Sự hiện hiện của các bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp và vi bào tử trùng trên tôm giống và tôm nuôi nước lợ ở ĐBSCL năm 2018
Nghiên cứu được thực hiện trên 800 mẫu tôm giống thu tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Vũng
Tàu và ĐBSCL và 151 mẫu tôm nuôi nuớc lợ được thu tại các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng,
Trà Vinh. Mẫu tôm được thu từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2018, và được kiểm tra một số mầm bệnh
nguy hiểm như WSSV, Vibrio parahaemolyticus và EHP bằng phương pháp PCR. Trong mùa khô,
tỷ lệ phần trăm các mẫu tôm giống dương tính với WSSV, Vibrio parahaemolyticus và EHP lần lượt
là 0,99%, 6,17% và 6,42%; đối với mẫu tôm nuôi thì tỷ lệ nhiễm WSSV, Vibrio parahaemolyticus và
EHP lần lượt là 0%, 3,57% và 17,56%. Trong mùa mưa, các mẫu tôm giống có tỷ lệ nhiễm WSSV,
Vibrio parahaemolyticus và EHP lần lượt là 1,27%, 1,77% và 7,09%; đối với mẫu tôm nuôi thì tỷ lệ
nhiễm WSSV, Vibrio parahaemolyticus và EHP lần lượt là 3,97%, 4,21% and 21,05%. So với năm
2015, 2016 và 2017 thì tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus và WSSV trên tôm giống trong năm 2018
là 3,63%, cao hơn năm 2017 (2,39%), năm 2016 (2,42%) và 2015 (0,2%). Tỷ lệ nhiễm WSSV trong
năm 2018 là 1,13%, cao hơn năm 2017 (0,91%), thấp hơn năm 2016 (1,7%) và năm 2015(3,4%).
Đối với EHP ghi nhận tỷ lệ nhiễm trong năm 2018 là 6,75% cao hơn năm 2017 (2,73%) nhưng vẫn
thấp hơn so với năm 2016 (13,37%) và năm 2015 (12,21%).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự hiện hiện của các bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy cấp và vi bào tử trùng trên tôm giống và tôm nuôi nước lợ ở ĐBSCL năm 2018
44 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II SỰ HIỆN HIỆN CỦA CÁC BỆNH ĐỐM TRẮNG, HOẠI TỬ GAN TỤY CẤP VÀ VI BÀO TỬ TRÙNG TRÊN TÔM GIỐNG VÀ TÔM NUÔI NƯỚC LỢ Ở ĐBSCL NĂM 2018 Nguyễn Hồng Lộc1, Lê Hồng Phước1* TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện trên 800 mẫu tôm giống thu tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Vũng Tàu và ĐBSCL và 151 mẫu tôm nuôi nuớc lợ được thu tại các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh. Mẫu tôm được thu từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2018, và được kiểm tra một số mầm bệnh nguy hiểm như WSSV, Vibrio parahaemolyticus và EHP bằng phương pháp PCR. Trong mùa khô, tỷ lệ phần trăm các mẫu tôm giống dương tính với WSSV, Vibrio parahaemolyticus và EHP lần lượt là 0,99%, 6,17% và 6,42%; đối với mẫu tôm nuôi thì tỷ lệ nhiễm WSSV, Vibrio parahaemolyticus và EHP lần lượt là 0%, 3,57% và 17,56%. Trong mùa mưa, các mẫu tôm giống có tỷ lệ nhiễm WSSV, Vibrio parahaemolyticus và EHP lần lượt là 1,27%, 1,77% và 7,09%; đối với mẫu tôm nuôi thì tỷ lệ nhiễm WSSV, Vibrio parahaemolyticus và EHP lần lượt là 3,97%, 4,21% and 21,05%.. So với năm 2015, 2016 và 2017 thì tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus và WSSV trên tôm giống trong năm 2018 là 3,63%, cao hơn năm 2017 (2,39%), năm 2016 (2,42%) và 2015 (0,2%). Tỷ lệ nhiễm WSSV trong năm 2018 là 1,13%, cao hơn năm 2017 (0,91%), thấp hơn năm 2016 (1,7%) và năm 2015(3,4%). Đối với EHP ghi nhận tỷ lệ nhiễm trong năm 2018 là 6,75% cao hơn năm 2017 (2,73%) nhưng vẫn thấp hơn so với năm 2016 (13,37%) và năm 2015 (12,21%). Từ khóa: WSSV, AHPND, Vibrio parahaemolyticus, EHP, PCR 1 Trung tâm Quan trắc Môi trường & Bệnh Thủy sản Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. * Email: lehongphuoc@yahoo.com I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghề nuôi tôm nước lợ đã góp phần rất lớn trong phát triển kinh tế ở Việt Nam. Theo số liệu của Tổng cục thủy sản đầu năm 2018, năm 2017 sản lượng tôm ước đạt gần 690 ngàn tấn, tăng 4,8% so với năm 2016; diện tích nuôi tôm nước lợ cả nước là trên 722 ngàn ha, trong đó ĐBSCL là vùng tập trung nuôi tôm lớn nhất cả nước, chiếm 83%. Tuy nhiên năng suất nuôi chưa thật sự ổn định, ngoài sự biến đổi khí hậu, công nghệ áp dụng còn hạn chế thì sự bùng phát dịch bệnh xảy ra hằng năm đã làm giảm sản lượng và quy mô nuôi. Trong đó, bệnh đốm trắng do WSSV (White Spot Syndrome Virus) và bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease: AHPND) do Vibrio parahaemolyticus gây ra là phổ biến nhất. Bệnh đốm trắng được phát hiện và gây thiệt lại lớn trên tôm nuôi ở Trung Quốc năm 1992 sau đó lây lan sang các nước Nam Mỹ và Châu Á. Từ năm 1995 đến nay hầu như năm nào bệnh đốm trắng cũng có xuất hiện trên tôm nuôi ở nước ta. Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu tìm giải pháp phòng bệnh đốm trắng nhưng hiện nay vẫn chưa có một giải pháp cụ thể cho bệnh này ngoài các biện pháp tổng hợp như an toàn sinh học, tăng sức đề kháng cho tôm nuôi. Song song đó, kể từ năm 2010 đến nay bệnh hoại tử gan tụy cấp tính liên tục xuất hiện và gây thiệt hại lớn cho các mô hình nuôi thâm canh và bán thâm canh. Cả tôm sú và tôm thẻ chân trắng đều mắc phải bệnh này với tỷ lệ chết cao. Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Malaysia là những nước phải đối phó với bệnh nguy hiểm này. Tôm nuôi thường chết sớm trong khoảng từ 10-45 ngày sau khi thả nuôi (Flegel., 2012; Lightner, 2012; Prachumwat và ctv., 2012). Tỷ lệ tôm chết có thể lên đến 100% trong vài ngày hoặc kéo dài hơn. Ngoài những tác nhân gây bệnh trên tôm như vi rút, vi khuẩn, một trong những loài kí sinh trùng là vi bào tử trùng cũng đã được ghi nhận ở Thái Lan trong những năm gần đây. Chayaburakul và ctv., 2004 đã phát hiện bệnh chậm lớn ở tôm sú nuôi với tác nhân là 45TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II một chủng vi bào tử ký sinh ở gan tụy. Bệnh đã gây thiệt hại gần 300 triệu USD cho nghề nuôi tôm ở Thái Lan năm 2002. Năm 2009, trên tôm sú nuôi ở Thái Lan phát hiện một vi bào tử trùng mới có tên là Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) nhưng chưa được người nuôi chú ý và đến năm 2011 bệnh trở nên trầm trọng hơn ở những trang trại nuôi trên 5 năm và gần biển (Panakorn, 2012). Ở Việt Nam, EHP cũng đã bắt đầu được ghi nhận xuất hiện trên cả tôm sú và tôm thẻ nuôi. Hiện tại người nuôi áp dụng nhiều giải pháp khác nhau như diệt khuẩn, sử dụng kháng sinh, chế phẩm vi sinh, chất kháng khuẩn nhưng hiệu quả mang lại chưa ổn định. Trước thực trạng trên, việc duy trì kiểm tra và đánh giá tình trạng nhiễm các mầm bệnh quan trọng được nêu trên qua các năm là rất cần thiết và ý nghĩa cho việc thống kê, cảnh báo cũng như đề xuất các giải pháp phòng và quản lý các dịch bệnh này. Do đó, chúng tôi tiếp tục thực hiện nghiên cứu “Sự hiện diện của các tác nhân gây bệnh WSSV, Vibrio parahaemolyticus và vi bào tử trùng EHP trên tôm giống và tôm nuôi nước lợ ĐBSCL” II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 2.1. Vật liệu 800 mẫu tôm sú và tôm thẻ chân trắng giống thu tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Vũng Tàu và ĐBSCL. Chi tiết mẫu thu ở các tỉnh được thể hiện trong Bảng 1. 151 mẫu tôm sú và tôm thẻ chân trắng nuôi được thu tại các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng. Chi tiết mẫu thu ở các tỉnh được thể hiện trong Bảng 2. Các hóa chất chính: NaOH 0,25N, SDS 0,125%, 10 mM Tris-HCl (pH = 8,3), 1,5 mM MgCl2, DN ... tôm Tỉnh % WSSV (+) % VP (+) % EHP(+) Khô Mưa Khô Mưa Khô Mưa Sú nuôi Bạc Liêu 0,00 8,33 0,00 16,67 0,00 16,67 Bến Tre 0,00 0,00 0,00 0,00 42,86 14,29 Sóc Trăng 0,00 10,00 0,00 0,00 20,00 10,00 Trà Vinh 5,02 25,00 0,00 0,00 0,00 25,00 Tổng 5,02 9,09 0,00 10,53 21,05 15,15 Thẻ nuôi Bạc Liêu 0,00 4,35 33,33 4,35 50,00 17,39 Bến Tre 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 21,43 Sóc Trăng 0,00 14,29 0,00 7,14 30,00 28,57 Trà Vinh 2,70 0,00 0,00 0,00 10,00 36,36 Tổng 0,00 4,55 5,41 3,23 16,22 24,19 Tổng cộng 3,57 3,57 3,97 3,57 4,21 17,86 IV. THẢO LUẬN Ở Việt Nam, WSSV là một trong những nguyên nhân chính gây bệnh trên tôm nuôi và ảnh hưởng trầm trọng đến sản lượng. Ngay từ những năm 1993-1995 WSSV gây chết hàng loạt tôm nuôi ở Phú Yên, Khánh Hòa (1994), Bà Rịa-Vũng Tàu (1993) và các tỉnh ĐBSCL (1993-1994) (Đỗ Thị Hòa, 2002; Nguyễn Văn Hảo và ctv., 2004). Năm 1997-1998 bệnh xảy ra khắp các vùng nuôi tôm từ Hải Phòng đến các 49TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II tỉnh Miền Trung (Bùi Quang tề, 1998). Sau đó, bệnh xuất hiện hàng năm ở mức độ khác nhau ở hầu hết các tỉnh nuôi tôm ở Việt Nam. Kể từ năm 2006 đến nay năm nào bệnh đốm trắng cũng được tìm thấy trên tôm nuôi tuy nhiên tỷ lệ bệnh biến động theo từng năm và phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Bệnh đốm trắng thường xuất hiện nhiều vào các tháng mùa mưa và nhiệt độ thấp. Chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm cao, biến động về các chỉ tiêu chất lượng nước là một trong những nguyên nhân gây sốc tôm nuôi và tạo điều kiện cho bệnh đốm trắng bùng phát. Ghi nhận kết quả kiểm tra trên tôm giống trong năm 2018 cho thấy tỉ lệ nhiễm vi rút này là khá thấp 0,99% trong mùa khô và 1,27 % trong mùa mưa. Trong khi đó tỷ lệ nhiễm trên tôm nuôi là 3,97% trong mùa mưa và 3.57% trong mùa khô, tỷ lệ nhiễm WSSV trên tôm sú cao hơn trên tôm thẻ chân trắng. Kết quả kiểm tra tỷ lệ nhiễm V. Parahaemolyticus gây AHPND trên tôm giống giao động khá lớn giữa mùa khô và mùa mưa (tỷ lệ là 6,17% và 1,77%). Tuy tỷ lệ nhiễm không cao nhưng khi thả xuống ao nuôi ghi nhận tỷ lệ chết do AHPND khá cao. Cụ thể là theo số liệu thống kê của Cục Thú Y (2017) kể từ năm 2012 bệnh hoại tử gan tụy xuất hiện hàng năm trên tôm nuôi. Tính đến cuối năm 2017, tổng diện tích bị bệnh hoại tử gan tụy cấp tính là 6745 ha. Trong đó, 2.700 ha diện tích nuôi tôm thẻ bị bệnh (chiếm 39,9%) so với tổng cộng 4.075 ha diện tích nuôi tôm sú bị bệnh (chiếm 60,1%). So với năm 2016, tổng diện tích nuôi tôm bị bệnh AHPND tăng 11%. Với tỷ lệ nhiễm trên tôm giống không cao nhưng trên tôm nuôi thương phẩm từ 13-35%. Điều này cho thấy cần có sự lưu ý trong bước cải tạo ao tránh sự lưu cữu của mầm bệnh từ vụ nuôi trước. Đồng thời chọn giống tốt và an toàn sinh học trong qúa trình nuôi cũng rất cần thiết để hạn chế dịch bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. Tỷ lệ nhiễm EHP trên tôm sú giống dao động khá cao giữa mùa khô (18,18%) và mùa mưa (8,86%). Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm EHP trên tôm thẻ lại biến động không cao, mùa khô tỷ lệ là 3,66% và mùa mưa là 4,43%. Đồng thời, khi so sánh tỷ lệ nhiễm của cả hai loại tôm sú và tôm thẻ giống giữa mùa khô và mùa mưa cũng không thấy sự khác biệt lớn; tỷ lệ nhiêm EHP vào mùa khô là 6,42% và mùa mưa là 7,09%. Tuy vậy, tỷ lệ nhiễm EHP trên tôm nuôi được ghi nhận khá cao 17,86% trong mùa khô và 21,05% trong mùa mưa. Bệnh do vi bào tử trùng EHP được tìm thấy đầu tiên ở Thái Lan vào năm 2009 (Tourtip và ctv., 2009). Theo Tourtip và ctv., (2009), bệnh do vi bào tử trùng ngày càng tăng cao ở các nước Đông Nam Á. Hiện nay, EHP ghi nhận là đã xuất hiện ở Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ và một số nước ở vùng Nam Á. Theo Aranguren và ctv., 2017, EHP được xác định là yếu tố làm tăng sự mẫn cảm của tôm thẻ chân trắng đối với bệnh gan tụy cấp AHPND và triệu trứng SHPN (Septic Hepatopancreatic Necrosis) bao gồm hội chứng phân trắng và dị hình gây ra bởi các loài vi khuẩn Vibrio. Do đó, việc kiểm soát và phòng tránh loài vi bào tử trùng này trong quá trình nuôi là rất quan trọng. V. KẾT LUẬN & ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận - Đối với mẫu tôm giống: • Tỷ lệ nhiễm Vibrio parahaemolyticus trong mùa khô là 6,17% và trong mùa mưa là 1,77%. • Tỷ lệ nhiễm WSSV trong mùa khô là 0,99% và trong mùa mưa là 1,27%. • Tỷ lệ nhiễm vi bào tử trùng EHP trong mùa khô là 6,42% và trong mùa mưa là 7,09%. - Đối với mẫu tôm nuôi thương phẩm: • Tỷ lệ nhiễm mầm bệnh WSSV trong mùa mưa là 3,97% và mùa khô là 3,57% • Tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus gây AHPND trong mùa khô là 3,57% và mùa mưa là 4,21%. • Tỷ lệ nhiễm EHP trong mùa khô là 17,86% và mùa mưa là 21,05%. 50 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II - So với năm 2015, 2016 và 2017 thì tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus và WSSV trên tôm giống trong năm 2018. Đối với EHP ghi nhận tỷ lệ nhiễm trong năm 2018 là 6,75% cao hơn năm 2017 (2,73%) nhưng vẫn thấp hơn so với năm 2015 (12,21%) và 2016 (13,37%). 5.2. Đề nghị Tiếp tục khảo sát tình trạng nhiễm WSSV, EHP và V. parahaemolyticus trên tôm giống và tôm thương phẩm ở các tỉnh thuộc ĐBSCL để có thông tin cảnh báo kịp thời đồng thời cũng làm cơ sở dữ liệu cho so sánh tỷ lệ nhiễm bệnh hàng năm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Bùi Quang Tề, 2003 Bệnh của tôm nuôi và biện pháp phòng trị. Nhà xuất Bản Nông Nghiệp Hà Nội. Trang: 184 Cục Thú Y, 2016. Báo cáo tham luận tại hội nghị bàn giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản, trọng tâm là nuôi tôm nước lợ vùng ĐBSCL thích ứng với xâm nhập mặn, Bạc Liêu 03/2016. Nguyễn Văn Hảo, 2004. Báo cáo khoa học đề tài: “Nghiên cứu một số bệnh do virus trên tôm nuôi thương phẩm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đỗ Thị Hòa, 2002. Báo cáo khoa học đề tài: “Nghiên cứu bệnh virus đốm trắng trên tôm sú và đề xuất biện pháp trị bệnh tại Khánh Hòa” Lê Hồng Phước. Báo cáo tổng kết NVTX theo chức năng năm 2015, 2016 & 2017. Tài liệu tiếng Anh Chayaburakul K., Gary Nash, Phusit Pratanpipat, Siriporn Sriurairatana, Boonsirm Withyachumnarnkul, 2004. Multiple pathogens found in growth-retarded black tiger shrimp Penaeus monodon cultivated in Thailand 60: 89–96. Flegel, T.W., 2012. Historic emergence, impact and current status of shrimp pathogens in Asia. Journal of Invertebr Pathol 110: 166-173. Gao, H., Kong, J., Li, Z., Xiao, G., Meng, X., 2011. Quantitativeanalysis of temperature, salinity and pH on WSSV pro -liferation in Chinese shrimp Fenneropenaeus chinensisby real-time PCR. Aquaculture312: 26-31. Han, J.E., Mohney, L.L., Tang, K.F.J., Pantoja, C.R., Lightner, D.V., 2015. Plasmid mediated tetracycline resistance of Vibrio parahaemolyticus associated with acute hepatopancreatic necrosis disease (AHPND) in shrimps. Aquaculture Reports (2): 17–21. Huang, C., Zhang, L., Zhang, J., Xiao, L., Wu, Q., Chen, D., Li, J.K., 2001. Purification and characterization of White Spot syndrome virus (WSSV) produced in an alternate host: crayfish, Cambarus clarkii. Virus Res.76(2):115-25. Kiatpathomchai W., Boonsaeng V., Tassanakajon A., Wongteerasupaya C., Jitrapakdee S., Panyim S., 2001. A non-stop, single-tube, semi- nested PCR technique for grading the severity of white spot syndrome virus infections in Penaeus monodon. Dis Aquat Organ. 2001 Dec 5;47(3):235-9 Lightner, D.V., Redman, R.M., Pantoja, C.R., Noble, B.L., Loc Tran, 2012. Early Mortality Syndrome. Global aquaculture advocate 2/2012, p40 Aranguren L. F., Jee Eun Han, Kathy F.J., Tang, 2017. Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) is a risk factor for acute hepatopancreatic necrosis disease (AHPND) and septic hepatopancreatic necrosis (SHPN) in the Pacific white shrimp Penaeus vannamei. Aquaculture,Volume 471, Pages 37-42. Panakorn, S., 2012. Opinion article: more on early mortality syndrome in shrimp. Aqua Culture Asia Pacific, 8 (1): 8-10. Phuoc, L.H., Corteel, M., Nauwynck, H.J., Pensaert, M.B., Alday-Sanz, V., Van den Broeck, W., Sorgeloos, P., Bossier, P, 2008. Increased susceptibility of white spot syndrome virusinfectedLitopenaeus vannamei to Vibrio campbellii. J. Environ. Microbiol. 10 (10), 2718– 2727. Phuoc, L.H., Corteel, M., Thanh, NC., Nauwynck, H.J., Pensaert, M.B., Alday-Sanz, V., Van den Broeck, W., Sorgeloos, P., Bossier, P, 2009. Effect of dose and challenge routes of Vibrio spp. on co-infection with white spotsyndrome virus in Penaeus vannamei. Aquaculture 290: 61–68 Prachumwat, A.A., Thitamadee, S., Sriurairatana, S., Chuchird, N., Limsuwan, C., Jantratit, W., Chaiyapechara, S., Flegel, T.W., 2012. Shotgun sequencing of bacteria from AHPNS, a new shrimp disease threat for Thailand. 51TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Poster, National Institute for Aquaculture Biotechnology, Mahidol University, Bangkok, Thailand (Poster available for free download at www.enaca.org) Rahman, M.M., Corteel, M., Dantas-Lima, J.J., Wille, M., Alday-Sanz, V., Pensaert, M.B.,Sorgeloos, P., Nauwynck, H.J., 2007a. Impact of daily fluctuations of optimum(27 °C) and high water temperature (33 °C) on Penaeus vannamei juveniles infectedwith white spot syndrome virus (WSSV). Aquaculture 269: 107–113. Rahman,M.M., Corteel, M., Wille, M., Alday-Sanz, V., Pensaert, M.B., Sorgeloos, P., Nauwynck, H.J, 2007b. The effect of raising water temperature to 33 °C in Penaeus vannameijuveniles at different stages of infection with white spot syndrome virus (WSSV). Aquaculture 272: 240–245 Rajendran, K.V., Vijayan, K.K., Santiago, T.C., 1999. Experimental host range and histopathology of white spot syndrome virus (WSSV) in shrimps, prawns, crabs and lobsters from India with a note on the carrier/reservoir hosts. J. Fish Dis22: 183-191. Tang, K.F.J., Pantoja, C.R., Redman, R.M., Han, J.E., Tran, L.H., Lightner, D.V., 2015. Development of in situ hybridization and PCR assays for the detection of Enterocytozoon hepatopenaei (EHP), a microsporidian parasite infecting penaeid shrimp. J Invertebr Pathol.130: 37–41. Tendencia, E.A., Verreth, J.A.J., 2011. Temperature fluctuation,low salinity, watermicroflora: risk factors for WSSV outbreaksin Penaeus monodon. Isr J Aquacult-Bamid 63: 1−7 Thitamadee, S., Prachumwat, A., Srisala, J., Jaroenlak, P., Salachan, P.V., Sritunyalucksana, K., Flegel, T.W., Itsathitphaisarn, O., 2016. Review of current disease threats for cultivated penaeid shrimp in Asia. Aquaculture 452, 69-87. Tourtip, S., Wongtripop, S., Stentiford, G.D., Bateman, K.S., Sriurairatana, S., Chavadej, J., Sritunyalucksana, K., Withyachumnarnkul, B., 2009. Enterocytozoon hepatopenaei sp. nov. (Microsporida: Enterocytozoonidae), a parasite of the black tiger shrimp Penaeus monodon (Decapoda: Penaeidae): Fine structure and phylogenetic relationships. Journal of invertebrate pathology 102(1): 21-29. 52 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II THE PRESENCE OF WHITE SPOT DISEASES, ACUTE HEPATOPANCREATIC NECROSIS DISEASES AND MICROSPORIDIAN IN POSTLARVAE AND GROW-OUT MARINE SHRIMP IN THE MEKONG RIVER IN 2018 Nguyen Hong Loc1, Le Hong Phuoc1* ABSTRACT This study was conducted with 800 shrimp postlarvae samples collected at Ninh Thuan, Bình Thuan, Vung Tau provinces and the Mekong River Delta areas, and 151 farmed shrimp samples collected at Bac Lieu, Soc Trang, Ben Tre and Tra Vinh provinces. The samples were collected from Janary to October of 2018 and tested for some dangerous pathogenic agents including WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP via PCR method. In dry season, the percentage of postlarvae samples positive with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP were 0.99%, 6.17% and 6.42%, respectively; the percentage of farmed shrimp samples positive with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP were 0%, 3.57% and 17.56%, respectively. In rainy season, the percentage of postlarvae samples positive with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP were 1.27%, 1.77% and 7.09%, respectively; the percentage of farmed shrimp samples positive with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP were 3.97%, 4.21% and 21.05%, respectively. In comparison with the percentage of postlarve samples positive with those three pathogenic agents in 2015, 2016 and 2017, the percentage of postlarve samples positive with V. parahaemolyticus in 2018 was 3.63% that is higher than that of 2017 (2.39%), 2016 (2.42%) and 2015 (0.2%). The postlarvae samples positive with WSSV in 2018 was 1.13% that is also higer than that of 2017 (0.91%)., and lower than that of 2016 (1.7%) and 2015 (3.4%). EHP infection in postlarvae was 6.57% in 2018 and higher than that of 2017 (2.73%), but is lower than that of 2016 (13.37%) and 2015 (12.21%). Keywords: WSSV, AHPND, Vibrio parahaemolyticus, EHP, PCR Người phản biện: TS. Lý Thị Thanh Loan Ngày nhận bài: 14/12/2018 Ngày thông qua phản biện: 28/12/2018 Ngày duyệt đăng: 31/12/2018 1 Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemics, Research Institute for Aquaculture No.2. * Email: lehongphuoc@yahoo.com
File đính kèm:
- su_hien_hien_cua_cac_benh_dom_trang_hoai_tu_gan_tuy_cap_va_v.pdf