Hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang

Nghiên cứu hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (Cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang nhằm bổ sung thông tin khoa học và làm cơ sở cho quản lý và khai thác đối tượng này trong tương lai. Nghiên cứu được thực hiện bằng cách phỏng vấn trực tiếp 30 hộ dân khai thác cá lưỡi trâu dọc theo sông Cái ở huyện Gò Quao và U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang bằng biểu mẫu phỏng vấn đã được soạn sẵn. Kết quả điều tra cho thấy đa số người tham gia đánh bắt thủy sản là nam giới. Lưới đáy, lồng bẫy và xiệp là 3 loại ngư cụ được ngư dân sử dụng để khai thác cá lưỡi trâu là chủ yếu, chiếm tỷ lệ cao là lưới đáy chiếm 90% và thấp nhất là xiệp chiếm 3,3%. Mùa vụ khai thác của cá lưỡi trâu đạt hiệu quả cao nhất tập trung từ tháng 5 đến tháng 7. Sản lượng cá lưỡi trâu cao nhất thu từ ngư cụ là xiệp (19.400 kg/năm), tiếp theo là lưới đáy (5.242 kg/năm) và thấp nhất là lồng bẫy (3.841 kg/năm)

Hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang trang 1

Trang 1

Hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang trang 2

Trang 2

Hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang trang 3

Trang 3

Hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang trang 4

Trang 4

Hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang trang 5

Trang 5

pdf 5 trang minhkhanh 3520
Bạn đang xem tài liệu "Hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang

Hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang
174
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(116)/2020
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC CÁ LƯỠI TRÂU (Cynoglossus arel) 
Ở VÙNG VEN BIỂN TỈNH KIÊN GIANG
Võ Thành Toàn1, Lý Văn Khánh1 
TÓM TẮT
Nghiên cứu hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu (Cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang nhằm bổ sung 
thông tin khoa học và làm cơ sở cho quản lý và khai thác đối tượng này trong tương lai. Nghiên cứu được thực hiện 
bằng cách phỏng vấn trực tiếp 30 hộ dân khai thác cá lưỡi trâu dọc theo sông Cái ở huyện Gò Quao và U Minh 
Thượng tỉnh Kiên Giang bằng biểu mẫu phỏng vấn đã được soạn sẵn. Kết quả điều tra cho thấy đa số người tham 
gia đánh bắt thủy sản là nam giới. Lưới đáy, lồng bẫy và xiệp là 3 loại ngư cụ được ngư dân sử dụng để khai thác cá 
lưỡi trâu là chủ yếu, chiếm tỷ lệ cao là lưới đáy chiếm 90% và thấp nhất là xiệp chiếm 3,3%. Mùa vụ khai thác của cá 
lưỡi trâu đạt hiệu quả cao nhất tập trung từ tháng 5 đến tháng 7. Sản lượng cá lưỡi trâu cao nhất thu từ ngư cụ là xiệp 
(19.400 kg/năm), tiếp theo là lưới đáy (5.242 kg/năm) và thấp nhất là lồng bẫy (3.841 kg/năm).
Từ khóa: Cá lưỡi trâu, hiện trạng khai thác, ngư cụ
1 Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá lưỡi trâu thuộc họ Cynoglossidae, bộ 
Pleuronectiformes (cá bơn) là loài cá sống đáy, sinh 
sống tự nhiên cả nước ngọt, lợ và mặn. Cá lưỡi trâu 
vảy to (Cynoglossus arel) là loài sống vùng ven biển, 
có kích thước khá lớn trong họ, cá có dạng hình lưỡi. 
Theo Rahman (1989), cá lưỡi trâu vảy to có tập tính 
sống đáy bùn và cát vùng thềm lục địa có độ sâu từ 
9 - 125 m, ở vùng cửa sông và các con sông chịu tác 
động của thuỷ triều. Đây là loài có giá trị kinh tế và 
chúng mang lại một nguồn kinh tế nhất định cho 
các hộ dân sống bằng nghề đánh bắt hải sản. Theo 
Nelson (2006), cá thuộc họ Cynoglossidae chủ yếu 
sống vùng biển, có một số đi vào sống vùng nước 
ngọt. Trên thế giới đã có những nghiên cứu về họ 
cá lưỡi trâu nói chung và loài cá lưỡi trâu vảy to nói 
riêng. Một số nghiên cứu về loài cá lưỡi trâu vảy to 
về thức ăn và tính ăn (Khalil and Ibrahim, 2016), 
về sinh sản (Ghaffari el al., 2015). Chính vì thế việc 
khảo sát hiện trạng khai thác cá lưỡi trâu vảy to 
(Cynoglossus arel) ở vùng ven biển tỉnh Kiên Giang 
để có thêm thông tin nhằm làm cơ sở cho việc quản 
lý và khai thác cũng như làm cơ sở cho các nghiên 
cứu về đặc điểm sinh học, sản xuất giống và nuôi cá 
lưỡi trâu vảy to.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hộ dân khai thác và đánh bắt cá lưỡi trâu tại 
sông Cái ở huyện Gò Quao và U Minh Thượng tỉnh 
Kiên Giang được phỏng vấn trực tiếp dựa theo biểu 
mẫu phỏng vấn đã được soạn và in sẵn.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập và tổng hợp số liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập bằng cách tổng hợp 
các báo cáo của cơ quan ban ngành địa phương, báo 
cáo khoa học, tạp chí chuyên ngành, luận văn cao học.
Số liệu sơ cấp được thu thập bằng cách phỏng vấn 
trực tiếp 30 hộ dân khai thác cá lưỡi trâu vảy to dọc 
theo sông Cái ở huyện Gò Quao và U Minh Thượng 
tỉnh Kiên Giang bằng biểu mẫu phỏng vấn đã được 
soạn sẵn. Nội dung biểu mẫu phỏng vấn gồm các 
thông tin chủ yếu sau: Thông tin tuổi, giới tính, số 
người trong gia đình, số người tham gia khai thác, 
số năm kinh nghiệm, chi phí ban đầu, địa điểm khai 
thác, sản lượng, tiêu thụ sản phẩm. Nhận thức của 
người dân về hoạt động khai thác và nguồn lợi cá 
lưỡi trâu, ngư cụ khia thác, thuận lợi và khó khăn 
trong khai thác thủy sản.
Các số liệu sau khi phỏng vấn sẽ được tổng hợp, 
kiểm tra, phân nhóm thông tin, mã hóa rồi nhập vào 
máy tính bằng phần mềm Microsoft Excel.
2.2.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Microsoft Excel để phân 
tích và xử lý số liệu đã kiểm tra và nhập vào máy 
tính thông qua các phương pháp như: phương pháp 
thống kê mô tả dùng để phân tích tần suất, phần 
trăm, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn 
nhất, giá trị nhỏ nhất để xem xét số liệu từ đó đưa 
ra kết luận.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8 năm 2018 
đến tháng 12 năm 2018 tại vùng ven biển dọc theo 
dòng sông Cái ở huyện Gò Quao và U Minh Thượng 
tỉnh Kiên Giang. 
175
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(116)/2020
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Thông tin chung về các hộ khai thác thủy sản
Kết quả khảo sát cho thấy lực lượng lao động có 
độ tuổi từ 31 - 40 là nguồn lao động chính. Các chủ 
hộ tham gia khai thác thủy sản có độ tuổi thấp nhất 
là 30 và cao nhất là 59 tuổi. 
Bảng 1. Thông tin chung về nông hộ
Diễn giải Trung bình
Nhỏ 
nhất
Lớn 
nhất
Độ tuổi tham gia 
lao động (tuổi) 43,3 ± 8,1 30 59
Số năm kinh nghiệm 
(năm) 22,0 ± 7,9 10 40
Số người tham gia 
khai thác (người) 1,50 ± 0,6 1 3
Qua bảng 1 cho thấy độ tuổi trung bình của các hộ 
tham gia khai thác thủy sản là 43,3 ± 8,1 tuổi, trong 
đó độ tuổi từ 31 - 40 chiếm tỉ lệ cao nhất (44%), độ 
tuổi dưới 31 tuổi chiếm tỉ lệ thấp nhất (3%), độ tuổi 
từ 41 - 50 chiếm 33%, độ tuổi từ 51 - 60 tuổi chiếm tỉ 
lệ 20%. Trung bình số năm kinh nghiệm trong khai 
thác thủy sản của các hộ là 22,0 ± 7,9 năm, trong đó 
số năm kinh nghiệm của nông hộ ít nhất là 10 năm 
và nhiều nhất là 40 năm. Độ tuổi lao động và số năm 
kinh nghiệm là một trong những yếu tố quan trọng 
trong quá trình khai thác thủy sản.
Hình 1. Cơ cấu về độ tuổi của các hộ khai thác
Qua kết quả khảo sát các hộ có tham gia khai thác 
cá lưỡi trâu cho thấy số người tham gia khai thác 
trong hộ trung bình là 1,50 ± 0,6 người trong đó ít 
nhất là một người và nhiều nhất là ba người. Về giới 
tính thì số lượng nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn nữ 
giới, trong đó cụ thể nam giới chiếm 73,3%, còn nữ 
giới chiếm 27,7%. Điều này cho thấy nam giới giữ 
vai trò quan trọng trong việc đánh bắt thủy sản.
3.2. Các loại ngư cụ khai thác
Kết quả khảo sát cho thấy các chủ hộ tham gia 
khai thác cá lưỡi trâu với các loại ngư cụ được sử 
dụng chủ yếu như lồng bẫy, đẩy xiệp và lưới đáy. 
Các loại ngư cụ được người dân nơi đây sử dụng có 
sự chênh lệch nhất định. Trong đó ngư cụ lưới đáy 
được sử dụng chiếm tỉ lệ cao nhất (90%), lồng bẫy 
chiếm tỉ lệ 6,7% và đẩy xiệp chiếm tỉ lệ 3,3%. Do cá 
lưỡi trâu sống chủ yếu ở tầng đáy nên ngư cụ khai 
thác chủ yếu là những ngư cụ đáy.
Hình 2. Các loại ngư cụ phổ biến 
trong khai thác cá lưỡi trâu
Kết quả khảo sát cho thấy cá lưỡi trâu chủ yếu 
được khai thác ngoài sông Cái bằng ngư cụ lưới đáy, 
từ đó ta thấy chúng sinh sống chủ yếu ở tầng đáy của 
sông Cái.
3.3. Mùa vụ khai thác và kích cỡ khai thác cá 
lưỡi trâu
Khai thác cá lưỡi trâu của các ngư dân phân bố 
quanh năm và thường tập trung khai thác vào đầu 
tháng 4 cho đến cuối tháng 10. Do đây là thời điểm 
kết thúc mùa vụ Thu Đông sau đó nước lũ từ thượng 
nguồn đổ về mang theo lượng phù xa và lượng cá 
phong phú cho vùng.
Hình 3. Tỷ lệ hộ khai thác được cá lưỡi trâu 
Qua hình 3 cho thấy tỷ lệ các hộ khai thác được 
cá lưỡi trâu tập trung nhiều từ tháng 5 đến tháng 8, 
cao nhất vào tháng 6 chiếm 90%, thấp nhất là tháng 
1 và tháng 11 không có hộ nào khai thác được cá 
lưỡi trâu.
176
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(116)/2020
Hình 4. Tỷ lệ kích cỡ cá lưỡi trâu được khai thác 
Theo kết quả khảo sát cho thấy cá lưỡi trâu có 
kích cỡ lớn (cá có chiều dài trên 25 cm) tập trung 
chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 7, cá có kích cỡ lớn 
cao nhất vào tháng 6 chiếm 76,7% và là tháng khai 
thác cá lưỡi trâu đạt sản lượng cao nhất trong năm. 
Bên cạnh đó, cá lưỡi trâu có kích cỡ nhỏ (cá có chiều 
dài dưới 15 cm) tập chung chủ yếu từ tháng 10 đến 
tháng 2 và là các tháng đạt sản lượng thấp đồng thời 
cũng có thể là các tháng cá sinh sản, tháng có cá kích 
cỡ nhỏ nhất là tháng 12 chiếm 73,3%.
3.4. Sản lượng cá lưỡi trâu 
Qua hình 5 cho thấy loại ngư cụ khai thác được 
cá lưỡi trâu có sản lượng trung bình cao nhất là xiệp 
(19.400 kg/năm), tiếp theo là lưới đáy (5.242 kg/năm)
và cuối cùng là lồng bẫy (3.841 kg/năm). Theo Booth 
và Walmsley-Hart (2000), loài C. zanzibarensis
trưởng thành khai thác chủ yếu bằng lưới kéo đáy 
chiếm ưu thế là con cái. 
Hình 5. Sản lượng cá lưỡi trâu khai thác
 theo loại ngư cụ
Cá lưỡi trâu sau khi khai thác được chủ yếu là để 
bán cho các thương lái hoặc trực tiếp đem ra chợ bán 
(100%) và sau đó là để ăn (46,7%), ngoài ra chúng 
còn được đem làm mắm (30%) và một số it được 
dùng làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản (23,3%). 
Ngoài cá lưỡi trâu khai thác được thì ngư dân còn 
khai thác được nhiều loại cá khác trong cùng thời 
điểm như cá bống, cá đối, cá phèn, cá nâu,Theo 
nhận định của các ngư dân thì cá lưỡi trâu vảy to là 
loài có già trị kinh tế cao nhưng phần lớn cá lưỡi trâu 
khai thác được tương đối nhỏ, cá có chiều dài dao 
động khoảng từ 2,5-15 cm nên giá bán chưa được 
cao so với cá lưỡi trâu khai thác được từ các ghe cào 
ngoài biển khơi. Giá bán cá lưỡi trâu thấp nhất là 
10 ngàn đồng/kg, cao nhất là 25 ngàn đồng//kg, 
trung bình là 15,6 ± 3,4 ngàn đồng/kg. 
3.4. Nhận định của các ngư dân khai thác thủy sản 
Kết quả điều tra cho thấy sản lượng khai thác thủy 
sản nói chung và cá lưỡi trâu nói riêng đang có xu 
hướng giảm. Nguyên nhân là do ngư dân khai thác 
quá mức, sử dụng những ngư cụ mang tính hủy diệt 
hoặc sử dụng những ngư cụ, hóa chất cấm. Ngoài 
ra điều đáng nói hơn là sự ô nhiễm nguồn nước, 
nguyên nhân chủ yếu là do lượng nước thải từ các 
công ty thủy sản, từ các nhà máy đường, nước thải 
từ rừng tràm, từ cảng cá, các vuông tôm, ruộng lúa 
của các hộ dân thải ra ngoài sông mà chưa qua xử lý.
Bảng 2. Nhận định của ngư dân 
về sản lượng và thành phần loài thủy sản
Thông tin
Tỉ lệ (%)
Sản lượng Thành phần loài
Giảm nhiều 50 33,3
Giảm ít 43,3 50
Không đổi 6,7 0
Tăng nhiều 0 6,7
Tăng ít 0 10
Kết quả điều tra cho thấy thành phần loài thủy sản 
ở vùng khảo sát đang có xu hướng giảm. Qua bảng 2 
cho thấy nhận đinh của ngư dân về thành phần loài 
giảm nhiều với 15 hộ chiếm 50%, giảm ít với 13 hộ 
177
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(116)/2020
chiếm 43,3% và không đổi có 2 hộ với 6,7%, còn tỉ 
lệ tăng chiếm tỉ lệ thấp nhất là 0%. Số hộ khai thác 
thủy sản hiện nay của vùng đang có xu hướng giảm, 
nguyên nhân chính là do sản lượng cá khai thác 
được ngày càng ít so với nhũng năm về trước nên 
một số hộ đã chuyển đổi nghề từ khai thác thủy sản 
sang làm vườn, làm thuê, buôn bán, Tuy nhiên, 
bên cạnh đó vẫn còn các hộ khai thác theo hình thức 
cha truyền con nối từ đời này sang đời khác.
3.5. Những thuân lợi và khó khăn của ngư dân 
khai thác thủy sản
Bảng 3 cho thấy một số ý kiến thuận lợi trong 
khai thác thủy sản được người dân nhận định như 
số hộ khai thác giảm, cá lưỡi trâu dễ bắt được từ các 
ngư cụ đáy, nguồn tiêu thụ cá lưỡi trâu ổn định 
Cá lưỡi trâu khai thác được có thị trường tiêu thụ 
ổn định chiếm 23,3%, khai thác ở sông Cái có lượng 
nước lớn và dòng chảy mạnh chiếm 50%, do một số 
hộ dân sống dọc theo sông gần hàng đáy của mình 
nên ít tốn nhiên liệu chiếm 63,3% và cá lưỡi trâu dễ 
bắt được từ ngư cụ đáy chiếm 56,7%. Ngoài ra việc 
giảm số hộ khai thác và có nhiều loại ngư cụ cho 
khai thác cũng là những thuận lợi cho các ngư dân. 
Bảng 3. Những yếu tố thuận lợi của các hộ khai thác
Nội dung Số hộ Tỉ lệ (%)
Nước lớn 15 50,0
Dễ bắt được cá từ ngư cụ đáy 17 56,7
Ít tốn nhiên liệu 19 63,3
Nguồn tiêu thụ ổn định 7 23,3
Trong quá trình khai thác thủy sản bên cạnh 
những thuận lợi thì các ngư dân cũng gặp không ít 
khó khăn. Vấn đề khó khăn lớn nhất của các hộ khai 
thác cá lưỡi trâu là mùa vụ khai thác bị thay đổi chiếm 
90%, theo nhận định của các ngư dân thì cá lưỡi trâu 
hiện nay xuất hiện không theo mùa vụ như trước 
mà nó còn phụ thuộc vào lượng nước thải cũng như 
hóa chất từ nhiều nguồn đổ ra khi đó chúng sẽ di 
chuyển và bị mắt vào các đáy, lồng bẫy, khó khăn 
thứ 2 là môi trường nước bị ô nhiễm chiếm 83,3%, 
giao thông gây trở ngại chiếm 73,3%, thời tiết chiếm 
66,7%, và vấn đề tiêu thụ chiếm 3,3%.
Bảng 4. Những yếu tố khó khăn của các hộ khai thác
Nội dung Số hộ Tỉ lệ (%)
Mùa vụ khai thác 27 90,0
Thời tiết 20 66,7
Tiêu thụ 1 3,30
Môi trường nước 25 83,3
Giao thông 22 73,3
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Lồng bẫy, lưới đáy và đẩy xiệp là những ngư cụ 
chủ yếu khai thác được cá lưỡi trâu ở vùng khảo sát 
(lồng bẫy chiếm 6,7%, lưới đáy chiếm 90% và đẩy 
xiệp chiếm 3,3%). 
Cá lưỡi trâu được khai thác tập trung từ tháng 5 
đến tháng 8. Cá lưỡi trâu có kích cỡ lớn tập trung 
vào tháng 5 đến tháng 7, kích cỡ nhỏ từ cuối tháng 
10 đến tháng 3 năm sau. 
Sản lượng các loài thủy sản cũng như là cá lưỡi 
trâu. Sản lượng cá lưỡi trâu cao nhất thu từ ngư cụ là 
xiệp (19.400 kg/năm), tiếp theo là lưới đáy (5.242 kg/
năm) và thấp nhất là lồng bẫy (3.841 kg/năm).
4.2. Đề nghị
Tăng cường các chương trình bảo vệ nguồn lợi 
thủy sản trên phương tiện thông tin đại chúng, nâng 
cao trình độ hiểu biết của ngư dân trong việc khai 
thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản thông qua các lớp 
tập huấn. 
LỜI CẢM ƠN
Đề tài này được tài trợ bởi Dự án Nâng cấp 
Trường Đại học Cần Thơ VN14-P6 bằng nguồn vốn 
vay ODA từ chính phủ Nhật Bản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Booth and Walmsley-Hart, 2000. Biology of the 
redspotted tonguesole Cynoglossus zanzibarensis 
(Pleuronectiformes: Cynoglossidae) on the Agulhas 
Bank South Africa. South African Journal of Marine 
Science, 22 (1): 185-197.
Ghaffari, H. H. Sahafi, G.H. Engelhard, M. M. Babaei, 
2015. Reproductive biology of largescale tonguesole 
Cynoglossus arel in coastal waters of Bandar Abbas, 
Persian Gulf, Iran. Animal Reproduction Science, 
154: 142-157.
Khalil and F. Ibrahim, 2016. Food and feeding habits 
of Cynoglossu arel (Family: Cynoglossidae) from 
Karachi Coast, Pakistan. International Journal of 
Fauna and Biological Studies, 3 (1): 91-96.
Nelson, J.S., 2006. Fishes of the World. 4th Edition, 
Published by John Wiley & Sons Inc., Hoboken, New 
Jersey. 601 p.
Rahman, A.K.A., 1989. Freshwater fishes of Bangladesh. 
Zoological Society of Bangladesh. Department of 
Zoology, University of Dhaka. 364 p.
178
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(116)/2020
Exploitation status of tongue fish (cynoglossus arel)
 in coastal province Kien Giang 
Vo Thanh Toan, Ly Van Khanh
Abstract
Study on the exploitation status of tongue fish (Cynoglossus arel) in coastal province Kien Giang aimed to supplement 
scientific information and basis for management and exploitation in the future. The study was conducted by directly 
interviewing 30 fishing farmers exploiting tongue fish along the Cai river in Go Quao district and U Minh Thuong 
district, Kien Giang province using prepared interview questionnaires. The survey result showed that the majority 
of people involved in fishing were men. Bottom nets, trap cages and xiep were the three types of fishing gears that 
fishermen used mainly to exploit buffalo tongue fish accounting for a high proportion; of which the bottom nets 
accounted for 90% and the xiep net was lowest with 3.3%. The most effective harvesting season of tongue fish was 
concentrated from May to July. The highest production of tongue fish collected from fishing gears was trawl-net 
(19,400 kg/year), followed by the bottom-nets (5,242 kg/year) and the lowest was from trap-cages (3,841 kg/year).
Keywords: Tongue fish, exploitation status, fishing gear 
Ngày nhận bài: 02/7/2020
Ngày phản biện: 11/7/2020
Người phản biện: PGS. TS. Châu Tài Tảo
Ngày duyệt đăng: 23/7/2020

File đính kèm:

  • pdfhien_trang_khai_thac_ca_luoi_trau_cynoglossus_arel_o_vung_ve.pdf