để thư giãn. Sự khác biệt về các mục đích giữa nam và nữ, khối lớp cũng được xác định. Kết luận: Các học sinh sử dụng nhiều phương pháp tự làm tổn thương khác nhau để phục vụ cho các mục đích khác nhau. Hành vi tự làm bỏng da và kéo giật tóc có sự khác biệt giữa nam và nữ. Một số mục đích thực hiệnHVTLTT có liên quan đến giới và khối lớp. Kết quả cho thấy cần có sự hỗ trợ can thiệp và quản lí để tránh những hậu quả từ HVTLTT trên đối tượng học sinh THPT. Từ khóa: hành vi tự làm tổn thương, học sinh ABSTRACT FREQUENCY OF AND REASONS FOR SELF-INJURY BEHAVIOR IN HIGH SCHOOL STUDENTS IN HO CHI MINH CITY Pham Van Thao, Nguyen Phuong Thao, Thai Thanh Truc * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 208 – 215 Background: Self-injury behaviors (SIB) include many self-harm activities that cause injury to one’s own body. SIB can result in both short term and long term affect on the doers' health. However, little is known about this in adolescents in Vietnam. Therefore, this study was to determine the frequency of and reasons for SIB in high school students in Ho Chi Minh City. Methods: A cross-sectional study was conducted at 36 classes in 6 schools in 6 districts within Ho Chi Minh City on May 2019 with the participation of 1316 eligible students. Students completed a self-reported questionnaire which included information about demographic characteristics, family environment, school environment, mental health measured by the DASS-21 and SIB assessed by the FASM. *Khoa Y tế Công Cộng, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS. Phạm Vân Thảo ĐT: 0343661112 Email: phamvanthao4394@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 209 Results: Among 1316 students participated in this study, the majority were female (63.3%) and the number of participants was approximately equal in each grade (33.5% grade 10; 35.3% grade 11 and 29.4% grade 12). The prevalence of self-injury in the students was 46,5%. The most commonly used behaviors were hitting yourself, picking at a wound, bitting yourself, pulling your hair out. Males were more likely to involve in pulling their hair out and burning their skin as compared to females (p <0.05). The most common reasons for having SIB were to stop bad feelings, followed by to punish yourself, to get control of a situation and to feel relaxed. The differences in reasons for SIB between males and females, among different grades were found. Conclusion: Students use various types of SIB for different reasons. and Behaviors such as self-burning skin and pulling out hair were dissimilar between male and female. There were associations between SIB, reasons for SIB with sex and grade. The findings revealed the necessity of an intervention strategy and management to avoid consequences of SIB in high school students. Keyword: self-injury behavior, reason, student ĐẶT VẤN ĐỀ Hành vi tự làm tổn thương (HVTLTT) được hiểu là hành động có chủ ý, trực tiếp tự gây thương tích lên da thịt trên các bộ phận của cơ thể. HVTLTT được ghi nhận tỉ lệ nhiều nước trên thế giới từ 7,5 – 46,5% ở vị thành niên, 38,9% sinh viên đại học(6). Ở thanh thiếu niên các nước như Trung Quốc là 46,4%(2), 33,8% ở Ấn Độ(4), 16,8% ở Nhật Bản(22), 25,2% ở Hoa Kì(14), tỉ lệ chung các nước châu Âu là 27,6%(5). Tại Việt Nam, điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) lần 2 năm 2010 báo cáo tỉ lệ HVTLTT là 7,5%(20), của Huỳnh Văn Sơn trên đối tượng THCS là 31,6%(10). Mỗi cá nhân tham gia vào những hành vi này với kỳ vọng rằng tổn thương sẽ gây ra đau đớn thể chất để điều chỉnh cảm xúc. Các HVTLTT phổ biến thường được báo cáo bao gồm cắt tay, rạch da, tự đánh chính mình, đập đầu, tự cắn mình, tự xăm mình, làm bỏng da, kéo giật tóc, chà sát lên da và một số hành động làm tổn thương khác được biểu hiện theo nhiều cách khác nhau(11). Mục đích để điều tiết cảm xúc là mục đích được sử dụng rộng rãi nhất để ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực như căng thẳng, buồn bã, tức giận(13) hay đơn giản muốn gây sự chú ý hoặc gây tổn thương chỉ để cảm thấy được thư giãn. Thêm vào đó, những người thực hiện HVTLTT có thể vì nhiều mục đích khác ... 27,8) 101 (27,7) 59 (28,5) 60 (29,0) 39 (25,0) Để nhận được nhiều sự chú ý hơn từ cha mẹ hoặc bạn bè của bạn 158 (27,7) 60 (29,3) 98 (26,8) 61 (29,5) 55 (26,6) 42 (26,9) Để cố gắng có được phản ứng từ ai đó, thậm chí đó là phản ứng tiêu cực 157 (27,5) 61 (29,8) 96 (26,3) 61 (29,5) 44 (21,3) 52 (33,3)* Để người khác biết bạn tuyệt vọng như thế nào 154 (27,1) 55 (26,8) 99 (27,2) 49 (23,7) 62 (30,0) 43 (27,7) Để người khác đối xử với bạn khác đi hoặc thay đổi cách đối xử trước đó của họ 135 (23,7) 47 (22,9) 88 (24,2) 45 (21,7) 48 (23,2) 42 (27,1) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 213 Mục đích của HVTLTT Chung n (%) Đặc điểm Nam n (%) Nữ n (%) Khối 10 n (%) Khối 11 n (%) Khối 12 n (%) Để tránh tiếp xúc với mọi người 122 (21,4) 43 (21,0) 79 (21,7) 45 (21,7) 41 (19,8) 36 (23,2) Để nhận được sự giúp đỡ 113 (19,9) 48 (23,4) 65 (17,9) 39 (18,8) 43 (20,8) 31 (20,0) Để gây sự chú ý 91 (16,0) 36 (17,6) 55 (15,1) 31 (15,0) 34 (16,4) 26 (16,7) Để cảm nhận nhiều hơn mình là một phần của một nhóm 91 (16,0) 35 (17,1) 56 (15,4) 37 (17,9) 33 (15,9) 21 (13,5) Để làm người khác tức giận 81 (14,2) 36 (17,6) 45 (12,4) 28 (13,5) 32 (15,5) 21 (13,5) Để tránh sự trừng phạt hoặc sự lãnh chịu hậu quả 89 (15,6) 39 (19,0) 50 (13,7) 32 (15,5) 40 (19,3) 17 (11,0) Để cho bản thân một việc phải làm khi ở bên người khác 69 (12,1) 32 (15,6) 37 (10,2) 28 (13,5) 25 (12,1) 16 (10,3) Để cho giống như một người mà bạn tôn sùng 28 (4,9) 18 (8,8) 10 (2,7)** 11 (5,3) 12 (5,8) 5 (3,2) **p<0,01; *p<0,05 Kết quả từ Bảng 3 cho thấymức độ phổ biến và tần suất của mục đích khi thực hiện HVTLTT. Mục đích phổ biến nhất là để ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực, để trừng phạt chính mình, kiểm soát tình hình hoặc để thư giãn. Mục đích thực hiện HVTLTT có khác biệt theo giới là nhằm trừng phạt chính mình (nữ cao hơn nam) và nhằm giống một người mà các em tôn sùng (nam cao hơn nữ). Có mối liên quan giữa các khối lớp và mục đích khi thực hiện HVTLTT. Trong đó học sinh khối 12 có tỉ lệ cao hơn về các mục đích như để trừng phạt chính mình, hoặc để cố gắng có được phản ứng từ ai đó (thậm chí đó là phản ứng tiêu cực). Học sinh khối 10 lại có tỉ lệ mục đích thực hiện HVTLTT cao nhất so với các khối 11 và 12 là nhằm ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực. BÀN LUẬN Tại Việt Nam, HVTLTT đang là vấn đề dần trở nên phổ biến, thu hút sự chú ý từ xã hội cũng như trở thành mối quan tâm từ các nhà nghiên cứu. Nghiên cứu này là một trong số ít nghiên cứu tại Việt Nam cũng như tại TP. Hồ Chí Minh tìm hiểu chi tiết về các loại hành vi và mục đích khi thực hiện HVTLTT của học sinh THPT cũng như sự phân bố của các tỉ lệ này theo phân nhóm giới và khối lớp. Từ tổng mẫu ban đầu 1707 học sinh tham gia nghiên cứu, nghiên cứu loại ra 391 học sinh theo như tiêu chí, tỉ lệ phản hồi là 77,1%. Tuy nhiên, trong số này có tới 327 học sinh không được sự đồng ý của PHHS/người giám hộ thuộc tiêu chí loại ra và chiếm phần lớn tỉ lệ mất mẫu (19,2%). Các nghiên cứu trước đây, hình thức lấy đồng thuận được tiến hành chủ yếu dưới dạng “bị động” trong đó phụ huynh được thông báo và phụ huynh nào không muốn học sinh tham gia thì gửi phản hồi cho nhà trường, nếu không phản hồi thì xem như đồng ý và khi đó tỉ lệ mất mẫu thấp. Trong nghiên cứu hiện tại, theo yêu cầu của hội đồng đạo đức, chúng tôi tiến hành lấy đồng thuận “chủ động”, trong đó học sinh tham gia nghiên cứu phải có chữ ký đồng ý của PHHS/người giám hộ trước khi được phép tham gia trả lời bộ câu hỏi. Điều này dẫn đến tỉ lệ mất mẫu cao hơn và khá tương đồng với nghiên cứu có hình thức lấy đồng thuận tương tự(4). Từ kết quả phân tích, có thể nhận thấy các học sinh sử dụng khá nhiều phương pháp để tự làm tổn thương. Tần suất sử dụng các hành vi có khác so với trong bài phân tích tổng hợp của Cipriano và cộng sự(6) khi các hành vi tự cắt/khắc trên da, tự đánh và làm bỏng da mình là nhiều nhất.Trong khi đó, kết quả của chúng tôi lại khá tương đồng khi so với quốc gia có nền văn hóa và điều kiện phát triển tương đồng với Việt Nam như Trung Quốc với hành vi tự đánh mình là nhiều nhất (16,7), kéo giật tóc (11,2%) và tự cắn mình (7,0%).Về các mục đích khi thực hiện HVTLTT, tương tự như trong nghiên cứu gộp của Taylor và cộng sự(25), những mục đích phổ biến nhất là kiểm soát tình hình (63,8%), ngăn chặn cảm xúc tiêu cực (62,8%), trừng phạt mình (41,6%) hay để thư giãn (30,5%). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 214 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có một số khác biệt giữa nam và nữvới các loại hành vi cũng như mục đích khi thực hiện HVTLTT. Thống kê từ nhiều y văn trên các quốc gia khác nhau cho thấy(3,6,15,23), giới tính là yếu tố không hằng định trong các mối liên quan với HVTLTT. Nghiên cứu của Tang và cộng sự(24), các loại hành vi đều có sự khác nhau giữa nam và nữ nhưng nghiên cứu của Lang và cộng sự(15) lại không tìm thấy sự khác biệt trong nghiên cứu và ở nghiên cứu của Bresin cũng chỉ ra rằng chỉ có một số hành vi là đưa đến sự khác biệt, như kéo giật tóc, đập đầu vào tường. Theo Tổ ChứcY Tế Thế Giới(27), sự khác biệt giữa giới tính được tìm thấy trong các rối loạn tâm thần như trầm cảm, lo âu, rối loạn ăn uống có xu hướng thiên về nữ giới, tuy nhiên ở nam giới, họ có xu hướng gặp nhiều vấn đề dễ gây nên sự tức giận cũng như có nhiều hành vi có ý nghĩ nguy hiểm táo bạo hơn. Nói cách khác, cả nam và nữ đều có nhu cầu điều tiết cảm xúc của mình, nhưng mục đích của HVTLTT có thể khác nhau. Mặc dù tỉ lệ các HVTLTT là cao ở các khối lớp nhưng nghiên cứu của chúng tôi không thấy sự khác biệt về các HVTLTT giữa các khối lớp. Tuy nhiên, một số mục đích thực hiện HVTLTT lại có sự khác nhau giữa các khối lớp. Các nghiên cứu trước thường không đề cập đến khối lớp nhưng thay vào đó là độ tuổi, trong đó thể hiện mối liên hệ giữa độ tuổi và HVTLTT cũng như các mục đích của nó là không rõ ràng. Hành vi có thể tăng hoặc giảm theođộ tuổi(2) cũng như cách nhìn nhận về hành vi sẽ thay đổi theo thời gian(1,8). Đồng thời dù ở độ tuổi nào, mọi người đều có nhu cầu sử dụng hành vi để điều chỉnh những áp lực, căng thẳngvà những người thực hiện HVTLTT có thể sử dụng nhiều phương pháp tự làm tổn thương khác nhau để phục vụ cho các mục đích khác nhau(18). HVTLTT được xem là hành vi đối phó không lành mạnh bởi mức độ tổn thương thể chất để lại cũng như mối liên quan với tự tử vẫn đang là vấn đề tranh cãi khi có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng HVTLTT là những bước đầu ở những người có ý định tự tử về sau(12,19). Từ kết quả phân tích kết hợp với bằng chứng hiện có trên y văn cho thấy cần có những chương trình can thiệp, phòng ngừa các HVTLTT của học sinh. Kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi bổ sung phần nào những hiểu biết chưa đầy đủ về HVTLTT ở học sinh THPT; cung cấp bằng chứng khoa học cho nhà trường, các nhà nghiên cứu, chuyên gia trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần hướng tới mục tiêu chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lí hành vi cho trẻ vị thành niên ngày một tốt hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu này có một số điểm hạn chế cần cân nhắc khi ứng dụng. Thứ nhất, đây này là một trong những nghiên cứu đầu tiên nên chủ yếu dựa vào thang đo đánh giá FASM vốn chỉ được dịch sang tiếng Việt mà chưa có nghiên cứu đánh giá tính giá trị và tính tin cậy trên vị thành niên Việt Nam. Điều này có thể dẫn đến một số sai lệch thông tin. Thứ hai, tỉ lệ phụ huynh từ chối tham gia nghiên cứu là cao. Có khả năng những học sinh mà phụ huynh từ chối cho tham gia nghiên cứu là những đối tượng có HVTLTT. Vì vậy, nghiên cứu này có thể có sai lệch trong chọn mẫu. Tuy nhiên, điều này là không tránh khỏi vì hội đồng đạo đức yêu cầu phải có sự đồng ý của phụ huynh trước khi học sinh được phép trả lời bộ câu hỏi. Trong khi đó các nghiên cứu trước thường lấy thông tin trực tiếp từ học sinh và đồng ý tham gia hay không là do chính học sinh. KẾT LUẬN Các học sinh THPT tại thành phố Hồ Chí Minh sử dụng nhiều phương pháp tự làm tổn thương khác nhau để phục vụ cho các mục đích khác nhau. Một số HVTLTL và lý do của nó có liên quan đến giới và khối lớp. Kết quả cho thấy cần có sự hỗ trợ can thiệp và quản lí để tránh những hậu quả từ HVTLTT trên đối tượng học sinh THPT. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Andrews T, Martin G, Hasking P, Page A (2013). "Predictors of continuation and cessation of nonsuicidal self-injury". J Adolesc Health, 53(1):40-46. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 215 2. Barrocas AL, Giletta M, Hankin BL, Prinstein M, Abela JRZ (2014). "Nonsuicidal Self-Injury in Adolescence: Longitudinal Course, Trajectories, and Intrapersonal Predictor". J Abnorm Child Psycho, 43(2):369-380. 3. Barrocas AL, Hankin BL, Young JF, Abela JR (2012). "Rates of nonsuicidal self-injury in youth: age, sex, and behavioral methods in a community sample". Pediatrics, 130(1):39-45. 4. Bhola P, Manjula M, Rajappa V, Phillip M (2017). "Predictors of non-suicidal and suicidal self−injurious behaviours, among adolescents and young adults in urban India". Asian Journal of Psychiatry, 29:123-128. 5. Brunner R, Kaess M, Parzer P, Fischer G, Carli V, Hoven CW, et al (2013). "Life-time prevalence and psychosocial correlates of adolescent direct self-injurious behavior: A comparative study of findings in 11 European countries". Journal of Child Psychology and Psychiatry, 55(4):337–348. 6. Cipriano A, Cella S, Cotrufo P (2017). "Nonsuicidal Self-injury: A Systematic Review". Front Psychol, 8:1946. 7. Dương Thị Thu Hương (2017). Mối quan hệ giữa gắn kết xã hội và hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông. Luận án Tiến sĩ, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 8. Hamza C, Willoughby T (2014). "A Longitudinal Person- Centered Examination of Nonsuicidal Self-injury Among University Students". Journal of Youth and Adolescence, 43(3):671– 685. 9. Hilt LM, Cha CB, Nolen-Hoeksema S (2008). "Nonsuicidal self- injury in young adolescent girls: moderators of the distress- function relationship". J Consult Clin Psychol, 76(1):63-71. 10. Huỳnh Văn Sơn và cộng sự (2018). Hiện tượng tự hủy hoại bản thân của học sinh trung học cơ sở (THCS) và biện pháp phòng ngừa. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Viện chiến lược và chính sách tài chính, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 24 trang. 11. International Society for the Study of Self Injury (ISSS) (2018). What is Nonsuicidal Self-injury? URL: https://itriples.org/category/about-self-injury/. 12. Klonsky ED, May AM, Glenn CR (2013). "The relationship between nonsuicidal self-injury and attempted suicide: converging evidence from four samples". J Abnorm Child Psychol, 122(1):231-237. 13. Klonsky ED (2007). "The functions of deliberate self-injury: a review of the evidence". Clinical Psychology Review, 27(2):226-239. 14. Klonsky ED, Olino TM (2008). "Identifying clinically distinct subgroups of self-injurers among young adults: a latent class analysis". J Consult Clin Psychol, 76(1):22-27. 15. Lang J, Yao YS (2018). "Prevalence of nonsuicidal self-injury in chinese middle school and high school students: A meta- analysis". Medicine (Baltimore), 97(42):e1916. 16. Lloyd EE, Kelley ML (1997). Self-Mutilation in a Community Sample of Adolescents. Ph.D thesis, Psychology, Louisiana State University and Agricultural & Mechanical College. 17. Lloyd-Richardson EE, Perrine N, Dierker L, Kelley ML (2007). "Characteristics and functions of non-suicidal self-injury in a community sample of adolescents". Psychol Med, 37(8):1183– 1192. 18. Muehlenkamp JJ, Brausch AM, Quicgley K, Whitlock JL (2013). "Interpersonal Features and Functions of Nonsuicidal Self- injury". Suicide and Life-Threatening Behavior, 43(1):67. 19. Müller A, Claes L, Smits D, Brähler E, Zwaan M (2016). "Prevalence and Correlates of Self-Harm in the German General Population". PLoS One, 11(6):e0157928. 20. Nguyễn Thanh Hương (2010). Điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ 2. Báo cáo chuyên đề Sức khỏe tâm thần của vị thành niên và thanh niên Việt Nam, pp.26- 30. 21. Nock MK, Favazza AR (2009). "Nonsuicidal self-injury: Definition and classification". Understanding nonsuicidal self- injury: Origins, assessment, and treatment. American Psychological Association, pp.9-18. 22. Ohira T, Munesue T, Oi M, Suzuki K, Saito D (2018). "Investigation of the reliability and validity of the Japanese DeliberateSelf-HarmInventory". Journal of Brain Science, 48:14-42. 23. Swannell SV, Martin GE, Page A, Hasking P, St John NJ (2014). "Prevalence of nonsuicidal self-injury in nonclinical samples: systematic review, meta-analysis and meta-regression". Suicide Life Threat Behav, 44(3):273-303. 24. Tang J, Li G, Chen B, Huang Z, Zhang Y, Chang H, et al (2018). "Prevalence of and risk factors for non-suicidal self-injury in rural China: Results from a nationwide survey in China". J Affect Disord, 226:188-195. 25. Taylor PJ, Jomar K, Dhingra K, Forrester R, Shahmalak U, Dickson JM (2017). "A meta-analysis of the prevalence of different functions of non-suicidal selfinjury". Journal of Affective Disorders, 227:759-769. 26. Tran DT (2013). "Validation of the depression anxiety stress scales (DASS) 21 as a screening instrument for depression and anxiety in a rural community-based cohort of northern Vietnamese women". BMC Psychiatry, doi: 10.1186/1471-244X- 13-24. 27. WHO (2002). Gender and Mental Health. URL: https://www.who.int/gender/other_health/genderMH.pdf. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
File đính kèm:
- tan_suat_va_muc_dich_cua_hanh_vi_tu_lam_ton_thuong_o_hoc_sin.pdf