Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô

Hiện tượng xói lở bờ sông ở khu vực hợp lưu

các sông Thao, Đà, Lô thường xuyên xảy ra cả ở

hai bên bờ trái và phải và luôn có những diễn biến

phức tạp, đặc biệt trong những năm gần đây. Điển

hình là vụ sạt lở bờ ở khu vực Minh Nông, Tân

Đức (Tp. Việt Trì) trong những năm 1997 - 2001

làm mất đi gần hết diện tích của xã Tân Đức, hàng

trăm hộ dân đã phải di dời. Ở một số nơi sạt lở bờ

sông còn trực tiếp đe dọa các tuyến đê ngăn lũ và

tiềm ẩn những tai họa khôn lường. Thực tế trên cho

thấy việc xác định đúng đắn nguyên nhân gây sạt

lở bờ sông ở đây là một vấn đề cấp thiết và có ý

nghĩa thực tiễn to lớn trong phát triển bền vững của

khu vực. Bài báo này phân tích tổng hợp các yếu tố

nội, ngoại sinh và nhân sinh nhằm góp phần giải

quyết vấn đề nói trên

Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô trang 1

Trang 1

Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô trang 2

Trang 2

Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô trang 3

Trang 3

Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô trang 4

Trang 4

Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô trang 5

Trang 5

Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô trang 6

Trang 6

Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 7180
Bạn đang xem tài liệu "Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô

Tai biến sạt lở bờ sông khu vực hợp lưu các sông Thao - Đà - Lô
 18 
34(1), 18-24 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2012 
TAI BIẾN SẠT LỞ BỜ SÔNG KHU VỰC 
HỢP LƯU CÁC SÔNG THAO - ĐÀ - LÔ 
PHẠM TÍCH XUÂN 
E-mail: tichxuan@gmail.com 
Viện Địa chất - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Ngày nhận bài: 15 - 11 - 2011 
1. Mở đầu 
Hiện tượng xói lở bờ sông ở khu vực hợp lưu 
các sông Thao, Đà, Lô thường xuyên xảy ra cả ở 
hai bên bờ trái và phải và luôn có những diễn biến 
phức tạp, đặc biệt trong những năm gần đây. Điển 
hình là vụ sạt lở bờ ở khu vực Minh Nông, Tân 
Đức (Tp. Việt Trì) trong những năm 1997 - 2001 
làm mất đi gần hết diện tích của xã Tân Đức, hàng 
trăm hộ dân đã phải di dời. Ở một số nơi sạt lở bờ 
sông còn trực tiếp đe dọa các tuyến đê ngăn lũ và 
tiềm ẩn những tai họa khôn lường. Thực tế trên cho 
thấy việc xác định đúng đắn nguyên nhân gây sạt 
lở bờ sông ở đây là một vấn đề cấp thiết và có ý 
nghĩa thực tiễn to lớn trong phát triển bền vững của 
khu vực. Bài báo này phân tích tổng hợp các yếu tố 
nội, ngoại sinh và nhân sinh nhằm góp phần giải 
quyết vấn đề nói trên. 
2. Vài nét về khu vực hợp lưu Thao - Đà - Lô 
Khu vực hợp lưu Thao - Đà - Lô kéo dài hơn 
30km thuộc địa phận các huyện Lâm Thao, Tam 
Nông, thành phố Việt Trì (tỉnh Phú Thọ) và huyện 
Ba Vì (Hà Nội). Đây là nơi tập trung đông dân cư, 
trong đó có thành phố Việt Trì là thủ phủ của tỉnh 
Phú Thọ. Dọc hai bên bờ sông là hệ thống đê ngăn 
lũ, ở một số đoạn (Phong Vân, Cổ Đô, Vĩnh Lại, 
Thụy Vân, Minh Nông) tuyến đê chạy gần sát 
bờ sông. 
Đoạn sông Hồng tại vùng hợp lưu có dạng hình 
chữ U ngược, lòng sông được mở khá rộng, có chỗ 
tới gần 4km. Vào mùa kiệt lòng sông thu hẹp, còn 
200-500m và thường chia thành 2 đến 3 lạch với 
nhiều bãi giữa. Mùa lũ sông Hồng tại hợp lưu 
thường kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10 với tổng 
lượng nước chiếm 70-80% tổng lượng dòng chảy 
năm. Lũ lớn thường xuất hiện vào tháng 7 và 8. Do 
chế độ dòng chảy của vùng hợp lưu phụ thuộc rất 
chặt chẽ vào chế độ dòng chảy của 3 phụ lưu, nên 
chế độ thủy văn, thủy lực của sông Hồng ở 
đoạn này vô cùng phức tạp, lòng sông bị biến đổi 
thường xuyên. 
Lũ sông Hồng là dạng lũ có nhiều ngọn, một 
trận lũ thường có từ 2 đến 3 đỉnh, đỉnh sau cao hơn 
đỉnh trước. Mức nước lũ lên xuống rất nhanh với 
biên độ dao động trong khoảng 5-6m; lưu lượng 
đỉnh lũ thường rất lớn, trung bình 16.000-
17.000m3/s, cao nhất đạt tới 37.800m3/s. Một năm 
vùng hợp lưu có 2-12 trận lũ; thời gian duy trì một 
trận lũ có thể kéo dài 10-25 ngày, đôi khi dài hơn. 
Do phân bố mưa không đều trên lưu vực các sông 
nên lũ trên ba sông thường xuất hiện không đồng 
thời. Có khi chỉ một hoặc hai sông có lũ lớn, các 
sông khác có lũ thì nhỏ hoặc bình thường. Cũng có 
trường hợp cả ba sông đều có lũ lớn, khi đó rất 
nguy hiểm cho các tuyến đê ngăn lũ. 
Sông Hồng là một trong những con sông có 
lượng phù sa lớn. Hàng năm nó chuyển ra biển 
khoảng 112 triệu tấn phù sa với độ đục bình quân 
1kg/m3, vào ngày lũ độ đục bình quân lên tới 10-
12kg/m3 [Phạm Tích Xuân (chủ biên), 2001: 
Nghiên cứu đánh giá các tai biến địa chất và ảnh 
hưởng của chúng ở khu vực ven sông Hồng thuộc 
các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội. Báo cáo 
tổng kết đề tài KHCN Viện Khoa học và công nghệ 
Việt Nam. Lưu trữ Viện Địa chất. Hà Nội; Trần 
Trọng Huệ, 2004: Nghiên cứu đánh giá tổng hợp 
các loại hình tai biến địa chất lãnh thổ Việt Nam và 
các phương pháp phòng chống (giai đoạn 2 - các 
tỉnh miền núi phía Bắc)”. Báo cáo tổng kềt đề tài 
độc lập cấp nhà nước. Lưu trữ Viện Địa chất. 
Hà Nội]. 
 19
3. Đặc điểm cấu trúc kiến tạo 
Về mặt cấu trúc kiến tạo, hợp lưu của các sông 
Thao, Đà, Lô cũng chính là nơi hội tụ của một loạt 
các đới cấu trúc như: phức nếp lồi Sông Lô ở phần 
đông bắc, các phức nếp lồi Con Voi và Phansipan 
ở phía tây bắc, trũng sụt lún dạng địa hào Sông 
Hồng ở phía đông nam. Ở khu vực này phát triển 
hàng loạt đứt gãy kiến tạo hoạt động tích cực trong 
Tân kiến tạo và hiện đại. Quan trọng nhất là hệ 
thống đứt gãy phương TB-ĐN bao gồm đứt gãy 
Sông Hồng và Sông Chảy, hệ thống đứt gãy 
phương ĐB-TN, hệ thống đứt gãy phương á kinh 
tuyến và các đứt gãy phương á vỹ tuyến. Theo 
Nguyễn Trọng Yêm (1991) [4], trong Tân kiến tạo 
và hiện đại, hệ thống đứt gãy TB-ĐN hoạt động 
theo cơ chế trượt bằng phải trong trường ứng suất 
trượt bằng với phương nén ép bắc - nam. Trong 
trường ứng suất như vậy, các đứt gãy phương á 
kinh tuyến hoạt động theo cơ chế tách giãn. Một 
trong những đứt gãy như vậy tạo nên trũng tách 
giãn Hòa Bình - Trung Hà khống chế dòng chảy 
sông Đà đoạn từ Hòa Bình đến hợp lưu với sông 
Thao. Cũng do cơ chế trượt bằng phải của đứt gãy 
Sông Hồng trong trường ứng suất có phương nén 
ép bắc - nam đã tạo nên các miền tách giãn ở 
những nơi giao nhau với các đứt gãy cộng ứng 
phương ĐB-TN (hình 1). Khu vực khúc uốn của 
hợp lưu Thao - Đà là một trong những vùng như 
vậy. Chính tác động tổ hợp của hoạt động của các 
hệ thống đứt gãy nói trên đã tạo nên hình thái dạng 
khúc uốn không hoàn chỉnh của đoạn hợp lưu như 
đã mô tả. Trong điều kiện đó, lòng sông luôn có xu 
thế phát triển về phía bắc (phía vùng tách giãn). 
§øt g·y S«ng Ch¶y
0
∗
105 15 105 30
5
kilometers
§íi ®øt g·y S«ng Hång
Phøc nÕp låi Con Voi
s«ng L«
viÖt tr×
10
s«ng Hång
Phøc nÕp låi Phansipan
Tròng sôt lón d¹ng ®Þa hμo 
S«ng Hång
T
rò
ng
 t
¸c
h 
gi
·n
H
ßa
 B
×n
h 
- 
Tr
un
g 
H
μ
s«ng Thao
s«n
g §
μ
21 15 21 15
S«ng
§øt g·y 
vμ h−íng dÞch chuyÓn
MiÒn t¸ch gi·n
chó gi¶i
Hình 1. Đặc điểm cấu trúc kiến tạo khu vực hợp lưu 
Thao - Đà - Lô và phụ cận 
4. Biến động lòng dẫn và diễn biến xói lở bờ sông 
theo thời gian 
4.1. Biến động lòng dẫn 
Để nghiên cứu quy luật biến động lòng dẫn và 
diễn biến của hiện tượng xói lở bờ sông trong 
nhiều năm chúng tôi đã sử dụng phương pháp phân 
tích các tư liệu viễn thám kết hợp với bản đồ các 
loại cho từng thời kỳ. Các tư liệu viễn thám và bản 
đồ chủ yếu được sử dụng gồm: ảnh máy bay ... u (ví dụ ở Sơn Tây) 
chưa đạt tới mức báo động 1, do vậy độ dốc mặt 
nước khi lũ xuống rất lớn. 
- Khi cường suất lũ xuống quá nhanh (mực 
nước rút rất nhanh). Đáng chú ý là sự điều tiết của 
nhà máy thuỷ điện Hoà Bình cũng gây những tác 
động tương tự làm cho diễn biến của tình trạng xói 
lở bờ sông càng thêm phức tạp. 
5. Đánh giá nguyên nhân sạt lở 
5.1. Các yếu tố nội sinh 
Yếu tố nội sinh có vai trò khống chế quá trình 
phát triển lòng dẫn sông ở đoạn hợp lưu chính là 
tác động tổ hợp của hoạt động của các hệ thống đứt 
gãy kiến tạo trong Tân kiến tạo và hiện đại. Trong 
điều kiện địa động lực như đã mô tả ở trên, lòng 
sông luôn có xu thế phát triển về phía bắc (phía 
vùng tách giãn) và việc sạt lở bên bờ trái của đoạn 
sông này là không tránh khỏi. Tuy nhiên, xu thế 
phát triển lòng dẫn về phía bắc bị hạn chế, đặc biệt 
là khu vực thành phố Việt Trì, vì đá gốc là các đá 
biến chất thuộc phức hệ Sông Hồng đã lộ trên bề 
mặt ở gần sát bờ sông. Do xu thế phát triển như đã 
mô tả nên sạt lở bờ sông vẫn phát triển mạnh ở các 
bãi bồi, đặc biệt khu vực Vĩnh Lại, Cao Xá (huyện 
Lâm Thao). 
5.2. Các yếu tố ngoại sinh 
5.2.1. Đặc điểm hình thái lòng sông 
Như đã nói, đoạn sông này là một khúc uốn 
dạng hình chữ U ngược. Tại khu vực đỉnh cong 
(thuộc địa phận các xã Thụy Vân, Tân Đức và 
Minh Nông) dòng chủ lưu thường áp sát bờ gây sạt 
lở thường xuyên ở khu vực này. Điều này hoàn 
toàn phù hợp với quy luật tự nhiên, xói lở bờ sông 
thường xảy ra phía bờ lõm của khúc uốn. 
 22 
5.2.2. Đặc điểm trầm tích và tính chất cơ lý đất đá 
cấu tạo bờ sông 
Đất đá cấu tạo bờ sông ở khu vực này chủ yếu 
là các trầm tích bở rời Holocen thuộc tướng bãi bồi 
gồm: sét pha, cát, cát hạt mịn, bùn sét hữu cơ, trên 
cùng là lớp đất phù sa (hình 5 và Trần Minh (chủ 
biên), 1997: Báo cáo Điều tra Địa chất đô thị Việt 
Trì. Liên đoàn ĐCTV - ĐCCT miền Bắc. Trung 
tâm lưu trữ và thông tin tư liệu địa chất Cục địa 
chất VN, Hà Nội]. 
Tại lỗ khoan ở khu vực xã Minh Nông từ trên
xuống gặp các loại đất đá sau: từ 0 đến 3,5m, là 
đất sét màu nâu gụ, đôi chỗ nâu nhạt, trạng thái dẻo 
cứng, chặt vừa; từ 3,5 đến 6,3m là lớp đất sét pha 
màu xám nâu, xám tro nhạt, vàng nhạt, trạng thái 
chặt dẻo, chặt vừa; từ 6,3 đến 8,4m là lớp đất cát 
pha màu xám tro nhạt, trạng thái chặt vừa; từ 8,4 
đến 15m là lớp cát màu xám nâu, xám tro nhạt 
trạng thái rời rạc. Qua các tài liệu lỗ khoan ở khu 
vực bờ sông ở đoạn này có thể thấy quy luật chung 
là càng xuống dưới tỷ lệ cát càng tăng lên và ở độ 
sâu trung bình từ khoảng 10m trở xuống chủ yếu là 
cát hạt mịn trạng thái rời rạc. Lớp cát này dễ dàng 
bị dòng chảy rửa trôi gây sụt lở các lớp đất ở trên. 
0
m 30
20
10
0
TB
PR sh 
Q
T.II
x· Thôy V©n
Q IVIII
I-III-III-III-II
2
§ª
1
x· T©n §øc
B·i båi cao
QIVIII
Lßng s«ng n¨m 2002
Q I-III-III-III-II 3PR sh 
1. C¸c thμnh t¹o t−íng lßng vμ b·i båi gåm: c¸t h¹t mÞn, sÐt pha; 2. C¸c thμnh t¹o thÒm bËc II gåm: sÐt, sÐt pha, c¸t; 
3. §¸ biÕn chÊt Proterozoi phøc hÖ S«ng Hång; 5. ®−êng bê truíc khi bÞ lë; 6. Mùc n−íc s«ng
B·i båi thÊp
Q
IVIII
§ª
Lßng s«ng n¨m 1987
4 5
x· Cæ §«
Q
I-III-III-III-II
T.II
0
10
7.500 m
PR sh 
30 m
20
§N
Hình 5. Mặt cắt địa chất - địa mạo cấu trúc thung lũng sông Thao ở khu vực Tân Đức-Minh Nông (Tp. Việt Trì, Phú Thọ) 
Trong bảng 1 trình bày một số tính chất cơ lý 
của đất đá cấu tạo bờ sông ở khu vực Minh Nông 
(Việt Trì) 
Bảng 1. Một số chỉ tiêu cơ lý trung bình của một số loại 
đất ngoài đê sông Hồng khu vực Tân Đức - Minh Nông 
Nhóm đất 
Dung trọng 
γ (g/cm3) 
Lực dính kết C 
(Kg/cm2) 
Góc ma sát 
trong ϕ (độ) 
Đất sét 1,80 0,18 14037 
Đất sét pha 1,82 0,18 8055 
Đất thịt 1,77 0,19 15027 
Đất cát pha 1,79 0,16 12014 
Kết quả phân tích các đặc tính cơ lý đất bờ 
sông khu vực hợp lưu đều cho thấy tốc độ không 
xói của hạt cấu tạo nên bờ đều nhỏ hơn 1,5m/s 
(theo [2]). Trong điều kiện vận tốc dòng chảy sông 
Hồng thường xuyên khá lớn (vào thời điểm 9/2002, 
vận tốc dòng chảy Vmax đo tại Thụy Vân vẫn còn 
đạt tới 1,82m/s [theo Phùng Quang Phúc, 2003. 
Nghiên cứu diễn biến xói bồi vùng ngã ba Thao - 
Đà - Lô - Hồng và cục bộ ở Thụy Vân. Báo cáo hội 
thảo “Một số kết quả nghiên cứu diễn biến lòng 
dẫn các sông ở đồng bằng Bắc Bộ và công tác 
phòng chống lũ năm 2003”. Đề tài KC-08.11, 
Chương trình KC-08] thì vấn đề xói lở bờ sông sẽ 
xẩy ra trên nhiều khu vực. 
5.2.3. Đặc điểm thuỷ văn 
Trong phạm vi của vùng hợp lưu, các dòng 
chảy thúc đẩy lẫn nhau tạo nên các dòng chảy rối 
xoắn ốc rất phức tạp. Khi các vòng xoáy áp sát bờ 
thường gây xói lở dẫn đến sạt lở, sụp đổ bờ nhanh 
chóng. Do vị trí và cường độ phá huỷ của các dòng 
chảy rối xoắn thay đổi liên tục, chúng phụ thuộc 
vào lưu lượng và vận tốc của từng dòng phụ lưu 
khi đổ vào vùng hợp lưu nên hiện tượng sạt lở và 
sụp đổ bờ sông tại các vùng hợp lưu thường xảy ra 
phức tạp và không có quy luật rõ ràng. 
Sông Hồng có chế độ thuỷ văn rất phức tạp, 
sông có lưu lượng lớn, hàng năm thường xuất hiện 
các trận lũ lớn, nhưng thường xuyên có sự lệch pha 
đỉnh lũ của các sông nhánh. Ở khu vực hợp lưu, vị 
trí sạt lở và cường độ phá huỷ bờ ở đây phụ thuộc 
rất nhiều vào sự đóng góp dòng chảy lũ của các 
 23
dòng sông. Khi lưu lượng lũ sông Thao lớn hơn 
sông Đà thì các vòng xoáy áp sát bờ phải và sạt lở 
xảy ra trên địa phận xã Phong Vân, Cổ Đô (Ba Vì, 
Hà Nội). Khi lưu lượng lũ sông Đà lớn hơn lũ sông 
Thao thì các vòng xoáy áp sát bờ trái và sạt lở xảy 
ra mạnh mẽ trên bờ sông thuộc các xã Vĩnh Lại, 
Cao Xá, Tân Đức, Minh Nông. Khi lưu lượng lũ 
sông Lô nhỏ hơn tổng lũ sông Đà sông Thao, sạt lở 
sẽ xảy ra tại bờ trái thuộc phường Bạch Hạc thành 
phố Việt Trì; nếu ngược lại (trường hợp này ít xảy 
ra hơn), sạt lở sẽ xảy ra trên cồn Tản Hồng và 
Phú Cường. 
Mặc dù có sự điều tiết của hồ Hoà Bình nhưng 
với cường độ gia tăng mực nước lũ trung bình 
0,77m/h, tổng lượng dòng chảy góp lũ chiếm 49%, 
lũ sông Đà vẫn được coi là lớn nhất trong các sông 
đổ vào vùng hợp lưu Việt Trì. Bởi vậy trong thực 
tế, sạt lở bờ sông tại xã Thuỵ Vân, Tân Đức, Minh 
Nông và phường Bạch Hạc thành phố Việt Trì xảy 
ra mạnh mẽ nhất trên toàn vùng hợp lưu Việt Trì. 
5.3. Các hoạt động nhân sinh 
5.3.1. Điều tiết của hồ thuỷ điện Hoà Bình 
Hồ thuỷ điện Hoà Bình có tác dụng tích cực 
trong điều tiết nước, cắt lũ cho hệ thống sông 
Hồng. Tuy nhiên, việc điều tiết ấy lại có những ảnh 
hưởng tiêu cực tới vùng hạ lưu. Khi nhà máy thủy 
điện Hòa Bình mở cửa xả nước thì mực nước sông 
dâng lên nhanh chóng, nhiều khi tới 0,5m chỉ sau 
vài giờ. Chính sự dao động lớn mực nước đã thúc 
đẩy quá trình xói lở bờ sông, như đã phân tích ở 
trên. Hơn thế nữa, sự điều tiết nước của hồ Hoà 
Bình đã làm thay đổi chế độ thuỷ văn của hạ lưu, 
rõ ràng nhất là khu vực hợp lưu Thao - Đà. Tại khu 
vực này, do sông Đà bị ngăn bởi đập thuỷ điện và 
bị điều tiết theo mục tiêu phát điện và cắt lũ nên 
mực nước thường xuyên thấp hơn mực nước trung 
bình. Do đó dòng chảy sông Thao đã thường trở nên 
vượt trội và chuyển hướng chảy thẳng sang phía bờ 
phải của khu vực hợp lưu gây xói lở mạnh ở khu 
vực Phong Vân, Cổ Đô, như đã trình bày ở trên. 
5.3.2. Hệ thống kè 
Mặt tích cực của kè là nó có thể chống xói lở, 
nhưng lại làm cho dòng chảy sông thường phải đổi 
hướng, nhất là khi có kè mỏ hàn lái dòng, dẫn đến 
xói lở ở phía bờ đối diện. Tác dụng hai mặt của kè 
có thể quan sát được khá rõ nếu xem xét toàn bộ 
diễn biến hiện tượng sạt lở bờ sông ở khu vực này 
theo thời gian. Trong những năm 50 của thế kỷ 
XX, dòng chủ lưu Thao - Đà thường áp sát phía bờ 
trái gây sạt lở mạnh ở khu vực xã Vĩnh Lại. Nhiều 
hộ dân đã phải di chuyển vào trong đê. Sau khi 
xuất hiện kè Lê Tính (thuộc xã Vĩnh Lại, xây dựng 
năm 1950), đặc biệt sau khi có hệ thống mỏ hàn 
cứng (1977), do tác động của kè mỏ hàn nắn dòng, 
hiện tượng xói lở có xu thế dịch chuyển sang bờ 
phải ở khu vực xã Cổ Đô. Từ sau năm 1987, khi hồ 
Hòa Bình đi vào hoạt động, dòng chủ lưu ở khu 
vực hợp lưu Thao - Đà luôn có xu thế áp sát bờ 
phải, phía bờ trái thuộc địa phận xã Vĩnh Lại, Cao 
Xá xuất hiện bãi bồi khá rộng. Điều đó dẫn đến xói 
lở mạnh phía bờ phải ở khu vực Cổ Đô đe dọa trực 
tiếp tuyến đê ngăn lũ chạy gần sát bờ sông. Trong 
những năm 80 - 90, người ta đã cho xây kè lát mái 
kết hợp với kè nắn dòng ở khu vực này gồm 3 kè: 
Cổ đô, Viên Châu và Phú Cường dài khoảng 5km 
với một loạt mỏ hàn cứng. Dưới tác động của kè 
nắn dòng, dòng chảy của sông lại đổi hướng sang 
phía bờ trái và gần như vuông góc với bờ sông ở 
khu vực Tân Đức - Minh Nông. Kết quả là bờ sông 
ở khu vực này bị sạt lở nghiêm trọng như đã mô tả 
ở trên. Trong các năm từ 1999 đến 2002, đoạn bờ 
sông từ Thanh Miếu (Tp. Việt Trì) đến Tân Đức đã 
được kè. Tuy nhiên, hiện tượng sạt lở vẫn tiếp tục 
xảy ra, thậm chí một đoạn kè dài hơn 30m cũng bị 
đánh sập [Trần Trọng Huệ, 2004: Nghiên cứu đánh 
giá tổng hợp các loại hình tai biến địa chất lãnh thổ 
Việt Nam và các phương pháp phòng chống (giai 
đoạn 2 - các tỉnh miền núi phía Bắc)”. Báo cáo 
tổng kềt đề tài độc lập cấp nhà nước. Lưu trữ Viện 
Địa chất. Hà Nội]. Đồng thời, sạt lở lại xảy ra ở 
phía bờ đối diện thuộc xã Châu Sơn, Phú Châu (ở 
phần hạ lưu) và xã Phong Vân (ở phần thượng 
lưu). Từ năm 2004, sau khi đoạn bờ sông ở xã 
Phong Vân được kè bảo vệ thì xói lở lại gia tăng ở 
phía bờ đối diện thuộc xã Cao Xá, Thụy Vân và 
phần chưa có kè ở xã Tân Đức. 
Có thể nói rằng, ngoài các yếu tố tự nhiên theo 
các quy luật chung, các hoạt động nhân sinh (điều 
tiết nước của hồ Hòa Bình, kè bờ) có vai trò không 
nhỏ đối với tai biến sạt lở bờ sông, phá vỡ quy luật 
tự nhiên và làm phức tạp hóa tình trạng này ở khu 
vực hợp lưu Thao - Đà - Lô. Từ việc phân tích vai 
trò của các hoạt động nhân sinh đối với tai biến sạt 
lở bờ sông ở khu vực này cho thấy, không phải bất 
cứ nỗ lực nào của con người nhằm chế ngự thiên 
nhiên cũng đều mang lại những kết quả tích cực 
như mong muốn. Cần phải nhận thức được rằng, 
tai biến thiên nhiên là những hiện tượng tự nhiên, 
 24 
nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Do đó, 
cách ứng xử khôn ngoan là chấp nhận nó và nắm 
lấy quy luật tự nhiên đó để có các giải pháp phòng 
tránh thích hợp và không làm cho nó trở nên phức 
tạp và nguy hiểm hơn. 
6. Kết luận 
Khu vực hợp lưu các nhánh chính của hệ thống 
sông Hồng trong 50 năm qua có quá trình biến đổi 
lòng dẫn rất phức tạp gây ra xói lở bờ sông ở nhiều 
nơi. Các yếu tố nội sinh (địa chất, cấu trúc kiến tạo 
và hoạt động của các đứt gãy kiến tạo) là nguyên 
nhân sâu xa của quá trình biến đổi lòng dẫn gây xói 
lở bờ. Các yếu tố ngoại sinh như đặc điểm hình 
thái lòng dẫn, chế độ thủy văn, cấu tạo đất đá bờ 
sông và các hoạt động nhân sinh đóng vai trò thúc 
đẩy quá trình đó. Do đặc điểm địa chất và cấu trúc 
kiến tạo, quy luật chung là hoạt động xâm thực 
ngang hạn chế của lòng sông về phía bắc và phù 
hợp với quy luật phát triển lòng sông tại các khúc 
uốn. Tuy nhiên, hiện tượng xói lở bờ sông ở đây bị 
phức tạp hóa do tính phức tạp của chế độ thủy văn, 
thủy lực vùng hợp lưu và các hoạt động của con 
người. Các hoạt động của con người (điều tiết nước 
của hồ Hòa Bình, hệ thống kè) không những góp 
phần làm phức tạp bức tranh xói lở - bồi tụ mà 
nhiều khi làm thay đổi hẳn quy luật phát triển lòng 
dẫn sông. 
Một trong các giải pháp chống xói lở bờ sông là 
kè bảo vệ. Giải pháp này đã và đang được áp dụng 
gần như trên toàn tuyến bờ sông ở khu vực này. 
Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, đoạn sông ở 
khu vực này có xu thế phát triển lòng dẫn về phía 
bắc dẫn đến xói lở bờ trái sông ở khu vực hợp lưu 
Thao - Đà và sẽ vẫn còn tiếp tục. Do đó, mặc dù hệ 
thống kè trước mắt đã có tác dụng bảo vệ bờ sông 
tránh sạt lở, nhưng nguy cơ sạt lở vẫn rất cao, đặc 
biệt là đoạn bờ trái từ Vĩnh Lại đến Tiên Cát. Điều 
đó đòi hỏi cần có thiết kế kè thích hợp và phải có 
các giải pháp hộ chân kè cũng như thường xuyên tu 
bổ kè đề phòng các diễn biến bất thường có thể làm 
hư hại hoặc phá hủy kè như đã từng xảy ra với kè 
Tân Đức - Minh Nông năm 2000 và 2002. Ngoài 
ra, cần luôn luôn đề cao cảnh giác và có phương án 
dự phòng trong trường hợp có các diễn biến xấu. 
Về lâu dài cần kết hợp giữa các giải pháp công 
trình với công tác quản lý. Cần xây dựng một chiến 
lược lâu dài phòng chống tai biến, trong đó đặc biệt 
chú trọng các giải pháp phòng tránh thông qua việc 
quy hoạch sử dụng hợp lý lãnh thổ. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Nguyễn Hùng, Phạm Tích Xuân, 2004: Về hệ 
thống đứt gãy hoạt động tại khu vực hồ Hòa Bình. 
Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, T.26, (4), 
tr.139-446. 
[2] Lomtadze, V.Đ., 1977: Địa chất động lực 
công trình. Nxb. Nedra, Matxcơva, (tiếng Nga), 
497tr. 
[3] Ngô Quang Toàn, Đặng Huy Rằm, 2005: Về 
tai biến sạt lở bờ sông ở vùng Tân Đức, Ba Vì, Hà 
Nôi. Địa chất No.286, tr.23-26. 
[4] Nguyễn Trọng Yêm, 1991: Đặc điểm chủ yếu 
của địa động lực hiện đại lãnh thổ miền Bắc Việt 
Nam. Địa chất Tài nguyên, tr.7-10. 
SUMMARY 
River bank erosion assessment in the confluence of Thao, Da, and Lo rivers 
River bank erosions in the confluence of Thao - Da - Lo rivers have been occurred and continuously develop. Our 
studies show that endogenous factors including right-slip movement of Red River Fault are underlying reason of the risks 
of river bank erosion and exogenous factors including morphology of river-bed, hydrological regime, characteristics of 
the river-bank constructed rocks and human activities play important roles in speeding up the process. Due to the 
geological and tectonic structures of the region, the river-bed development has northward tendency and risks of the river-
bank erosion are unavoidable. Human activities just complicate these problems. Risks of river-bank erosion in the 
confluence of Thao - Da - Lo rivers are still very high, so there need suitable solutions to prevent possibly bad 
consequences. 

File đính kèm:

  • pdftai_bien_sat_lo_bo_song_khu_vuc_hop_luu_cac_song_thao_da_lo.pdf