So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei) vụ đông trong ao mở ngoài trời và hệ thống trong nhà tại tỉnh Nam Định
Hệ thống nuôi tôm trong nhà ISPS (Indoor Shrimp Production System) với các hệ thống xử lý nước trong điều kiện nhiệt độ thấp đã được phát triển ở Nhật Bản. Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá mức độ phù hợp và hiệu quả kỹ thuật của nuôi tôm chân trắng trong hệ thống ISPS trong điều kiện Việt Nam. Hai ao nuôi trong ISPS được so sánh với hai ao nuôi ngoài trời trong vụ đông ở Nam Định. Kết quả cho thấy, nuôi trong ISPS cho năng suất tôm (51,84 ± 1,45 tấn/ha) và tốc độ sinh trưởng (0,175 ± 0,006 g/ngày) tốt hơn tôm nuôi trong ao ngoài trời (39,94 ± 0,27 tấn/ha, 0,135 ± 0,001 g/ngày). Thành phần thực vật phù du đều đa dạng ở các ao nhưng mật độ tảo lam trong nước ao ISPS (< 104 tế bào/ml) thấp hơn ao nuôi ngoài trời (> 104 tế bào/ml). Mẫu nước ao nuôi trong ISPS có mật độ Vibrio parahaemolyticus (từ 0,6 × 101 - 4,4 × 101 CFU/ml) thấp hơn của mẫu nước ao nuôi ngoài trời (1,2 × 103 - 2,1 × 103 CFU/ml) trong 11 tuần theo dõi. Thêm nữa, mật độ Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus trong gan tụy tôm ở ao ISPS (2,3 × 102 - 3,2 × 103 CFU/ml và 1,1 × 102 - 8,9 × 102 CFU/ml, tương ứng) thấp hơn ở ao mở (1,5 × 103 - 1,6 × 104 CFU/ml và từ 8,3 × 103 - 9,8 × 103 CFU/ml, tương ứng). Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống ISPS có tiềm năng ứng dụng nuôi tôm tại miền Bắc Việt Nam
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (litopenaeus vannamei) vụ đông trong ao mở ngoài trời và hệ thống trong nhà tại tỉnh Nam Định
Vietnam J. Agri. Sci. 2021, Vol. 19, No. 7: 901-912 Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam 2021, 19(7): 901-912 www.vnua.edu.vn 901 SO SÁNH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT NUÔI TÔM CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei) VỤ ĐÔNG TRONG AO MỞ NGOÀI TRỜI VÀ HỆ THỐNG TRONG NHÀ TẠI TỈNH NAM ĐỊNH Nguyễn Hữu Vinh1,2, Đặng Thị Hóa1, Lê Thị Cẩm Vân1, Đoàn Thị Nhinh1, Trần Thị Trinh1, Đỗ Hoàng Hiệp3, Trương Đình Hoài1, Kim Văn Vạn1, Phạm Thị Lam Hồng1, Lê Việt Dũng1* 1 Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 Công ty VMC Việt Nam 3 Trung tâm Giống thủy hải sản Nam Định * Tác giả liên hệ: levietdung@vnua.edu.vn Ngày nhận bài: 13.05.2021 Ngày chấp nhận đăng: 03.06.2021 TÓM TẮT Hệ thống nuôi tôm trong nhà ISPS (Indoor Shrimp Production System) với các hệ thống xử lý nước trong điều kiện nhiệt độ thấp đã được phát triển ở Nhật Bản. Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá mức độ phù hợp và hiệu quả kỹ thuật của nuôi tôm chân trắng trong hệ thống ISPS trong điều kiện Việt Nam. Hai ao nuôi trong ISPS được so sánh với hai ao nuôi ngoài trời trong vụ đông ở Nam Định. Kết quả cho thấy, nuôi trong ISPS cho năng suất tôm (51,84 ± 1,45 tấn/ha) và tốc độ sinh trưởng (0,175 ± 0,006 g/ngày) tốt hơn tôm nuôi trong ao ngoài trời (39,94 ± 0,27 tấn/ha, 0,135 ± 0,001 g/ngày). Thành phần thực vật phù du đều đa dạng ở các ao nhưng mật độ tảo lam trong nước ao ISPS ( 104 tế bào/ml). Mẫu nước ao nuôi trong ISPS có mật độ Vibrio parahaemolyticus (từ 0,6 × 10 1 - 4,4 × 10 1 CFU/ml) thấp hơn của mẫu nước ao nuôi ngoài trời (1,2 × 10 3 - 2,1 × 10 3 CFU/ml) trong 11 tuần theo dõi. Thêm nữa, mật độ Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus trong gan tụy tôm ở ao ISPS (2,3 × 10 2 - 3,2 × 10 3 CFU/ml và 1,1 × 10 2 - 8,9 × 10 2 CFU/ml, tương ứng) thấp hơn ở ao mở (1,5 × 10 3 - 1,6 × 10 4 CFU/ml và từ 8,3 × 10 3 - 9,8 × 10 3 CFU/ml, tương ứng). Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống ISPS có tiềm năng ứng dụng nuôi tôm tại miền Bắc Việt Nam. Từ khóa: ISPS, Vibrio, tôm chân trắng. Technical Efficiency of White-Leg Shrimp (Litopenaeus vannamei) Culture over Winter Crop Between Outdoor Ponds and Indoor Shrimp Production System in Nam Dinh Province ABSTRACT The Indoor Shrimp Production System (ISPS) with the treating water systems at low temperature was developed in Japan. This study evaluated the applicability and technical efficiency of growing white-leg shrimp in the ISPS under Vietnamese conditions. Two ponds in the ISPS were compared with two outdoor ponds overwinter in Nam Dinh. The ISPS ponds showed a better yield (51.84 ± 1.45 ton/ha) and growth of shrimp (0.175 ± 0.006 g/day) compared with the outdoor ones. The phytoplankton communities of the two treatments were diverse; however, the cyanobacteria density in the ISPS pond water (<10 4 cell/ml) was lower than the outdoor water (> 10 4 cell/ml). The density of Vibrio parahaemolyticus in the ISPS pond water (0.6 10 1 - 4.4 10 1 CFU/ml) was lower than that in the probiotic one (1.2 10 3 - 2.1 10 3 CFU/ml) over 11 weeks. In addition, the total Vibrio and V. parahaemolyticus densities of the shrimp’s hepatopancreas in ISPS ponds (2.3 10 2 - 3.2 10 3 CFU/ml và 1.1 10 2 - 8.9 10 2 CFU/ml, respectively) were lower than those in the outdoor ones (1.5 10 3 - 1.6 10 4 CFU/ml và 8.3 10 3 - 9.8 10 3 CFU/ml, respectively). The results demonstrated the potential applicability of the ISPS in culturing shrimp in the North of Vietnam. Keywords: ISPS, Vibrio, white-leg shrimp. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nam Định là một trong những tỉnh ở miền Bắc có tiềm năng phát triển thâm canh hóa nuôi tôm chân trắng. Theo thống kê đến năm 2017, diện tích nuôi của Nam Định hơn 810ha, sản So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đông trong ao mở ngoài trời và hệ thống trong nhà tại tỉnh Nam Định 902 lượng đạt khoảng 2.654 tấn với năng suất bình quân 3-4 tấn/ha/năm (Sở NN&PTNT, 2018). Đây là các vùng có cơ sở hạ tầng cơ sở tốt và áp dụng các công nghệ mới trong sản xuất. Một số cơ sở áp dụng công nghệ kỹ thuật mới đã mang lại năng suất cao 35 tấn/ha/vụ. Mục tiêu tới năm 2025, diện tích nuôi tôm nước lợ đạt 4.175ha với sản lượng 9.700 tấn, trong khi đến năm 2030 diện tích giảm còn 3.680ha nhưng sản lượng 11.250 tấn. Xu hướng trong thời gian tới về diện tích nuôi là không tăng và có nguy cơ giảm do nhiều diện tích đất đã được quy hoạch để sử dụng với mục đích khác (UBND tỉnh Nam Định, 2018). Việc ứng dụng công nghệ nuôi tôm thẻ trong nhà sẽ góp phần giải quyết các nguy cơ hiện tại, giúp tăng năng suất và tính bền vững, đáp ứng định hướng không tăng diện tích nuôi mà sản lượng tăng. Ngoài vấn đề diện tích nuôi hạn chế, tình hình dịch bệnh tôm nuôi trên địa bàn tỉnh Nam Định cũng diễn biến phức tạp. Tại một số vùng nuôi tôm tập trung của huyện Hải Hậu, huyện Giao Thủy thường xuyên xuất hiện bệnh đốm trắng và bệnh hoại tử gan tụy cấp (Sở NN&PTNT, 2018). Hầu hết khi bị bệnh, nước thải ao nuôi không được xử lý đều được xả trực tiếp ra môi trường, do đó mầm bệnh lây lan nhanh. Người nuôi tôm chủ yếu theo các quy trình công nghệ thay nước hoặc vi sinh hoặc phần lớn dựa vào kinh nghiệm. Việc ứng dụng công nghệ thay nước đang gặp khó khăn lớn do diện tích đất có hạn và lượng chất thải nhiều. Bên cạnh đó với tình hình biến đổi khí hậu thất thường cùng với mùa đông nhiệt độ thấp khiến công nghệ vi sinh gặp nhiều thách thức. Vì vậy, nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới vào nuôi tôm vụ đông là rất cấp thiết để giải quyết các vấn đề gặp phải, góp phần vào sự phát triển bền vững nghề nuôi tôm tại Nam Định. Từ những năm 2000, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học nông nghiệp quốc tế Nhật Bản đã hợp tác với Trung tâm Khuyến ngư quốc gia Nhật Bản, Công ty TNHH Công nghệ thủy sản quốc tế IMTE và một số doanh nghiệp Nhật Bản nghiên cứu hoàn thiện công nghệ nuôi tôm tro ... vi khuẩn có khuẩn lạc đặc trưng cũng dương tính và có sản phẩm 368bp trùng với sản phẩm của chủng đối chứng dương (Hình 4). Như vậy những khuẩn lạc vi khuẩn phát triển trên môi trường TCBS có hình thái đặc trưng như trên được định danh là vi khuẩn V. parahaemolyticus, vì vậy kết quả So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đông trong ao mở ngoài trời và hệ thống trong nhà tại tỉnh Nam Định 908 đếm riêng những khuẩn lạc dạng này phát triển trên đĩa nuôi cấy từ nước ao hoặc từ gan tụy tôm được sử dụng để tính mật độ vi khuẩn V. parahaemolyticus. Mật độ Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus (0-1,3 × 103 CFU/ml và 0-2,0 × 102 CFU/ml, tương ứng) trong mẫu nước ao ISPS thấp hơn nhiều so với của ao đối chứng trong suốt quá trình thử nghiệm (0-4,4 × 104 CFU/ml và 0-1,6 × 104 CFU/ml, tương ứng; Hình 5). Mật độ Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus trong mẫu nước ao đối chứng có xu hướng tăng dần trong quá trình nuôi. Hai ao đối chứng có mật độ Vibrio tổng số trong nước tăng mạnh vào ngày nuôi 42 (1,4 × 104 - 1,6 × 104 CFU/ml) và 56 (3,4 × 104 - 4,4 × 104 CFU/ml). Tương tự, mật độ vi khuẩn V. parahaemolyticus tăng mạnh vào cùng thời điểm ngày 42 (2,2 × 103 - 2,5 × 103 CFU/ml) và ngày 56 (6,0 × 103 - 1,6 × 104 CFU/ml). Mặc dù không tăng mạnh vào sau ngày 56, mật độ Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus ở ao đối chứng vẫn có xu hướng tăng theo chu kỳ 3 tuần tương ứng từ khoảng 0 tới 4,0 × 103 CFU/ml và 0 tới 2,7 × 103 CFU/ml. Trong khi đó, mật độ vi khuẩn Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus của nước ao ISPS được kiểm soát liên tục ở mức thấp (< 103 CFU/ml và < 102 CFU/ml, tương ứng) như khuyến cáo của Tang & cs. (2020) và không tăng theo chu kỳ. Hình 3. Nuôi cấy vi khuẩn Vibrio tổng số (A) và cấy thuần V. parahaemolyticus (B) trên môi trường thạch TCBS Ghi chú: M-Marker; 1-5: một số chủng đại diện V. parahaemolyticus phân lập từ mẫu nước và gan tụy tôm; 6: đối chứng âm; 7: đối chứng dương (chủng VNUA05-19). Hình 4. Nhuộm Gram vi khuẩn V. parahaemolyticus sau khi cấy thuần (A) và kết quả giám định vi khuẩn bằng kỹ thuật PCR (B) Nguyễn Hữu Vinh, Đặng Thị Hóa, Lê Thị Cẩm Vân, Đoàn Thị Nhinh, Trần Thị Trinh, Đỗ Hoàng Hiệp, Trương Đình Hoài, Kim Văn Vạn, Phạm Thị Lam Hồng, Lê Việt Dũng 909 Ghi chú: Đường đứt đoạn ngang là mức khuyến cáo theo Tang & cs. (2020). Hình 5. Mật độ Vibrio tổng số (A) và V. parahaemolyticus (B) trong nước ao giữa hai nghiệm thức ISPS và đối chứng Tôm có tỉ lệ sống và tốc độ sinh trưởng trong nghiệm thức ISPS cao hơn trong nghiệm thức đối chứng. Một phần nguyên nhân tỉ lệ sống cao hơn có thể là do mật độ Vibrio tổng số và V. parahaemolyticus trong nước và gan tụy tôm được kiểm soát ở mức thấp hơn trong các ao ISPS. Khi cảm nhiễm tôm thẻ chân trắng với V. parahaemolyticus ở nồng độ 104 và 105 CFU/ml, Soto-Rodriguez & cs. (2015) đã quan sát thấy tỉ lệ chết tương ứng là 50% và 93% sau 46 giờ, trong khi mật độ vi khuẩn này ở mức dưới 103 CFU/ml thì không gây chết cho tôm chân trắng sau 167 giờ. Nước ở 2 ao đối chứng có mật độ V. parahaemolyticus lên tới 6 × 103 và 1,6 × 104 CFU/ml vào ngày 56, có thể là nguyên nhân gây chết, giảm tỷ lệ sống của tôm So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đông trong ao mở ngoài trời và hệ thống trong nhà tại tỉnh Nam Định 910 trong hệ thống nuôi này. Ngay sau khi có kết quả phân tích, chúng tôi đã tiến hành khử trùng nước kịp thời để giảm mật độ vi khuẩn trong nước ao đối chứng, làm giảm tỷ lệ tôm chết. Trong khi đó, nước trong các ao ISPS được kiểm soát mật độ khuẩn Vibrio liên tục, hầu hết các thời điểm đều thấp hơn 103 CFU/ml nhờ khả năng diệt khuẩn của thiết bị điện hóa siêu âm. Hiệu suất diệt khuẩn của thiết bị này có thể đạt tới 94,4% trong 300 giây với mẫu nước ao tôm có mật độ Vibrio 19,7 × 103 CFU/ml (Nguyễn Văn Cường, 2016). Sóng siêu âm tạo ra các vi bọt khí trong nước do áp suất tĩnh của chất lỏng giảm dưới mức ấp suất bay hơi của nó (Doosti & cs., 2012). Khi các bọt khí vỡ, một nguồn năng lượng lớn được giải phóng, áp suất có thể đạt tới 500-10.000 atm và nhiệt độ lên đến 3.000- 5.000°K các gốc tự do hydroxyl (OH°) và hydro (H°) sẽ được hình thành (Patil & Pantid, 2007). Sau đó, nhiệt độ và áp suất cao cục bộ cùng với các gốc tự do giết chết vi khuẩn (Piyasena & cs., 2003). Ghi chú: Đường đứt đoạn ngang là mức khuyến cáo theo Tang & cs. (2020). Hình 6. Mật độ Vibrio tổng số (A) và V. parahaemolyticus (B) trong gan tụy tôm giữa hai nghiệm thức ISPS và đối chứng Nguyễn Hữu Vinh, Đặng Thị Hóa, Lê Thị Cẩm Vân, Đoàn Thị Nhinh, Trần Thị Trinh, Đỗ Hoàng Hiệp, Trương Đình Hoài, Kim Văn Vạn, Phạm Thị Lam Hồng, Lê Việt Dũng 911 Năng suất nuôi tôm trong nhà dao động lớn giữa các công bố. Đối với các ao trong nhà có diện tích lớn (0,5-0,8ha) ở Trung Quốc, năng suất lại chỉ đạt 0,69 kg/m3 (Peng & cs., 2014). So với hệ thống nuôi tôm trong các bể 100 L tuần hoàn trong nhà ở Indonesia (Suantika & cs., 2018) hệ thống ISPS hiện tại có năng suất tương đương (5 kg/m3). Với công nghệ ISPS đã được tối ưu hóa (như nhiệt độ, độ mặn, oxy hòa tan, lọc sinh học) ở Nhật Bản, năng suất nuôi tôm dao động 6-9 kg/m3 (Wider & Nohara, 2017). Trong khi đó, năng suất nuôi tôm trong nhà sử dụng các bể 40 và 100m3 ở Mỹ dao động 4-9 kg/m3 (Samocha, 2019). Như vậy, việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong hệ thống nuôi tôm trong nhà đã giúp tăng năng suất nuôi tôm. 4. KẾT LUẬN Năng suất nuôi tôm của công nghệ ISPS lần đầu được thử nghiệm tại Việt Nam ở quy mô ao 500m2 cho thấy tiềm năng ứng dụng công nghệ này vào thực tiễn sản xuất. Năng suất ước tính vào ngày nuôi thứ 112 từ PL12 ở các ao ISPS (51 tấn/ha) cao hơn ở các ao đối chứng (39 tấn/ha). Mặc dù năng suất này chưa bằng kết quả thử nghiệm tại Nhật nhưng cơ sở vật chất và thiết bị đều được xây dựng và chế tạo trong nước. Một số ưu điểm có thể thấy của công nghệ ISPS là khả năng kiểm soát môi trường, mật độ vi khuẩn và mật độ tảo tốt hơn so với nuôi ao ngoài trời. LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu này được tài trợ bởi “Chương trình Khoa học và Công nghệ phục vụ xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 2018-2020”. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các đơn vị phối hợp đã đóng góp cơ sở vật chất để thực hiện đề tài này. Xin cám ơn sự trợ giúp kỹ thuật của các sinh viên Khoa Thủy sản trong việc thu và phân tích mẫu. TÀI LIỆU THAM KHẢO Aguirre‐Guzmán G., Sánchez‐Martínez J.G., Pérez‐Castañeda R., Palacios‐Monzón A., Trujillo‐Rodríguez T. & De La Cruz‐Hernández N.I. (2010). Pathogenicity and infection route of Vibrio parahaemolyticus in American white shrimp, Litopenaeus vannamei. Journal of the World Aquaculture Society. 41: 464-470. https://doi.org/10.1111/j.1749-7345.2010.00388.x Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (1995). TCVN 5998:1995. Tiêu chuẩn Việt Nam về Chất lượng nước - Lấy mẫu - Hướng dẫn lấy mẫu nước biển. Bộ Khoa học và Công nghệ (2012). TCVN 8988:2012 (2012). Tiêu chuẩn quốc gia về Vi sinh vật trong thực phẩm, phương pháp định lượng Vibrio parahaemolyticus. Doosti M.R., Kargar R. & Sayadi M.H. (2012). Water treatment using ultrasonic assistance: A review. Proceedings of the International Academy of Ecology and Environmental Sciences. 14: 96-110. Dương Thị Hoàng Oanh, Huỳnh Trường Giang & Nguyễn Thị Kim Liên (2014). Mối liên hệ giữa sức khỏe tôm và biến động quần thể phytoplankton trong các ao nuôi tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) thâm canh. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ. 2. 159-168. Ebeling J.M., Timmons M.B. & Bisogni J.J. (2006). Engineering analysis of the stoichiometry of photoautotrophic, autotrophic, and heterotrophic removal of ammonia-nitrogen in aquaculture systems. Aquaculture. 257: 346-358. Gomez-Gil B., Lucia Tron-Mayén, Ana Roque, James F. Turnbull, Valerie Inglis & Ana L. Guerra- Flores, (1998). Species of Vibrio isolated from hepatopancreas, haemolymph and digestive tract of a population of healthy juvenile Penaeus vannamei. Aquaculture. 163(1-2): 1-9. Gomez-Gil B., Soto-Rodríguez S., Lozano R. & Betancourt-Lozano M. (2014). Draft genome sequence of Vibrio parahaemolyticus strain M0605, which causes severe mortalities of shrimps in Mexico. Genome Announc. 2(2): 14. Huang Haocai, Wu Gang, Sheng Chaowu, Wu Jiannan, Li Danhua & Wang Hangzhou (2020). Improved cyanobacteria removal from harmful algae blooms by two-cycle, low-frequency, low-density, and short-duration ultrasonic radiation. Water. 12(9): 2431. Kim Y.B., Okuda J., Matsumoto C., Takahashi N., Hashimoto S. & Nishibuchi M. (1999). Identification of Vibrio parahaemolyticus strains at the species level by PCR targeted to the toxR gene. J. Clin. Microbiol. 37: 1173-1177. Li W.K., McLaughlin F.A., Lovejoy C. & Carmack E.C. (2009). Smallest algae thrive as the arctic ocean freshens. Science. 326: 539 Lin Y.C. & Chen J.C. (2001). Acute toxicity of ammonia on Litopenaeus vannamei Boone juveniles at different salinity levels. Journal of Experimental Marine Biology and Ecology. 259: 109-119. So sánh hiệu quả kỹ thuật nuôi tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) vụ đông trong ao mở ngoài trời và hệ thống trong nhà tại tỉnh Nam Định 912 McIntosh (2019). Modeling a sustainable shrimp industry. Shrimp: Modelling for Sustainability, INFOFISH, Thailand. MELO F.B., Ferreira M.G.P., Braga Í.F.M. & Correia E.d.S. (2018). Toxicity of nitrite on shrimp Litopenaeus vannamei reared in clear water and biofloc systems. Boletim do Instituto de Pesca. 42(4): 855-865. Meng N., Yuan J.L., Liu M. & Gu Z.M. (2018). Assessment of water quality and phytoplankton community of Litopenaeus vannamei pond in intertidal zone of Hangzhou Bay, China. Aquaculture Reports. 11: 53-58. Nguyễn Văn Cường (2016). Nghiên cứu ứng dụng siêu âm xử lý khuẩn và tảo trong môi trường nước. Luận văn thạc sĩ. Đại học Khoa học Huế. tr. 58 Nguyễn Văn Tuyên (2003). Đa dạng sinh học tảo trong thủy vực nội địa Việt Nam triển vọng và thử thách. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. tr. 264-483. Paerl H.W. (1988). Nuisance phytoplankton blooms in coastal, estuarine and inland waters. Limnology and Oceanography. 33: 823-847. Patil M.N. & Pandit A.B. (2007). Cavitation - a novel technique for making stable nanosuspensions. Ultrasonics Sonochemistry. 14: 519-530. Peng J., Dong Qiufen, Zhang Song & Yang Yong (2014). Shrimp farming in greenhouses: a profitable model to culture Penaeus vannamei in China. International Aquafeed, January- February. p. 53. Piyasena P., Mohareb E. & McKellar R.C. (2003). Inactivation of microbes using ultrasound: a review. Int. J. Food Microbiol. 87: 207-216. Ray A.J. (2019). Indoor Marine Shrimp Farming. SRAC Publication No. 2602: 1-7. Samocha T.M. (2019). Sustainable Biofloc Systems For Marine Shrimp. Academic Press. ISBN 978-0- 12-818040-2. Soto-Rodriguez S.A., Gomez-Gil B., Lozano-Olvera R., Betancourt-Lozano M. & Morales-Covarrubias M.S. (2015). Field and experimental evidence of Vibrio parahaemolyticus as the causative agent of acute hepatopancreatic necrosis disease of cultured shrimp (Litopenaeus vannamei) in northwestern Mexico. Appl. Environ. Microbiol. 81: 1689-1699. doi:10.1128/AEM.03610-14. Soto-Rodriguez S.A., Gomez Gil B., Lozano R. & Roque A. (2010). Density of vibrios in hemolymph and hepatopancreas of diseased pacific white shrimp, Litopenaeus vannamei, from Northwestern Mexico. Journal of the World Aquaculture Society. 41: 76-83. Suantika G., Situmorang M.L., Nurfathurahmi A., Taufk I., Aditiawati P., Yusuf, N., Aulia, R. (2018) Application of Indoor Recirculation Aquaculture System for White Shrimp (Litopenaeus vannamei) Growout Super-Intensive Culture at Low Salinity Condition. J Aquac Res Development 9: 530. doi: 10.4172/2155-9546.1000530. Sở NN&PTNT tỉnh Nam Định (2017). Báo cáo Quy hoạch phát triển kinh tế thủy sản và bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Nam Định đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. tr. 180. Tan TohHii, Leaw Chui Pin, Leong Sandric, LIM Lay, Chew S.M., Teng Sing Tung & Lim Po Teen (2016). Marine micro-phytoplankton of Singapore, with a review of harmful microalgae in the region. Raffles Bulletin of Zoology. 34: 78-96. Tang K.F.J., Bondad-Reantaso M.G., Arthur J.R., MacKinnon B., Hao B., Alday-Sanz V., Liang Y. & Dong X. (2020). Shrimp acute hepatopancreatic necrosis disease strategy manual. FAO Fisheries and Aquaculture Circular No. 1190. Rome, FAO. Tran L., Nunan L., Redman R.M., Mohney L.L., Pantoja C.R., Fitzsimmons K. & Lightner D.V. (2013). Determination of the infectious nature of the agent of acute hepatopancreatic necrosis syndrome affecting penaeid shrimp. Dis. Aquat. Organ. 105(1): 45-55. UBND tỉnh Nam Định (2018). Quyết định V/v phê duyệt Quy hoạch phát triển kinh tế thủy sản và bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Nam Định đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. tr. 14. Wu X.G., Eadaoin M. Joyce & Timothy J. Mason (2011). The effects of ultrasound on cyanobacteria. Harmful Alga., 10(6): 738-743. Wilder M.N. & Nohara S. (2017). White Shrimp Litopenaeus vannamei. In: Takeuchi T. (eds) Application of Recirculating Aquaculture Systems in Japan. Fisheries Science Series. Springer, Tokyo. pp. 145-173. Yusoff F.M., Zubaidah M.S., Matias H.B. & Kwan T.S. (2002). Phytoplankton succession in intensive marine shrimp culture ponds treated with a commercial bacterial product. Aquaculture Research. 33: 269-278. Zhang P., Zhang X., Li J. & Huang G. (2006). The effects of body weight, temperature, salinity, pH, light intensity and feeding condition on lethal DO levels of whiteleg shrimp, Litopenaeus vannamei (Boone, 1931). Aquaculture. 256(1-4): 579-587.
File đính kèm:
- so_sanh_hieu_qua_ky_thuat_nuoi_tom_chan_trang_litopenaeus_va.pdf