So sánh phương pháp cắt phễu bằng dao kim và thông nhú thông thường trong nội soi mật - Tụy ngược dòng
Đặt vấn đề: So sánh kết quả tỷ lệ thành công và biến chứng giữa hai phương pháp thông đường mật
qua nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP): cắt phễu bằng dao kim (Needle Knife Infundibulotomy - NKI) và
thông nhú thông thường (Standard Papillary Cannulation - SPC).
Phương pháp nghiên cứu: Từ 6/2018 - 6/2020, tại BVTƯ Huế, có 208 bệnh nhân (72 nam, 136 nữ,
tuổi trung bình 56.4) được chẩn đoán và can thiệp bằng nội soi mật tụy ngược dòng. Bệnh nhân được chia
làm 2 nhóm: nhóm A gồm 106 bệnh được thông đường mật theo phương pháp cắt phễu bằng dao kim
(NKI), nhóm B gồm 102 bệnh theo phương pháp thông nhú thông thường (SPC). Các bệnh nhân đều chưa
có tiền sử phẫu thuật, cắt cơ vòng. Chỉ định làm ERCP gồm có: sỏi đường mật, bệnh lý tắc nghẽn đường
mật khác và rò mật sau phẫu thuật. Thủ thuật can thiệp tùy trường hợp như: thông nhú, cắt cơ vòng, nong
đường mật, lấy - tán sỏi, đặt stent mật. Bệnh nhân sau ERCP được theo dõi qua mức men tụy (amylaselipase) trước và sau thủ thuật, những tai biến và biến chứng: viêm tụy cấp, xuất huyết, thủng, nhiễm trùng
đường mật đều được ghi nhận.
Kết quả: Tỷ lệ thành công thông nhú vào ống mật chủ (OMC): nhóm A 94.3% (100/106 ca), nhóm B
79.4% (81/102 ca). Trong nhóm B, 20ca (19.6%) thất bại với phương pháp thông nhú thông thường (SPC)
được chuyển sang phương pháp cắt phễu bằng dao kim (NKI), thì đạt thành công thêm 14 ca (13.7%).
Biến chứng chung: của nhóm A 5.7% (6/106 ca), nhóm B 22.5% (23/102 ca). Nhóm A: 1 ca thủng, 1 ca
chảy máu và 4 ca viêm tụy cấp nhẹ. Nhóm B: 1 ca thủng, 3 ca chảy máu và 19 ca viêm tụy cấp nhẹ, vừa
và nặng.
Kết luận: Phương pháp cắt phễu bằng dao kim (NKI) đạt được tỷ lệ thành công thông đường mật cao
và gây biến chứng viêm tụy cấp sau ERCP thấp hơn nhiều so với phương pháp thông nhú thông thường
(SPC). Phương pháp này cho phép lựa chọn hoặc sử dụng ngay từ đầu, hoặc sử dụng thay thế để giải cứu
khi thông nhú thông thường (SPC) gặp khó khăn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh phương pháp cắt phễu bằng dao kim và thông nhú thông thường trong nội soi mật - Tụy ngược dòng
Bệnh viện Trung ương Huế Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 70/2021 41 Nghiên cứu SO SÁNH PHƯƠNG PHÁP CẮT PHỄU BẰNG DAO KIM VÀ THÔNG NHÚ THÔNG THƯỜNG TRONG NỘI SOI MẬT - TỤY NGƯỢC DÒNG Trần Như Nguyên Phương1*, Nguyễn Văn Trường1, Hồ Ngọc Sang1, Nguyễn Văn Duy1, Lê Phước Anh1, Trần Hiếu1, Phan Nhật Tân1 DOI: 10.38103/jcmhch.2021.70.6 TÓM TẮT Đặt vấn đề: So sánh kết quả tỷ lệ thành công và biến chứng giữa hai phương pháp thông đường mật qua nội soi mật tụy ngược dòng (ERCP): cắt phễu bằng dao kim (Needle Knife Infundibulotomy - NKI) và thông nhú thông thường (Standard Papillary Cannulation - SPC). Phương pháp nghiên cứu: Từ 6/2018 - 6/2020, tại BVTƯ Huế, có 208 bệnh nhân (72 nam, 136 nữ, tuổi trung bình 56.4) được chẩn đoán và can thiệp bằng nội soi mật tụy ngược dòng. Bệnh nhân được chia làm 2 nhóm: nhóm A gồm 106 bệnh được thông đường mật theo phương pháp cắt phễu bằng dao kim (NKI), nhóm B gồm 102 bệnh theo phương pháp thông nhú thông thường (SPC). Các bệnh nhân đều chưa có tiền sử phẫu thuật, cắt cơ vòng. Chỉ định làm ERCP gồm có: sỏi đường mật, bệnh lý tắc nghẽn đường mật khác và rò mật sau phẫu thuật. Thủ thuật can thiệp tùy trường hợp như: thông nhú, cắt cơ vòng, nong đường mật, lấy - tán sỏi, đặt stent mật. Bệnh nhân sau ERCP được theo dõi qua mức men tụy (amylase- lipase) trước và sau thủ thuật, những tai biến và biến chứng: viêm tụy cấp, xuất huyết, thủng, nhiễm trùng đường mật đều được ghi nhận. Kết quả: Tỷ lệ thành công thông nhú vào ống mật chủ (OMC): nhóm A 94.3% (100/106 ca), nhóm B 79.4% (81/102 ca). Trong nhóm B, 20ca (19.6%) thất bại với phương pháp thông nhú thông thường (SPC) được chuyển sang phương pháp cắt phễu bằng dao kim (NKI), thì đạt thành công thêm 14 ca (13.7%). Biến chứng chung: của nhóm A 5.7% (6/106 ca), nhóm B 22.5% (23/102 ca). Nhóm A: 1 ca thủng, 1 ca chảy máu và 4 ca viêm tụy cấp nhẹ. Nhóm B: 1 ca thủng, 3 ca chảy máu và 19 ca viêm tụy cấp nhẹ, vừa và nặng. Kết luận: Phương pháp cắt phễu bằng dao kim (NKI) đạt được tỷ lệ thành công thông đường mật cao và gây biến chứng viêm tụy cấp sau ERCP thấp hơn nhiều so với phương pháp thông nhú thông thường (SPC). Phương pháp này cho phép lựa chọn hoặc sử dụng ngay từ đầu, hoặc sử dụng thay thế để giải cứu khi thông nhú thông thường (SPC) gặp khó khăn. Từ khóa: Nội soi mật - tụy ngược dòng can thiệp, Cắt phễu bằng dao kim, thông nhú thông thường, Ống mật chủ, tai biến, viêm tụy. 1Khoa Nội Soi - Bệnh Viện Trung Ương Huế - Ngày nhận bài (Received): 11/3/2021; Ngày phản biện (Revised): 03/6/2021; - Ngày đăng bài (Accepted): 25/6/2021 - Người phản hồi (Corresponding author): Trần Như Nguyên Phương - Email: trannhunguyenphuong@yahoo.com; SĐT: 0913493404 Bệnh viện Trung ương Huế 42 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 70/2021 So sánh phương pháp cắt phễu bằng dao kim... ABSTRACT A COMPARISON BETWEEN NEEDLE KNIFE INFUNDIBULOTOMY AND STANDARD PAPILLARY CANNULATION OF BILE DUCT IN ERCP Tran Nhu Nguyen Phuong1*, Nguyen Van Truong1, Ho Ngoc Sang1, Nguyen Van Duy1, Le Phuoc Anh1, Tran Hieu1, Phan Nhat Tan1 Introduction: This study aims to compare two methods of biliary cannulation in ERCP, needle knife infundibulotomy (NKI) and standard papillary cannulation (SPC), in terms of their respective cannulation success and complications rates. Materials and methods: From June 2018 to June 2020, in Hue Central Hospital, interventional ERCP was performed in 208 consecutive patients (72 males and 136 females atthe mean age of 56.4 years), who divided into two groups: namely Group A including 106 patients, cannulated by suprapapillary infundibulotomy with needle-knife (NKI); Group B including 102 patients, cannulated by standard papillary cannulation (SPC). No patient had previous sphincterotomy. Indications for the procedure consisted of biliary stones, other biliary obstruction diseases and post-surgical bile leakage Interventional procedures were normally: sphincterotomy, balloon dilation, stone extraction, lithotripsy, biliary stent. The patients who had experienced ERCP were measured by amylase-lipase before and after intervention; Follow-up and complications such as bleeding, perforation, cholangitis and so forth were also noticed. Results: Success rates of bile duct cannulation inGroup A and Group B were 94.3% (100/106 cases) and79.4% (81/102 cases) respectively. In Group B, 20 attempts in cannulation (19.6%) failed and were shifted to needle knife infundibulotomy (NKI), with 14 successes (13.7%). Complications inGroup A were 6 out of 106 cases, taking up 5.7%; and those in Group B were 23 out of 102 cases, accounting for 22.5%. There is 1 perforation, 1 bleeding and 4 mild acute pancreatitis in the former group (Group A) and 1 perforation, 3 bleedings and 19 mild-moderate-severe acute pancreatitis in the latter one (Group B). Conclusion: Needle knife infundibulotomy (NKI) was more successful in bile duct cannulation than standard papillary cannulation (SPC) and had a much lower profile of acute pancreatitis as complication. This method may be chosen as the first approach to cannulationor used as the rescue one in case of unsuccessful standard papillary cannulation (SPC). Keywords: Endoscopic retrograde cholangiopancreatography (ERCP), Needle Knife Infundibulotomy (NKI), Standard Papillary Cannulation (SPC), Common bile duct (CBD), complications, pancreatitis. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Năm 1978, Caletti cùng cộng sự - đã báo cáo lần đầu tiên về các phương pháp cắt trước miệng nhú bằng dao kim - Precut Fistulotomy PF [1]. Năm 1980, Siegel cùng cộng sự [1] có báo cáo đầu tiên về các phương pháp cắt trước bằng dao cung (precut papillotomy) trong những trường hợp thông nhú gặp khó khăn. Đã có những thống kê của Huibregtse [1] về sử dụng dao kim cắt qua nhú vào đường mật năm 1986. Đến năm 2005, tác giả Freeman & Guda đã nghiên cứu tổng hợp các phương pháp cắt trước cho những ca thông nhú thông thường (SPC) thất bại và kết luận ... hải cắt phễu sâu thêm 1 - 2mm do lần đầu phễu chưa đủ sâu hoặc không đúng vị trí vào ống mật chủ thì thường dễ thất bại khi tiếp tục thông nhú. Ngoài ra, ERCP lần II thông nhú qua phễu có sẵn nếu thất bại đôi khi thử lại qua miệng lỗ nhú có thể thành công. Sau khi thông nhú thành công, một vài trường hợp đoạn cuối ống mật chủ hẹp - ngoằn nghèo, túi thừa cạnh - quanh nhú, kích thước sỏi lớn (không tương ứng với kết quả chẩn đoán hình ảnh trước đó) khả năng lấy hết sỏi khó, thì đặt 01 stent nhựa dẫn lưu mật. Những bệnh nhân này có thể được phẫu thuật sau đó hoặc có thể làm ERCP lần sau từ 2 - 3 tuần khi đánh giá được kích thước sỏi nhỏ hơn (do stent làm sỏi vỡ ra thành mảnh nhỏ hơn). Biến chứng: Viêm tụy: ERCP là thủ thuật phức tạp đôi khi gặp phải tình huống khó, dù bác sĩ nội soi nhiều kinh nghiệm can thiệp mật - tụy cũng không tránh khỏi xảy ra tai biến, báo cáo chung trên thế giới ghi nhận viêm tụy là biến chứng hay gặp nhất [1,3,18,20], mặc dù tỷ lệ viêm tụy nặng thấp, nhưng phát hiện chậm xử trí không kịp thời có thể dẫn đến tử vong. Dấu hiệu phản ứng tụy, viêm tụy thường xuất hiện sau ERCP. Nguyên nhân do: cấu trúc giải phẫu ống mật chủ và ống tụy đi chung đoạn cuối trước khi đỗ vào tá tràng DII qua nhú. Cùng với các thao tác thông nhú vào ống mật chủ, dây dẫn vào ống tụy ngoài ý muốn, phẫu trường hẹp trong quá trình can thiệp làm gia tăng nguy cơ viêm tụy. Nhóm A “cắt phễu dao kim”: Tỷ lệ viêm tụy là 3.7% tương đối thấp do cắt phễu trên đỉnh nhú, nên hướng thông nhú trực tiếp vào ống mật chủ, ít vào ống tụy, không trực tiếp tác động lên cơ thắt vòng tụy làm giảm các yếu tố nguy cơ gây viêm tụy. Nhóm B “dao cung - dây dẫn”: Tỷ lệ viêm tụy là 18,6%, tăng tương ứng theo số lần dây dẫn vào ống tụy (2-3-4-5 lần) ngoài ý muốn. Nhóm thông nhú bằng dao cung - dây dẫn sau 5 lần thất bại, phải chuyển sang cắt phễu thì yếu tố nguy cơ viêm tụy càng tăng cao, do thời gian thủ thuật kéo dài gây tổn thương chung đường mật - tụy, đặc biệt là cơ thắt vòng tụy. Nguyên nhân tăng cao nguy cơ còn có thể do bơm nhiều cản quang lên đường tụy hoặc nhiệt cắt đốt nóng trực tiếp trên cơ vòng tụy khi cắt rộng cơ vòng Oddi hoặc cắt phễu giải cứu. Mặc khác, viêm tụy xảy ra còn tùy thuộc vào cơ địa mỗi bệnh nhân và dụng cụ tái sử dụng. ERCP lần II: Nghiên cứu chúng tôi không ghi nhận viêm tụy sau lần II vì trên cả hai nhóm đã cắt phễu sẵn trước nên không đánh giá. Chảy máu Phương pháp cắt phễu bằng dao kim (1%) có tỷ lệ chảy máu thấp hơn so với thông nhú thông thường (3%), có thể do nhiều lần lên dây dẫn tác động gây thương tổn cơ học lên mạch máu quanh nhú, làm phù nề nên khi cắt bằng dao cung dễ chảy máu, ngoài ra đường cắt dài hơn từ miệng nhú lên đỉnh nhú nên làm tăng nguy cơ. Thủng tá tràng có tỷ lệ (1%) tương đương giữa cả hai nhóm. Phương pháp cắt phễu dao kim thường do cắt sâu, còn thông nhú thông thường do đường cắt từ miệng nhú lên đỉnh nhú quá mức. Biến chứng thủng thường do kinh nghiệm của bác sĩ nội soi hoặc do giải phẫu bất thường của nhú và đoạn cuối ống mật chủ [4,9,14]. Tử vong chưa gặp trong nghiên cứu của chúng tôi, có lẽ do số lượng mẫu còn thấp. Ưu điểm thông nhú cắt phễu bằng dao kim Thông nhú thông thường qua nhú là phương pháp đầu tiên tiến hành bắt buộc trên bệnh nhân làm ERCP, nhiều nghiên cứu trên thế giới báo cáo tỷ lệ thất bại là không thể tránh khỏi, dao động 5-20% dù được bác sĩ nội soi nhiều năm kinh nghiệm thực hiện. [4,9,17] Do đó cần một phương pháp hiệu quả để giải cứu thông nhú khi phương pháp thông thường thất bại. Nhiều tác giả đã đưa ra một số phương pháp cắt trước và hỗ trợ như: cắt trước vách bằng dao cung (TPS), cắt trước miệng nhú bằng dao kim (PF- NKP), cắt phễu bằng dao kim (NKI), cắt trước bằng dao kim qua stent tụy (PS), dùng 2 dây dẫn (DG), rendezvous,[4,9,21-23]. Trong quá trình nghiên Bệnh viện Trung ương Huế 48 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 70/2021 So sánh phương pháp cắt phễu bằng dao kim... cứu tổng hợp thì Freeman & Guda 2005 [2] đã ghi nhận tất cả các kỹ thuật cắt trước và hỗ trợ nêu trên đều giúp cải thiện tỷ lệ thành công khi thông nhú thông thường thất bại. Caslos Kiyoshi Furuya 2018 [4] và Mohammad Ayoubi 2012 [9] đã cho rằng “cắt phễu bằng dao kim” - NKI là phương pháp tối ưu nhất để giải cứu và có thể ưu tiên lựa chọn từ đầu để thông nhú thành công ngay. Trước đây ở bệnh viện chúng tôi phương pháp “cắt phễu bằng dao kim” chỉ dùng cho trường hợp nhú căng phồng có sỏi kẹt ở miệng nhú, u sùi bóng Vater căng phồng ở đỉnh nhú [10]. Những năm gần đây phương pháp này được áp dụng nhiều cho cả những trường hợp thông nhú khó. Qua nghiên cứu thực nghiệm lần này, chúng tôi nhận thấy “cắt phễu ngay từ đầu” trên đỉnh nhú bằng dao kim không chỉ cho nhú căng phồng mà có thể áp dụng cả nhú bình thường, thuận lợi với những nhú dài, cân nhắc với những nhú nhỏ, mang lại tỷ lệ thành công thông nhú cao và giảm nhẹ các biến chứng. [4,9,13,19]. Cắt phễu đạt tỷ lệ thành công thông nhú cao khi được thực hiện sớm giúp rút ngắn thời gian thông nhú, thời gian can thiệp, [4,11]. Hiện nay phương pháp này ưu tiên được lựa chọn ngay từ đầu khi có đánh giá bất thường về đường đi của đoạn cuối ống mật chủ (đánh giá qua siêu âm nội soi trước đó), về hình thái cấu trúc nhú (đánh giá qua nội soi tá tràng ống nghiêng khi đang can thiệp) [9,12,23]. Phương pháp cắt phễu - NKI thường đường cắt ngắn, hướng cắt lên trên đỉnh nhú dễ vào ống mật chủ nên ít tổn thương lên ống tụy làm giảm nguy cơ viêm tụy. Đường cắt phễu chuẩn là theo trục nhú đoạn 1/3 trên, mở dần xuống đoạn 1/3 giữa dưới, tùy theo hình thái, kích thước và độ căng phồng của nhú mà quyết định chiều dài, độ sâu cắt phễu cho phù hợp mục đích can thiệp. [4,5]. Trong trường hợp lấy sỏi nhỏ kt <10mm, hoặc đặt stent nhựa - kim loại thì sau khi cắt phễu bằng dao kim thông nhú thành công, tiếp tục chỉ cắt thêm đoạn 1/3 trên vừa đủ để dịch mật chảy ra, giới hạn đường cắt đến nếp gấp ngang niêm mạc. Nếu để lấy sỏi lớn kt >10mm, đối với bác sĩ mới bắt đầu làm ERCP thì nên cắt vừa phải theo hướng trục nhú 11h, rồi tiếp tục nong rộng miệng cắt bằng bóng nong đường mật kích thước bóng nong tương ứng với kích thước sỏi. Với bác sĩ nội soi lâu năm kinh nghiệm thì có thể cắt lên vượt qua nếp gấp ngang theo đúng trục nhú và trục ống mật chủ, tiên lượng tạo đường cắt vừa đủ lấy sỏi thuận lợi. [4,9,24]. Mặc khác, khi đường cắt chưa đủ sâu để thông nhú vào ống mật chủ thì có thể tiếp tục dùng dao kim cắt sâu thêm trên đỉnh nhú khoảng 1-2mm (tùy vào kinh nghiệm bác sĩ nội soi), điều này khá nguy hiểm vì dễ xảy ra tai biến thủng. Do vậy trong nghiên cứu của chúng tôi, có một tỷ lệ bệnh nhân phải tạm dừng thủ thuật, để làm ERCP lần II. [3,4,9]. Phương pháp cắt phễu bằng dao kim - NKI đường cắt thường ngắn hơn so với phương pháp thông thường - SPC nên giảm nguy cơ xảy ra chảy máu do tránh các mạch máu ở miệng nhú. Một số tác giả khác cho rằng đường cắt ngắn thường khó lấy hết sỏi dễ gây sỏi tái phát, nhưng trong nghiên cứu chúng tôi thì tỷ lệ lấy hết sỏi vẫn đạt thành công cao vì những trường hợp sỏi khó như kích thước lớn hoặc nhiều sỏi chúng tôi thường bổ sung bằng bóng nong đường mật kích thước đủ lớn để thuận lợi cho việc lấy hết sỏi. [11] V. KẾT LUẬN Tóm lại, phương pháp cắt phễu bằng dao kim trên đỉnh nhú để thông nhú vào đường mật là thủ thuật an toàn hiệu quả và đạt được tỷ lệ thành công cao hơn so với phương pháp thông nhú thông thường. Phương pháp này không cắt trực tiếp qua miệng nhú, hạn chế tác động cơ vòng tụy, làm giảm tần suất viêm tụy sau ERCP. Hiện nay cắt phễu là lựa chọn đầu tay trong tiếp cận đường mật để chẩn đoán và can thiệp, đồng thời là phương án dự phòng hỗ trợ tích cực khi thông nhú thông thường gặp khó khăn. Phương pháp cắt phễu bằng dao kim có nhiều ưu điểm hơn so với các phương pháp cắt trước giải cứu khác, do đường cắt ngắn hơn nên ít chảy máu khi cắt. Vị trí cắt phễu nằm trên đỉnh nhú tương ứng lỗ đỗ ra đoạn cuối ống mật chủ nên thông nhú dễ thành công hơn. Cắt phễu dễ thành công hơn so với Bệnh viện Trung ương Huế Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 70/2021 49 thông nhú thông thường, nên thời gian thông nhú, thủ thuật thường được rút ngắn hơn. Tuy nhiên, “cắt phễu bằng dao kim” đòi hỏi bác sĩ nội soi cần có nhiều năm kinh nghiệm với ERCP thực hiện thì mới hạn chế nguy cơ tai biến, biến chứng và mang lại tỷ lệ thành công cao. [4,9,17]. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Carr-Locke TBRKD, ERCP. 1st ed. 2007: Elsevier. 2. Freeman ML , Guda NM. ERCP cannulation: a review of reported techniques. Gastrointest Endosc. 2005. 61: 112-25. 3. Testoni PA, Mariani A, Aabakken L, Arvanitakis M, Bories E, Costamagna G, et al. Papillary cannulation and sphincterotomy techniques at ERCP: European Society of Gastrointestinal Endoscopy (ESGE) Clinical Guideline. Endoscopy. 2016. 48: 657-83. 4. Furuya CK, Sakai P, Marinho FRT, Otoch JP, Cheng S, Prudencio LL, et al. Papillary fistulotomy vs conventional cannulation for endoscopic biliary access: A prospective randomized trial. World J Gastroenterol. 2018. 24: 1803-1811. 5. Mavrogiannis C, Liatsos C, Romanos A, Petoumenos C, Nakos A, Karvountzis G. Needle- knife fistulotomy versus needle-knife precut papillotomy for the treatment of common bile duct stones. Gastrointest Endosc. 1999. 50: 334-9. 6. Artifon EL, Sakai P, Ishioka S, Hondo FY, Raju GS. Suprapapillary puncture of the common bile duct for selective biliary access: a novel technique (with videos). Gastrointest Endosc. 2007. 65: 124-31. 7. Lee YJ, Park YK, Lee MJ, Lee KT, Lee KH, Lee JK. Different Strategies for Transpancreatic Septotomy and Needle Knife Infundibulotomy Due to the Presence of Unintended Pancreatic Cannulation in Difficult Biliary Cannulation. Gut Liver. 2015. 9: 534-9. 8. Lopes L, Dinis-Ribeiro M, Rolanda C. Safety and efficacy of precut needle-knife fistulotomy. Scand J Gastroenterol. 2014. 49: 759-65. 9. Ayoubi M, Sansoè G, Leone N, Castellino F. Comparison between needle-knife fistulotomy and standard cannulation in ERCP. World journal of gastrointestinal endoscopy. 2012. 4: 398-404. 10. Ayoubi M, Castellino F, Rosina F, Chiriotto M, Pace L. PA.232 SELECTIVE COMMON BILE DUCT CANNULATION THROUGH NEEDLE-KNIFE FISTULOTOMY OF AMPULLA INSTEAD OF STANDARD CANNULATION. 2008. 11. Kawakami H, Kubota Y, Kawahata S, Kubo K, Kawakubo K, Kuwatani M, et al. Transpapillary selective bile duct cannulation technique: Bệnh viện Trung ương Huế 50 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 70/2021 So sánh phương pháp cắt phễu bằng dao kim... Review of Japanese randomized controlled trials since 2010 and an overview of clinical results in precut sphincterotomy since 2004. Dig Endosc. 2016. 28 Suppl 1: 77-95. 12. Watanabe M, Okuwaki K, Kida M, Imaizumi H, Yamauchi H, Kaneko T, et al. Transpapillary Biliary Cannulation is Difficult in Cases with Large Oral Protrusion of the Duodenal Papilla. Dig Dis Sci. 2019. 64: 2291-2299. 13. Ramsey WH, Zakko S, Ramsby G, Siegel JH. Choledocho-duodenal fistula: tailoring the fistulotomy using a needle knife papillotome. Gastrointest Endosc. 1992. 38: 190-2. 14. Berry R, Han JY, Tabibian JH. Difficult biliary cannulation: Historical perspective, practical updates, and guide for the endoscopist. World J Gastrointest Endosc. 2019. 11: 5-21. 15. Davee T, Garcia JA, Baron TH. Precut sphincterotomy for selective biliary duct cannulation during endoscopic retrograde cholangiopancreatography. Annals of gastroenterology. 2012. 25: 291-302. 16. Burdick JS, London A, Thompson DR. Intramural incision technique. Gastrointest Endosc. 2002. 55: 425-7. 17. Sundaralingam P, Masson P, Bourke MJ. Early Precut Sphincterotomy Does Not Increase Risk During Endoscopic Retrograde Cholangiopancreatography in Patients With Difficult Biliary Access: A Meta-analysis of Randomized Controlled Trials. Clin Gastroenterol Hepatol. 2015. 13: 1722-1729.e2. 18. Park YG, Kim JH, Kim HJ, Lee KH, Lee KT, Lee JK. Su1341 Evaluation of Different Strategies Using Needle Knife Infundibulotomy and Transpancreatic Septotomy in Difficult Biliary Cannulation. Gastrointestinal Endoscopy. 2013. 77: AB290. 19. Hashiba K, D’Assuncao MA, Moribe D, Armellini ST, Cappellanes CA, Brasil HA, et al. 7240 Is the opening of the biliary duct without electrocoagulation, in infundibulotomy, important to avoid complications? Gastrointestinal Endoscopy. 2000. 51: AB303. 20. Lee TH, Bang BW, Park S-H, Jeong S, Lee CK, Lee S-H, et al. S1435: The Usefulness and Safety of Infundibulotomy for Difficult Biliary Cannulation: Is It a Risky Preference in Relation to the Experience of an Endoscopist? A Multicenter, Prospective Study. Gastrointestinal Endoscopy. 2010. 71: AB161. 21. Archibugi L, Mariani A, Capurso G, Traini M, Petrone MC, Rossi G, et al. Needle-knife fistulotomy vs. standard biliary sphincterotomy for choledocholithiasis: common bile duct stone recurrence and complication rate. Endosc Int Open. 2019. 7: E1733-e1741. 22. Akashi R, Kiyozumi T, Jinnouchi K, Yoshida M, Adachi Y, Sagara K. Pancreatic sphincter precutting to gain selective access to the common bile duct: a series of 172 patients. Endoscopy. 2004. 36: 405-10. 23. Jin YJ, Jeong S, Lee DH. Utility of needle- knife fistulotomy as an initial method of biliary cannulation to prevent post-ERCP pancreatitis in a highly selected at-risk group: a single- arm prospective feasibility study. Gastrointest Endosc. 2016. 84: 808-813. 24. DeBenedet AT, Elmunzer BJ, McCarthy ST, Elta GH, Schoenfeld PS. Intraprocedural quality in endoscopic retrograde cholangiopancreatography: a meta-analysis. Am J Gastroenterol. 2013. 108: 1696-704; quiz 1705.
File đính kèm:
- so_sanh_phuong_phap_cat_pheu_bang_dao_kim_va_thong_nhu_thong.pdf