Tác động của trải nghiệm du lịch đến cảm xúc và sự hài lòng của du khách - nghiên cứu trường hợp điểm đến Nha Trang
Trải nghiệm du lịch là vấn đề tương đối mới và chỉ trở thành tâm điểm chú ý của các nhà nghiên
cứu kể từ khi kinh tế trải nghiệm (Experience Economy) được đề cập như là một lĩnh vực nghiên cứu chính
thống. Thay vì chỉ dừng lại việc đánh giá mối liên hệ giữa một số yếu tố như chất lượng dịch vụ, thuộc tính
của điểm đến với sự hài lòng và ý định hành vi, các nổ lực nghiên cứu trải nghiệm du lịch gần đây đang
hướng đến xác định thang đo lường các thành phần trải nghiệm du lịch, cũng như tác động của nó đến sự
hài lòng của du khách được kiểm định trong các ngữ cảnh dịch vụ khác nhau. Cùng hướng với các nổ lực
này, nghiên cứu này tiến hành khảo sát với 362 du khách tại điểm đến Nha Trang, sử dụng mô hình phương
trình cấu trúc để phân tích ảnh hưởng của trải nghiệm đến cảm xúc và sự hài lòng của du khách đối với
điểm đến. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về kiểm định thang đo trải
nghiệm du lịch, có thể được vận dụng trong các nghiên cứu tiếp theo về trải nghiệm du lịch, cảm xúc và sự
hài lòng của du khách.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của trải nghiệm du lịch đến cảm xúc và sự hài lòng của du khách - nghiên cứu trường hợp điểm đến Nha Trang
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển pISSN: 2588-1205; eISSN: 2615-9716 Tập 129, Số 5C, 2020, Tr.137–154; DOI: 10.26459/hueunijed.v129i5C.6114 * Liên hệ: bthitam@hueuni.edu.vn Nhận bài: 29-11-2020; Hoàn thành phản biện: 15-12-2020; Ngày nhận đăng: 16-12-2020 TÁC ĐỘNG CỦA TRẢI NGHIỆM DU LỊCH ĐẾN CẢM XÚC VÀ SỰ HÀI LÒNG CỦA DU KHÁCH – NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP ĐIỂM ĐẾN NHA TRANG Bùi Thị Tám*, Trần Ngọc Phước Trường Du lịch – Đại học Huế, 22 Lâm Hoằng, Huế, Việt Nam Tóm tắt: Trải nghiệm du lịch là vấn đề tương đối mới và chỉ trở thành tâm điểm chú ý của các nhà nghiên cứu kể từ khi kinh tế trải nghiệm (Experience Economy) được đề cập như là một lĩnh vực nghiên cứu chính thống. Thay vì chỉ dừng lại việc đánh giá mối liên hệ giữa một số yếu tố như chất lượng dịch vụ, thuộc tính của điểm đến với sự hài lòng và ý định hành vi, các nổ lực nghiên cứu trải nghiệm du lịch gần đây đang hướng đến xác định thang đo lường các thành phần trải nghiệm du lịch, cũng như tác động của nó đến sự hài lòng của du khách được kiểm định trong các ngữ cảnh dịch vụ khác nhau. Cùng hướng với các nổ lực này, nghiên cứu này tiến hành khảo sát với 362 du khách tại điểm đến Nha Trang, sử dụng mô hình phương trình cấu trúc để phân tích ảnh hưởng của trải nghiệm đến cảm xúc và sự hài lòng của du khách đối với điểm đến. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về kiểm định thang đo trải nghiệm du lịch, có thể được vận dụng trong các nghiên cứu tiếp theo về trải nghiệm du lịch, cảm xúc và sự hài lòng của du khách. Từ khóa: Trải nghiệm du lịch, cảm xúc, sự hài lòng, mô hình phương trình cấu trúc, Nha Trang 1 Đặt vấn đề Nghiên cứu tổng quan các xu hướng thị trường du lịch hiện đại cho thấy sự chuyển đổi rõ rệt từ du lịch 3S truyền thống (Sun – Sand – Sea) sang trải nghiệm 3Hs (Head – Heart – Hands) kết hợp nhận thức, tình cảm và thực nghiệm. Du khách đi du lịch không chỉ đơn thuần là để thưởng thức cảnh đẹp, mà còn là cơ hội để trực tiếp trải nghiệm chuyến đi một cách đầy đủ và tiếp nhận trải nghiệm theo cách gia tăng hiểu biết, tình cảm và sự khẳng định mình. Từ góc độ nghiên cứu, trải nghiệm du lịch là vấn đề tương đối mới và chỉ trở thành tâm điểm chú ý của các nhà nghiên cứu kể từ khi kinh tế trải nghiệm (Experience Economy) được đề cập như là một lĩnh vực nghiên cứu chính thống [23]. Ở Việt Nam hiện có quá ít các nghiên cứu đi theo hướng tiếp cận này. Hầu hết các nghiên cứu chỉ dừng lại đánh giá mối liên hệ giữa một số yếu tố như động cơ du lịch (nội tại), khả năng thu hút của điểm đến (ngoại vi) đến sự hài lòng và ý định quay trở lại. Thiếu các nghiên cứu có tính hệ thống và mối liên hệ giữa trải nghiệm – nhận thức Bùi Thị Tám, Trần Ngọc Phước Tập 129, Số 5C, 2020 138 (cảm xúc và lý trí) và sự hài lòng của du khách, trên cơ sở đó để có những giải pháp quản trị hợp lý nhằm gia tăng sự hài lòng cho du khách. Với mục đích cung cấp trường hợp điển hình về vận dụng mô hình trải nghiệm của Pine and Gilmore [23], nghiên cứu này tiến hành khảo sát với 362 du khách tại điểm đến Nha Trang và sử dụng mô hình phương trình cấu trúc để phân tích ảnh hưởng của trải nghiệm đến cảm xúc và sự hài lòng của du khách đối với điểm đến. 2 Cơ sở lý thuyết nghiên cứu trải nghiệm du lịch, cảm xúc và sự hài lòng của du khách đối với điểm đến 2.1 Khái niệm kinh tế trải nghiệm Có thể nói trong số những học giả đầu tiên đưa ra khái niệm về kinh tế trải nghiệm là Pine và Gilmore - hai nhà kinh tế học của Đại học Harvard – Mỹ. Theo các tác giả này, kinh tế trải nghiệm (Experience Economy - hay còn gọi kinh tế thể nghiệm) là giai đoạn thứ tư trong tiến trình phát triển và chuyển hóa hình thái kinh tế của nhân loại. Kinh tế trải nghiệm là nền kinh tế mà đến mức độ phát triển chính thống nào đó sẽ thay thế các hình thái kinh tế hiện tại (hoặc đa phần hoặc toàn bộ). Trong nền “kinh tế trải nghiệm”, hệ thống giá trị không nằm ở bản thân sản phẩm hay dịch vụ mà nằm ở yếu tố trải nghiệm được tạo ra và được xem như là một quá trình tổ chức, dàn dựng và diễn trình (staging) – yếu tố cơ bản để mang đến sự hài lòng cho khách hàng với dịch vụ [23]. Sự khác biệt đáng chú ý trong kinh tế trải nghiệm là quan điểm của nhà cung cấp sản phẩm dịch vụ đối với khách hàng của họ [2], [4], [23], [24]. Nếu từ hình thái kinh tế sản xuất vật phẩm đến hàng hóa thông thường, người mua (buyers) được thay bằng khách hàng (customers), thì ở kinh tế dịch vụ họ được coi là xem khách hàng quan trọng (clients), được quan tâm phục vụ ngay cả sau khi họ mua hàng hóa, dịch vụ. Trong kinh tế thể nghiệm, khách hàng lại được xem trọng hơn như là những người khách (guest). Lấy tâm điểm phân tích là cá nhân hóa dịch vụ (customization), Pine và Gilmore [23, tr. 70] lập luận rằng ‘cá nhân hóa là con đường chắc chắn để tổ chức và cung cấp trải nghiệm tích cực cho khách hàng’. Trên thực tế, quan điểm này rõ ràng là không phải quá mới mà trên thực tế đã hiện hữu trong tiến trình cung cấp dịch vụ. Khác biệt ở đây chỉ là sự khái quát về tiến trình chuyển đổi sáng tạo các giá trị kinh tế theo hướng mang đến trải nghiệm tích cực cho người tiêu dùng. Như vậy, dù về mặt thuật ngữ có vẻ là sự thay đổi đơn thuần là các tên gọi khác nhau của người mua/khách hàng, nhưng từ góc độ marketing thì đây là sự thay đổi cơ bản trong triết lý quản trị marketing nhằm chuyển tải và gia tăng giá trị trải nghiệm cho khách hàng của họ. jos.hueuni.edu.vn Tập 129, Số 5C, 2020 139 Đặc trưng chính của kinh tế trải nghiệm đó chính là các nhà cung cấp tập trung vào việc tạo ra những trải nghiệm khó quên cho khách hàng bằng cách gia tăng giá trị cho các dịch vụ của mình [4], [9], [27]. Đặc trưng này được ‘cha đẻ’ của khái niệm này nhấn mạnh “trong khi công việc của nhà cung cấp trải nghiệm kết thúc ngay sau khi thực hiện thì giá trị của trải nghiệm lại được lưu giữ trong trí nhớ của bất cứ ai tham gia vào sự kiện... Trong khi trải nghiệm chính nó là thiếu ... gồm trải nghiệm thẩm mỹ (TNTHMY), trải nghiệm thoát ly (TNTHLY), trải nghiệm giải trí (TNGTRI) và trải Bảng 2. Hệ số tương quan của các khái niệm đa hướng và đơn hướng Mối quan hệ Hệ số tương quan Sai lệch chuẩn C.R Giá trị P Cảm xúc ↔ Trải nghiệm du lịch 0,1843 0,0087 1,9882 0.003 Trải nghiệm du lịch ↔ Sự hài lòng 0,2442 0,0077 2,3182 0.002 Cảm xúc ↔ Sự hài lòng 0,9432 0,018 5,8484 0.000 Nguồn: Xử lý số liệu điều tra, tháng 9–12/2019 Bùi Thị Tám, Trần Ngọc Phước Tập 129, Số 5C, 2020 148 Bảng 3. Hệ số tin cậy tổng hợp và phương sai trích bình quân của các khái niệm Khái niệm Khái niệm/Thành phần Độ tin cậy tổng hợp (ComR) Phương sai trích (AVE) Trải nghiệm du lịch (EXPERI) Trải nghiệm thẩm mỹ (TNTHMY) 0,813 0.710 Trải nghiệm thoát ly (TNTHLY) 0,787 0.646 Trải nghiệm giải trí (TNGTRI) 0,762 0.663 Trải nghiệm giáo dục (TNHHOC) 0,781 0.731 Cảm xúc (EMO) 0,785 0.689 Sự hài lòng (SAT) 0,583 0.561 Nguồn: Xử lý số liệu điều tra, tháng 9–12/2019 nghiệm giáo dục (TNHHOC) đều đạt yêu cầu về độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích (Bảng 3). 4.5 Kiểm định mô hình nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu Kiểm định mô hình nghiên cứu Mô hình nghiên cứu có 214 bậc tự do. Kết quả phân tích SEM cho thấy mô hình nghiên cứu này đạt được độ tương thích với dữ liệu thị trường: χ2[214] = 574.1774 (p = 0.000); CMIN/df = 2,683; CFI = 0.905; GFI = 0.885; và RMSEA = 0.097. Sơ đồ 3. Kết quả SEM (chuẩn hóa) mô hình nghiên cứu jos.hueuni.edu.vn Tập 129, Số 5C, 2020 149 Kiểm định các giả thuyết nghiên cứu Kết quả ước lượng chuẩn hóa của các tham số chính trong mô hình nghiên cứu được trình bày ở Bảng 4. Các kết quả này cho thấy các mối quan hệ này đều có ý nghĩa thống kê (p<0.05), nghĩa là các giả thuyết (H1 đến H3) về mối quan hệ của các khái niệm đề ra trong mô hình nghiên cứu đều được chấp nhận. Bảng 4. Hệ số ước lượng chuẩn hóa từ phân tích mô hình SEM Giả thuyết Mối quan hệ Ước lượng chuẩn hóa (𝜷) Giá trị P Kiểm định giả thuyết H1 Trải nghiệm du lịch → Cảm xúc 0,1843 0.039 Chấp nhận H2 Trải nghiệm du lịch → Sự hài lòng 0,0728 0.000 Chấp nhận H3 Cảm xúc → Sự hài lòng 0,9298 0.000 Chấp nhận R2 = 89,4 % (giải thích bởi trải nghiệm du lịch, cảm xúc, sự hài lòng) Giả thuyết H1: Những dạng trải nghiệm du lịch có tác động tích cực đến cảm xúc của chuyến đi. Kết quả ước lượng cho thấy giả thuyết này được chấp nhận (β = 0.1843, p < 0.05). Kết quả của nghiên cứu này cho thấy vai trò quan trọng của trải nghiệm du lịch đối với những cảm xúc và ấn tượng tích cực của du khách về điểm đến. Giả thuyết H2: Những trải nghiệm du lịch có tác động tích cực đến sự hài lòng của du khách đối với điểm đến du lịch Nha Trang. Kết quả ước lượng cho thấy giả thuyết này được chấp nhận (β = 0.0728, p < 0.000). Kết quả của nghiên cứu này cho thấy trải nghiệm du lịch có tác động tích cực đến sự hài lòng của du khách. Giả thuyết H3: Cảm xúc tích cực của khách du lịch đối với điểm đến có tác động tích cực đến sự hài lòng của du khách đối với điểm đến. Kết quả ước lượng cho thấy giả thuyết này được chấp nhận (β =.9298 p < 0.000). Kết quả của nghiên cứu này cho thấy vai trò quan trọng của cảm xúc về điểm đến đối với sự hài lòng của du khách đối với điểm đến Nha Trang. Để đánh giá vai trò trung gian bán phần hay toàn phần của biến trung gian cảm xúc đối với điểm đến, nghiên cứu này tiếp tục xem xét bổ sung mô hình cấu trúc SEM chỉ bao gồm tác động trực tiếp của trải nghiệm du lịch và sự hài lòng của du khách. Kết quả SEM cho thấy mô hình nghiên cứu đạt được độ tương thích với dữ liệu thị trường: χ2[156] = 414.323 (p = 0.000); GFI = 0.859; và RMSEA = 0.096. Kết quả Bảng 5 cho thấy trải nghiệm du lịch tác động trực tiếp (p < 0.05) đến sự hài lòng của du khách đối với điểm đến. Như vậy, kết hợp với Bảng 4, có thể kết luận tồn tại song song tác động trực tiếp và gián tiếp của trải nghiệm du lịch đến sự hài lòng. Theo đó, cảm xúc đóng vai trò trung gian bán phần giữa trải nghiệm du lịch với sự hài lòng của du khách đối với điểm đến. Bùi Thị Tám, Trần Ngọc Phước Tập 129, Số 5C, 2020 150 Bảng 5. Tác động trực tiếp của trải nghiệm du lịch đến sự hài lòng và ý định hành vi Giả thuyết Mối quan hệ giữa khái niệm Ước lượng chuẩn hóa (𝜷) Giá trị P Kiểm định giả thuyết H4 Trải nghiệm du lịch → Sự hài lòng 0.2452 0.017 Chấp nhận Sơ đồ 4. Kết quả SEM mô hình phân tích tác động trung gian Kết quả kiểm định cho thấy trải nghiệm du lịch tác động tích cực đến cảm xúc và sự hài lòng của du khách đối với điểm đến Nha Trang. Với mỗi hành trình, mỗi điểm đến du khách sẽ có nhiều cơ hội trải nghiệm khác nhau và mang những cảm xúc khác nhau. Sự hài lòng của du khách sẽ được gia tăng nếu như những trải nghiệm du lịch thật sự ấn tượng và tạo dựng cảm xúc tích cực đối với điểm đến. Kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm để củng cố thêm các phát hiện về các yếu tố cấu thành trải nghiệm du lịch dựa trên cơ sở mô hình của Pine and Gilmore [23] cũng như ảnh hưởng của trải nghiệm du lịch đến cảm xúc và sự hài lòng của du khách. Cùng với các nghiên cứu trước đây được thực hiện trong những ngữ cảnh dịch vụ khác nhau (ví dụ Oh và các cộng sự [20], Ali và các cộng sự [1]) đã xác định bốn thành phần của thang đo trải nghiệm du lịch trong ngữ cảnh của dịch vụ lưu trú, kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy cả bốn thành phần đo lường trải nghiệm du lịch đều đạt yêu cầu về độ tin cậy tổng hợp, tính đơn nguyên, giá trị hội tụ jos.hueuni.edu.vn Tập 129, Số 5C, 2020 151 và giá trị phân biệt. Kết quả này cung cấp bằng chứng kiểm định thực nghiệm về các thành tố cấu thành trải nghiệm du lịch ở phạm vi điểm đến, khi mà gần như chưa có một nghiên cứu có tính hệ thống nào được thực hiện. Hơn thế, kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu về ảnh hưởng trải nghiệm du lịch đến cảm xúc và sự hài lòng đối với điểm đến du lịch của nghiên cứu này giúp bổ sung thêm bằng chứng để làm rõ quan hệ tương tác giữa trải nghiệm du lịch với cảm xúc và sự hài lòng của du khách như đề xuất của một số nghiên cứu trước đây [5], [13], [1]. 5 Kết luận Được khởi xướng khá muộn màng nhưng mô hình 4 thành phần trải nghiệm của Pine and Gilmore [24] đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong nghiên cứu sự hài lòng của khách hàng, nhất là trong lĩnh vực du lịch dịch vụ. Tổng lược các nghiên cứu liên quan trong 20 năm qua cho thấy về cơ bản các nghiên cứu trong lĩnh vực du lịch đang tập trung kiểm định mô hình 4 thành phần trải nghiệm trong các ngữ cảnh dịch vụ khác nhau nhằm xác định thang đo trải nghiệm du lịch. Đồng thời, nghiên cứu mức độ ảnh hưởng và tương tác giữa các yếu tố thang đo trải nghiệm du lịch với các biến số như cảm xúc, trải nghiệm đáng nhớ và sự hài lòng. Cùng hướng với các nổ lực này, nghiên cứu này đã tiến hành phân tích và xác định bốn yếu tố cấu thành trải nghiệm du lịch của du khách khi đến với điểm đến Nha Trang, gồm trải nghiệm thẩm mỹ, trải nghiệm thoát ly, trải nghiệm giải trí và trải nghiệm giáo dục. Kết quả này là nhất quán với các nghiên cứu trước đó mặc dù khác ngữ cảnh dịch vụ. Theo đó, kết quả này sẽ cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm kiểm định thang đo trải nghiệm du lịch, có thể được vận dụng trong các nghiên cứu tiếp theo về trải nghiệm du lịch, cảm xúc và sự hài lòng của du khách. Mặt khác, kết quả kiểm định cho phép chấp nhận các giả thuyết nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ và các tác động trực tiếp, gián tiếp với ý nghĩa thống kê cao giữa trải nghiệm du lịch, cảm xúc và sự hài lòng của du khách đối với điểm đến. Theo đó, cho phép khẳng định vai trò quan trọng của trải nghiệm du lịch và cảm xúc đối với sự hài lòng của du khách đối với điểm đến. Đây chính là cơ sở để các nhà quản lý có thể xây dựng và triển khai các giải pháp nhằm sáng tạo và cung cấp các trải nghiệm đa chiều cho du khách, góp phần củng cố các cảm xúc tích và nâng cao sự hài lòng của du khách đối với điểm đến. Bùi Thị Tám, Trần Ngọc Phước Tập 129, Số 5C, 2020 152 Tài liệu tham khảo 1. Ali, F., Ryu, K., & Hussain, K. (2016), Influence of experiences on memories, satisfaction and behavioral intentions: A study of creative tourism, Journal of Travel & Tourism Marketing, 33(1), 85–100. 2. Andersson, T. D. (2007), The tourist in the experience economy, Scandinavian Journal of hospitality and tourism, 7(1), 46–58. 3. Bagozzi, R., Gopinath, M. and Nyer, P. (1999), The role of emotions in marketing, Academy of Marketing Science, 27(2), 184–206. 4. Berry, L., Carbone, L. and Haeckel, S., (2002), Managing the total customer experience, MIT Sloan Management Review, 43(3), 85–89. 5. Burns, D. and Neisner, L. (2006), Customer satisfaction in a retail setting: The contribution of emotion, International Journal of Retail and Distribution Management, 34(1), 49–66. 6. Chang, S. (2018), Experience economy in the hospitality and tourism context. Tourism Management Perspectives, 27, 83–90. 7. Chen, C. F., & Chen, F. S. (2010), Experience quality, perceived value, satisfaction and behavioral intentions for heritage tourists, Tourism Management, 31, 29–35. 8. Field, A. (2009), Discovering Statistics Using SPSS, 3rd Edition. 9. Galvagno, M., & Dalli, D. (2014), Theory of value co-creation: a systematic literature review, Managing Service Quality: An International Journal, 24(6), 643–683. 10. Gentile, C., Spiller, N. and Noci, G. (2007), How to sustain the customer experience: An overview of experience components that co-create value with the customer, European Management Journal, 25(5), 395–410. 11. Gerbing, D. W., & Anderson, J. C. (1988), An updated paradigm for scale development incorporating unidimensionality and its assessment, Journal of marketing research, 186–192. 12. Hair, J. F., Black, W. C., Babin, B. J., & Anderson, R. E. (2014), Structural Equations Modeling Overview, Trong Multivariate Data Analysis (7 Edition), 541–598, Englewood Cliffs, NJ: Pearson Education Limited. 13. Hosany, S., & Witham, M. (2010), Dimensions of cruisers’ experiences, satisfaction, and intention to recommend, Journal of Travel Research, 49(3), 351–364. 14. Jurowski, C. (2009), An Examination of the Four Realms of Tourism Experience Theory (2009), International CHRIE Conference. 15. Kim, J. H. (2010), Development of a scale to measure memorable tourism experiences, European Journal of Tourism Research, 3(2), 123–126. jos.hueuni.edu.vn Tập 129, Số 5C, 2020 153 16. Koler, P., Bowen, J. and Makens, J. (2006), Marketing for Hospitality and Tourism, Third Edition, Prentice Hall. 17. Ladhari, R. (2009), Service quality, emotional satisfaction, and behavioural intentions: A study in the hotel industry, Managing Service Quality, 19(3), 308–331. 18. Lin, J. and Liang, H. (2011), The influence of service environments on customer emotion and service outcomes, Managing Service Quality, 21(4), 350–372. 19. Mehmetoglu, M. and Engen, M. (2011), Pine and Gilmore’s concept of experience economy and its dimensions: An empirical examination in tourism, Journal of Quality Assurance in Hospitality & Tourism, 12(4), 237–255. 20. Oh, H., Fiore, A., & Jeong, M. (2007), Measuring experience economy concepts: Tourism applications, Journal of Travel Research, 46, 119–132. 21. Oke, A. E., Ogunsami, D.R. and S. Ogunlana. (2012), Establishing a common ground for the use of structural equation modelling for construction related research studies, Australasian Journal of Construction Economics and Building, 12 (3), 89–94. 22. Oliver, R.L. (1997), Satisfaction: A Behavioral Perspective on the Consumer, McGrawHill, New York, NY. 23. Pine, B. J., & Gilmore, J. H. (1999), The experience economy: Work is theater and every business a stage, Boston: Harvard Business School Press. 24. Pine, B. J., & Gilmore, J.H. (2011), The experience economy (Updated edition), Boston: Harvard Business School Press. 25. Smit, B. and Melissen, F. (2018), Sustainable Customer Experience Design. Co-creating Experiences in Events, Tourism and Hospitality, Routledge. 26. Walls, A., Okumus, F., Wang, Y. and Kwun, D. J. W. (2011), Understanding the consumer experience: An exploratory study of luxury hotels, Journal of Hospitality Marketing & Management, 20(2), 166–197. 27. Wong, I. A. and Dioko, A. N. (2013), Understanding the mediated moderating role of customer expectations in the customer satisfaction model: The case of casinos, Tourism Management, 36(3), 188–199. Bùi Thị Tám, Trần Ngọc Phước Tập 129, Số 5C, 2020 154 IMPACTS OF TOURIST EXPERIENCES ON TOURISTS’ EMOTION AND SATISFACTION – THE CASE OF NHA TRANG TOURISM DESTINATION Bui Thi Tam*, Tran Ngoc Phuoc School of Hospitality and Tourism – Hue University, 22 Lam Hoang St., Hue, Vietnam Abstract: Tourist experience is a relatively new concept that has drawn keen interest from researchers since the concept of the experience economy was introduced in late 1990s. Instead of examining the relationship between such the factors as service quality, destination attributes and tourist satisfaction and behavioral intention, the recent research efforts on tourist experiences move towards developing a scale for measuring the tourist experiences and examining the impacts on tourist satisfaction in different service contexts. In this direction, this study carried out a survey on 362 tourists in Nha Trang destination, and applied the structural equation modelling to test the impacts of tourist experiences on tourist emotion and satisfaction with destination. The results from this study add empirical evidences for testing the measurement scale of tourist experiences, which can be replicated in future studies on tourist experience, emotion and satisfaction. Keywords: tourist experiences, emotion, satisfaction, structural equation modelling, Nha Trang
File đính kèm:
- tac_dong_cua_trai_nghiem_du_lich_den_cam_xuc_va_su_hai_long.pdf