Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô
Hiện tượng xói lở bờ sông ở khu vực hợp lưu
các sông Thao, Đà, Lô thường xuyên xảy ra cả ở
hai bên bờ trái và phải và luôn có những diễn biến
phức tạp, đặc biệt trong những năm gần đây. Điển
hình là vụ sạt lở bờ ở khu vực Minh Nông, Tân
Đức (Tp. Việt Trì) trong những năm 1997 - 2001
làm mất đi gần hết diện tích của xã Tân Đức, hàng
trăm hộ dân đã phải di dời. Ở một số nơi sạt lở bờ
sông còn trực tiếp đe dọa các tuyến đê ngăn lũ và
tiềm ẩn những tai họa khôn lường. Thực tế trên cho
thấy việc xác định đúng đắn nguyên nhân gây sạt
lở bờ sông ở đây là một vấn đề cấp thiết và có ý
nghĩa thực tiễn to lớn trong phát triển bền vững của
khu vực. Bài báo này phân tích tổng hợp các yếu tố
nội, ngoại sinh và nhân sinh nhằm góp phần giải
quyết vấn đề nói trên
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô
18 34(1), 18-24 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2012 TAI BIẾN SẠT LỞ BỜ SÔNG KHU VỰC HỢP LƯU CÁC SÔNG THAO - ĐÀ - LÔ PHẠM TÍCH XUÂN E-mail: tichxuan@gmail.com Viện Địa chất - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam Ngày nhận bài: 15 - 11 - 2011 1. Mở đầu Hiện tượng xói lở bờ sông ở khu vực hợp lưu các sông Thao, Đà, Lô thường xuyên xảy ra cả ở hai bên bờ trái và phải và luôn có những diễn biến phức tạp, đặc biệt trong những năm gần đây. Điển hình là vụ sạt lở bờ ở khu vực Minh Nông, Tân Đức (Tp. Việt Trì) trong những năm 1997 - 2001 làm mất đi gần hết diện tích của xã Tân Đức, hàng trăm hộ dân đã phải di dời. Ở một số nơi sạt lở bờ sông còn trực tiếp đe dọa các tuyến đê ngăn lũ và tiềm ẩn những tai họa khôn lường. Thực tế trên cho thấy việc xác định đúng đắn nguyên nhân gây sạt lở bờ sông ở đây là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong phát triển bền vững của khu vực. Bài báo này phân tích tổng hợp các yếu tố nội, ngoại sinh và nhân sinh nhằm góp phần giải quyết vấn đề nói trên. 2. Vài nét về khu vực hợp lưu Thao - Đà - Lô Khu vực hợp lưu Thao - Đà - Lô kéo dài hơn 30km thuộc địa phận các huyện Lâm Thao, Tam Nông, thành phố Việt Trì (tỉnh Phú Thọ) và huyện Ba Vì (Hà Nội). Đây là nơi tập trung đông dân cư, trong đó có thành phố Việt Trì là thủ phủ của tỉnh Phú Thọ. Dọc hai bên bờ sông là hệ thống đê ngăn lũ, ở một số đoạn (Phong Vân, Cổ Đô, Vĩnh Lại, Thụy Vân, Minh Nông) tuyến đê chạy gần sát bờ sông. Đoạn sông Hồng tại vùng hợp lưu có dạng hình chữ U ngược, lòng sông được mở khá rộng, có chỗ tới gần 4km. Vào mùa kiệt lòng sông thu hẹp, còn 200-500m và thường chia thành 2 đến 3 lạch với nhiều bãi giữa. Mùa lũ sông Hồng tại hợp lưu thường kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10 với tổng lượng nước chiếm 70-80% tổng lượng dòng chảy năm. Lũ lớn thường xuất hiện vào tháng 7 và 8. Do chế độ dòng chảy của vùng hợp lưu phụ thuộc rất chặt chẽ vào chế độ dòng chảy của 3 phụ lưu, nên chế độ thủy văn, thủy lực của sông Hồng ở đoạn này vô cùng phức tạp, lòng sông bị biến đổi thường xuyên. Lũ sông Hồng là dạng lũ có nhiều ngọn, một trận lũ thường có từ 2 đến 3 đỉnh, đỉnh sau cao hơn đỉnh trước. Mức nước lũ lên xuống rất nhanh với biên độ dao động trong khoảng 5-6m; lưu lượng đỉnh lũ thường rất lớn, trung bình 16.000- 17.000m3/s, cao nhất đạt tới 37.800m3/s. Một năm vùng hợp lưu có 2-12 trận lũ; thời gian duy trì một trận lũ có thể kéo dài 10-25 ngày, đôi khi dài hơn. Do phân bố mưa không đều trên lưu vực các sông nên lũ trên ba sông thường xuất hiện không đồng thời. Có khi chỉ một hoặc hai sông có lũ lớn, các sông khác có lũ thì nhỏ hoặc bình thường. Cũng có trường hợp cả ba sông đều có lũ lớn, khi đó rất nguy hiểm cho các tuyến đê ngăn lũ. Sông Hồng là một trong những con sông có lượng phù sa lớn. Hàng năm nó chuyển ra biển khoảng 112 triệu tấn phù sa với độ đục bình quân 1kg/m3, vào ngày lũ độ đục bình quân lên tới 10- 12kg/m3 [Phạm Tích Xuân (chủ biên), 2001: Nghiên cứu đánh giá các tai biến địa chất và ảnh hưởng của chúng ở khu vực ven sông Hồng thuộc các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội. Báo cáo tổng kết đề tài KHCN Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam. Lưu trữ Viện Địa chất. Hà Nội; Trần Trọng Huệ, 2004: Nghiên cứu đánh giá tổng hợp các loại hình tai biến địa chất lãnh thổ Việt Nam và các phương pháp phòng chống (giai đoạn 2 - các tỉnh miền núi phía Bắc)”. Báo cáo tổng kềt đề tài độc lập cấp nhà nước. Lưu trữ Viện Địa chất. Hà Nội]. 19 3. Đặc điểm cấu trúc kiến tạo Về mặt cấu trúc kiến tạo, hợp lưu của các sông Thao, Đà, Lô cũng chính là nơi hội tụ của một loạt các đới cấu trúc như: phức nếp lồi Sông Lô ở phần đông bắc, các phức nếp lồi Con Voi và Phansipan ở phía tây bắc, trũng sụt lún dạng địa hào Sông Hồng ở phía đông nam. Ở khu vực này phát triển hàng loạt đứt gãy kiến tạo hoạt động tích cực trong Tân kiến tạo và hiện đại. Quan trọng nhất là hệ thống đứt gãy phương TB-ĐN bao gồm đứt gãy Sông Hồng và Sông Chảy, hệ thống đứt gãy phương ĐB-TN, hệ thống đứt gãy phương á kinh tuyến và các đứt gãy phương á vỹ tuyến. Theo Nguyễn Trọng Yêm (1991) [4], trong Tân kiến tạo và hiện đại, hệ thống đứt gãy TB-ĐN hoạt động theo cơ chế trượt bằng phải trong trường ứng suất trượt bằng với phương nén ép bắc - nam. Trong trường ứng suất như vậy, các đứt gãy phương á kinh tuyến hoạt động theo cơ chế tách giãn. Một trong những đứt gãy như vậy tạo nên trũng tách giãn Hòa Bình - Trung Hà khống chế dòng chảy sông Đà đoạn từ Hòa Bình đến hợp lưu với sông Thao. Cũng do cơ chế trượt bằng phải của đứt gãy Sông Hồng trong trường ứng suất có phương nén ép bắc - nam đã tạo nên các miền tách giãn ở những nơi giao nhau với các đứt gãy cộng ứng phương ĐB-TN (hình 1). Khu vực khúc uốn của hợp lưu Thao - Đà là một trong những vùng như vậy. Chính tác động tổ hợp của hoạt động của các hệ thống đứt gãy nói trên đã tạo nên hình thái dạng khúc uốn không hoàn chỉnh của đoạn hợp lưu như đã mô tả. Trong điều kiện đó, lòng sông luôn có xu thế phát triển về phía bắc (phía vùng tách giãn). §øt g·y S«ng Ch¶y 0 ∗ 105 15 105 30 5 kilometers §íi ®øt g·y S«ng Hång Phøc nÕp låi Con Voi s«ng L« viÖt tr× 10 s«ng Hång Phøc nÕp låi Phansipan Tròng sôt lón d¹ng ®Þa hμo S«ng Hång T rò ng t ¸c h gi ·n H ßa B ×n h - Tr un g H μ s«ng Thao s«n g § μ 21 15 21 15 S«ng §øt g·y vμ h−íng dÞch chuyÓn MiÒn t¸ch gi·n chó gi¶i Hình 1. Đặc điểm cấu trúc kiến tạo khu vực hợp lưu Thao - Đà - Lô và phụ cận 4. Biến động lòng dẫn và diễn biến xói lở bờ sông theo thời gian 4.1. Biến động lòng dẫn Để nghiên cứu quy luật biến động lòng dẫn và diễn biến của hiện tượng xói lở bờ sông trong nhiều năm chúng tôi đã sử dụng phương pháp phân tích các tư liệu viễn thám kết hợp với bản đồ các loại cho từng thời kỳ. Các tư liệu viễn thám và bản đồ chủ yếu được sử dụng gồm: ảnh máy bay ... u (ví dụ ở Sơn Tây) chưa đạt tới mức báo động 1, do vậy độ dốc mặt nước khi lũ xuống rất lớn. - Khi cường suất lũ xuống quá nhanh (mực nước rút rất nhanh). Đáng chú ý là sự điều tiết của nhà máy thuỷ điện Hoà Bình cũng gây những tác động tương tự làm cho diễn biến của tình trạng xói lở bờ sông càng thêm phức tạp. 5. Đánh giá nguyên nhân sạt lở 5.1. Các yếu tố nội sinh Yếu tố nội sinh có vai trò khống chế quá trình phát triển lòng dẫn sông ở đoạn hợp lưu chính là tác động tổ hợp của hoạt động của các hệ thống đứt gãy kiến tạo trong Tân kiến tạo và hiện đại. Trong điều kiện địa động lực như đã mô tả ở trên, lòng sông luôn có xu thế phát triển về phía bắc (phía vùng tách giãn) và việc sạt lở bên bờ trái của đoạn sông này là không tránh khỏi. Tuy nhiên, xu thế phát triển lòng dẫn về phía bắc bị hạn chế, đặc biệt là khu vực thành phố Việt Trì, vì đá gốc là các đá biến chất thuộc phức hệ Sông Hồng đã lộ trên bề mặt ở gần sát bờ sông. Do xu thế phát triển như đã mô tả nên sạt lở bờ sông vẫn phát triển mạnh ở các bãi bồi, đặc biệt khu vực Vĩnh Lại, Cao Xá (huyện Lâm Thao). 5.2. Các yếu tố ngoại sinh 5.2.1. Đặc điểm hình thái lòng sông Như đã nói, đoạn sông này là một khúc uốn dạng hình chữ U ngược. Tại khu vực đỉnh cong (thuộc địa phận các xã Thụy Vân, Tân Đức và Minh Nông) dòng chủ lưu thường áp sát bờ gây sạt lở thường xuyên ở khu vực này. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tự nhiên, xói lở bờ sông thường xảy ra phía bờ lõm của khúc uốn. 22 5.2.2. Đặc điểm trầm tích và tính chất cơ lý đất đá cấu tạo bờ sông Đất đá cấu tạo bờ sông ở khu vực này chủ yếu là các trầm tích bở rời Holocen thuộc tướng bãi bồi gồm: sét pha, cát, cát hạt mịn, bùn sét hữu cơ, trên cùng là lớp đất phù sa (hình 5 và Trần Minh (chủ biên), 1997: Báo cáo Điều tra Địa chất đô thị Việt Trì. Liên đoàn ĐCTV - ĐCCT miền Bắc. Trung tâm lưu trữ và thông tin tư liệu địa chất Cục địa chất VN, Hà Nội]. Tại lỗ khoan ở khu vực xã Minh Nông từ trên xuống gặp các loại đất đá sau: từ 0 đến 3,5m, là đất sét màu nâu gụ, đôi chỗ nâu nhạt, trạng thái dẻo cứng, chặt vừa; từ 3,5 đến 6,3m là lớp đất sét pha màu xám nâu, xám tro nhạt, vàng nhạt, trạng thái chặt dẻo, chặt vừa; từ 6,3 đến 8,4m là lớp đất cát pha màu xám tro nhạt, trạng thái chặt vừa; từ 8,4 đến 15m là lớp cát màu xám nâu, xám tro nhạt trạng thái rời rạc. Qua các tài liệu lỗ khoan ở khu vực bờ sông ở đoạn này có thể thấy quy luật chung là càng xuống dưới tỷ lệ cát càng tăng lên và ở độ sâu trung bình từ khoảng 10m trở xuống chủ yếu là cát hạt mịn trạng thái rời rạc. Lớp cát này dễ dàng bị dòng chảy rửa trôi gây sụt lở các lớp đất ở trên. 0 m 30 20 10 0 TB PR sh Q T.II x· Thôy V©n Q IVIII I-III-III-III-II 2 §ª 1 x· T©n §øc B·i båi cao QIVIII Lßng s«ng n¨m 2002 Q I-III-III-III-II 3PR sh 1. C¸c thμnh t¹o t−íng lßng vμ b·i båi gåm: c¸t h¹t mÞn, sÐt pha; 2. C¸c thμnh t¹o thÒm bËc II gåm: sÐt, sÐt pha, c¸t; 3. §¸ biÕn chÊt Proterozoi phøc hÖ S«ng Hång; 5. ®−êng bê truíc khi bÞ lë; 6. Mùc n−íc s«ng B·i båi thÊp Q IVIII §ª Lßng s«ng n¨m 1987 4 5 x· Cæ §« Q I-III-III-III-II T.II 0 10 7.500 m PR sh 30 m 20 §N Hình 5. Mặt cắt địa chất - địa mạo cấu trúc thung lũng sông Thao ở khu vực Tân Đức-Minh Nông (Tp. Việt Trì, Phú Thọ) Trong bảng 1 trình bày một số tính chất cơ lý của đất đá cấu tạo bờ sông ở khu vực Minh Nông (Việt Trì) Bảng 1. Một số chỉ tiêu cơ lý trung bình của một số loại đất ngoài đê sông Hồng khu vực Tân Đức - Minh Nông Nhóm đất Dung trọng γ (g/cm3) Lực dính kết C (Kg/cm2) Góc ma sát trong ϕ (độ) Đất sét 1,80 0,18 14037 Đất sét pha 1,82 0,18 8055 Đất thịt 1,77 0,19 15027 Đất cát pha 1,79 0,16 12014 Kết quả phân tích các đặc tính cơ lý đất bờ sông khu vực hợp lưu đều cho thấy tốc độ không xói của hạt cấu tạo nên bờ đều nhỏ hơn 1,5m/s (theo [2]). Trong điều kiện vận tốc dòng chảy sông Hồng thường xuyên khá lớn (vào thời điểm 9/2002, vận tốc dòng chảy Vmax đo tại Thụy Vân vẫn còn đạt tới 1,82m/s [theo Phùng Quang Phúc, 2003. Nghiên cứu diễn biến xói bồi vùng ngã ba Thao - Đà - Lô - Hồng và cục bộ ở Thụy Vân. Báo cáo hội thảo “Một số kết quả nghiên cứu diễn biến lòng dẫn các sông ở đồng bằng Bắc Bộ và công tác phòng chống lũ năm 2003”. Đề tài KC-08.11, Chương trình KC-08] thì vấn đề xói lở bờ sông sẽ xẩy ra trên nhiều khu vực. 5.2.3. Đặc điểm thuỷ văn Trong phạm vi của vùng hợp lưu, các dòng chảy thúc đẩy lẫn nhau tạo nên các dòng chảy rối xoắn ốc rất phức tạp. Khi các vòng xoáy áp sát bờ thường gây xói lở dẫn đến sạt lở, sụp đổ bờ nhanh chóng. Do vị trí và cường độ phá huỷ của các dòng chảy rối xoắn thay đổi liên tục, chúng phụ thuộc vào lưu lượng và vận tốc của từng dòng phụ lưu khi đổ vào vùng hợp lưu nên hiện tượng sạt lở và sụp đổ bờ sông tại các vùng hợp lưu thường xảy ra phức tạp và không có quy luật rõ ràng. Sông Hồng có chế độ thuỷ văn rất phức tạp, sông có lưu lượng lớn, hàng năm thường xuất hiện các trận lũ lớn, nhưng thường xuyên có sự lệch pha đỉnh lũ của các sông nhánh. Ở khu vực hợp lưu, vị trí sạt lở và cường độ phá huỷ bờ ở đây phụ thuộc rất nhiều vào sự đóng góp dòng chảy lũ của các 23 dòng sông. Khi lưu lượng lũ sông Thao lớn hơn sông Đà thì các vòng xoáy áp sát bờ phải và sạt lở xảy ra trên địa phận xã Phong Vân, Cổ Đô (Ba Vì, Hà Nội). Khi lưu lượng lũ sông Đà lớn hơn lũ sông Thao thì các vòng xoáy áp sát bờ trái và sạt lở xảy ra mạnh mẽ trên bờ sông thuộc các xã Vĩnh Lại, Cao Xá, Tân Đức, Minh Nông. Khi lưu lượng lũ sông Lô nhỏ hơn tổng lũ sông Đà sông Thao, sạt lở sẽ xảy ra tại bờ trái thuộc phường Bạch Hạc thành phố Việt Trì; nếu ngược lại (trường hợp này ít xảy ra hơn), sạt lở sẽ xảy ra trên cồn Tản Hồng và Phú Cường. Mặc dù có sự điều tiết của hồ Hoà Bình nhưng với cường độ gia tăng mực nước lũ trung bình 0,77m/h, tổng lượng dòng chảy góp lũ chiếm 49%, lũ sông Đà vẫn được coi là lớn nhất trong các sông đổ vào vùng hợp lưu Việt Trì. Bởi vậy trong thực tế, sạt lở bờ sông tại xã Thuỵ Vân, Tân Đức, Minh Nông và phường Bạch Hạc thành phố Việt Trì xảy ra mạnh mẽ nhất trên toàn vùng hợp lưu Việt Trì. 5.3. Các hoạt động nhân sinh 5.3.1. Điều tiết của hồ thuỷ điện Hoà Bình Hồ thuỷ điện Hoà Bình có tác dụng tích cực trong điều tiết nước, cắt lũ cho hệ thống sông Hồng. Tuy nhiên, việc điều tiết ấy lại có những ảnh hưởng tiêu cực tới vùng hạ lưu. Khi nhà máy thủy điện Hòa Bình mở cửa xả nước thì mực nước sông dâng lên nhanh chóng, nhiều khi tới 0,5m chỉ sau vài giờ. Chính sự dao động lớn mực nước đã thúc đẩy quá trình xói lở bờ sông, như đã phân tích ở trên. Hơn thế nữa, sự điều tiết nước của hồ Hoà Bình đã làm thay đổi chế độ thuỷ văn của hạ lưu, rõ ràng nhất là khu vực hợp lưu Thao - Đà. Tại khu vực này, do sông Đà bị ngăn bởi đập thuỷ điện và bị điều tiết theo mục tiêu phát điện và cắt lũ nên mực nước thường xuyên thấp hơn mực nước trung bình. Do đó dòng chảy sông Thao đã thường trở nên vượt trội và chuyển hướng chảy thẳng sang phía bờ phải của khu vực hợp lưu gây xói lở mạnh ở khu vực Phong Vân, Cổ Đô, như đã trình bày ở trên. 5.3.2. Hệ thống kè Mặt tích cực của kè là nó có thể chống xói lở, nhưng lại làm cho dòng chảy sông thường phải đổi hướng, nhất là khi có kè mỏ hàn lái dòng, dẫn đến xói lở ở phía bờ đối diện. Tác dụng hai mặt của kè có thể quan sát được khá rõ nếu xem xét toàn bộ diễn biến hiện tượng sạt lở bờ sông ở khu vực này theo thời gian. Trong những năm 50 của thế kỷ XX, dòng chủ lưu Thao - Đà thường áp sát phía bờ trái gây sạt lở mạnh ở khu vực xã Vĩnh Lại. Nhiều hộ dân đã phải di chuyển vào trong đê. Sau khi xuất hiện kè Lê Tính (thuộc xã Vĩnh Lại, xây dựng năm 1950), đặc biệt sau khi có hệ thống mỏ hàn cứng (1977), do tác động của kè mỏ hàn nắn dòng, hiện tượng xói lở có xu thế dịch chuyển sang bờ phải ở khu vực xã Cổ Đô. Từ sau năm 1987, khi hồ Hòa Bình đi vào hoạt động, dòng chủ lưu ở khu vực hợp lưu Thao - Đà luôn có xu thế áp sát bờ phải, phía bờ trái thuộc địa phận xã Vĩnh Lại, Cao Xá xuất hiện bãi bồi khá rộng. Điều đó dẫn đến xói lở mạnh phía bờ phải ở khu vực Cổ Đô đe dọa trực tiếp tuyến đê ngăn lũ chạy gần sát bờ sông. Trong những năm 80 - 90, người ta đã cho xây kè lát mái kết hợp với kè nắn dòng ở khu vực này gồm 3 kè: Cổ đô, Viên Châu và Phú Cường dài khoảng 5km với một loạt mỏ hàn cứng. Dưới tác động của kè nắn dòng, dòng chảy của sông lại đổi hướng sang phía bờ trái và gần như vuông góc với bờ sông ở khu vực Tân Đức - Minh Nông. Kết quả là bờ sông ở khu vực này bị sạt lở nghiêm trọng như đã mô tả ở trên. Trong các năm từ 1999 đến 2002, đoạn bờ sông từ Thanh Miếu (Tp. Việt Trì) đến Tân Đức đã được kè. Tuy nhiên, hiện tượng sạt lở vẫn tiếp tục xảy ra, thậm chí một đoạn kè dài hơn 30m cũng bị đánh sập [Trần Trọng Huệ, 2004: Nghiên cứu đánh giá tổng hợp các loại hình tai biến địa chất lãnh thổ Việt Nam và các phương pháp phòng chống (giai đoạn 2 - các tỉnh miền núi phía Bắc)”. Báo cáo tổng kềt đề tài độc lập cấp nhà nước. Lưu trữ Viện Địa chất. Hà Nội]. Đồng thời, sạt lở lại xảy ra ở phía bờ đối diện thuộc xã Châu Sơn, Phú Châu (ở phần hạ lưu) và xã Phong Vân (ở phần thượng lưu). Từ năm 2004, sau khi đoạn bờ sông ở xã Phong Vân được kè bảo vệ thì xói lở lại gia tăng ở phía bờ đối diện thuộc xã Cao Xá, Thụy Vân và phần chưa có kè ở xã Tân Đức. Có thể nói rằng, ngoài các yếu tố tự nhiên theo các quy luật chung, các hoạt động nhân sinh (điều tiết nước của hồ Hòa Bình, kè bờ) có vai trò không nhỏ đối với tai biến sạt lở bờ sông, phá vỡ quy luật tự nhiên và làm phức tạp hóa tình trạng này ở khu vực hợp lưu Thao - Đà - Lô. Từ việc phân tích vai trò của các hoạt động nhân sinh đối với tai biến sạt lở bờ sông ở khu vực này cho thấy, không phải bất cứ nỗ lực nào của con người nhằm chế ngự thiên nhiên cũng đều mang lại những kết quả tích cực như mong muốn. Cần phải nhận thức được rằng, tai biến thiên nhiên là những hiện tượng tự nhiên, 24 nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Do đó, cách ứng xử khôn ngoan là chấp nhận nó và nắm lấy quy luật tự nhiên đó để có các giải pháp phòng tránh thích hợp và không làm cho nó trở nên phức tạp và nguy hiểm hơn. 6. Kết luận Khu vực hợp lưu các nhánh chính của hệ thống sông Hồng trong 50 năm qua có quá trình biến đổi lòng dẫn rất phức tạp gây ra xói lở bờ sông ở nhiều nơi. Các yếu tố nội sinh (địa chất, cấu trúc kiến tạo và hoạt động của các đứt gãy kiến tạo) là nguyên nhân sâu xa của quá trình biến đổi lòng dẫn gây xói lở bờ. Các yếu tố ngoại sinh như đặc điểm hình thái lòng dẫn, chế độ thủy văn, cấu tạo đất đá bờ sông và các hoạt động nhân sinh đóng vai trò thúc đẩy quá trình đó. Do đặc điểm địa chất và cấu trúc kiến tạo, quy luật chung là hoạt động xâm thực ngang hạn chế của lòng sông về phía bắc và phù hợp với quy luật phát triển lòng sông tại các khúc uốn. Tuy nhiên, hiện tượng xói lở bờ sông ở đây bị phức tạp hóa do tính phức tạp của chế độ thủy văn, thủy lực vùng hợp lưu và các hoạt động của con người. Các hoạt động của con người (điều tiết nước của hồ Hòa Bình, hệ thống kè) không những góp phần làm phức tạp bức tranh xói lở - bồi tụ mà nhiều khi làm thay đổi hẳn quy luật phát triển lòng dẫn sông. Một trong các giải pháp chống xói lở bờ sông là kè bảo vệ. Giải pháp này đã và đang được áp dụng gần như trên toàn tuyến bờ sông ở khu vực này. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, đoạn sông ở khu vực này có xu thế phát triển lòng dẫn về phía bắc dẫn đến xói lở bờ trái sông ở khu vực hợp lưu Thao - Đà và sẽ vẫn còn tiếp tục. Do đó, mặc dù hệ thống kè trước mắt đã có tác dụng bảo vệ bờ sông tránh sạt lở, nhưng nguy cơ sạt lở vẫn rất cao, đặc biệt là đoạn bờ trái từ Vĩnh Lại đến Tiên Cát. Điều đó đòi hỏi cần có thiết kế kè thích hợp và phải có các giải pháp hộ chân kè cũng như thường xuyên tu bổ kè đề phòng các diễn biến bất thường có thể làm hư hại hoặc phá hủy kè như đã từng xảy ra với kè Tân Đức - Minh Nông năm 2000 và 2002. Ngoài ra, cần luôn luôn đề cao cảnh giác và có phương án dự phòng trong trường hợp có các diễn biến xấu. Về lâu dài cần kết hợp giữa các giải pháp công trình với công tác quản lý. Cần xây dựng một chiến lược lâu dài phòng chống tai biến, trong đó đặc biệt chú trọng các giải pháp phòng tránh thông qua việc quy hoạch sử dụng hợp lý lãnh thổ. TÀI LIỆU DẪN [1] Nguyễn Hùng, Phạm Tích Xuân, 2004: Về hệ thống đứt gãy hoạt động tại khu vực hồ Hòa Bình. Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, T.26, (4), tr.139-446. [2] Lomtadze, V.Đ., 1977: Địa chất động lực công trình. Nxb. Nedra, Matxcơva, (tiếng Nga), 497tr. [3] Ngô Quang Toàn, Đặng Huy Rằm, 2005: Về tai biến sạt lở bờ sông ở vùng Tân Đức, Ba Vì, Hà Nôi. Địa chất No.286, tr.23-26. [4] Nguyễn Trọng Yêm, 1991: Đặc điểm chủ yếu của địa động lực hiện đại lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Địa chất Tài nguyên, tr.7-10. SUMMARY River bank erosion assessment in the confluence of Thao, Da, and Lo rivers River bank erosions in the confluence of Thao - Da - Lo rivers have been occurred and continuously develop. Our studies show that endogenous factors including right-slip movement of Red River Fault are underlying reason of the risks of river bank erosion and exogenous factors including morphology of river-bed, hydrological regime, characteristics of the river-bank constructed rocks and human activities play important roles in speeding up the process. Due to the geological and tectonic structures of the region, the river-bed development has northward tendency and risks of the river- bank erosion are unavoidable. Human activities just complicate these problems. Risks of river-bank erosion in the confluence of Thao - Da - Lo rivers are still very high, so there need suitable solutions to prevent possibly bad consequences.
File đính kèm:
- tai_bien_sat_lo_bo_song_khu_vuc_hop_luu_cac_song_thao_da_lo.pdf