Phong cách học phê phán – Hướng tiếp cận mới của phong cách học về văn bản phi văn chương
Phong cách học phê phán là lĩnh vực nghiên cứu mới của phong cách học phương Tây đương
đại. Với giới hạn khảo sát là văn bản phi văn chương, phong cách học phê phán có mục đích khám
phá và bóc trần ý thức hệ của văn bản vì sự bình đẳng và tiến bộ xã hội. Trong bài viết này, nhằm
giúp bạn đọc có một cái nhìn tổng quan, tác giả giới thiệu bốn nội dung chính của phong cách học
phê phán: nguồn gốc, quá trình hình thành, mục đích nghiên cứu, hệ thống công cụ phân tích. Qua
bài viết, tác giả hy vọng bạn đọc Việt Nam có những hiểu biết cơ bản về phong cách học phê phán,
tiến tới có thể áp dụng các nguyên lý và cách thức tiếp cận của phong cách học phê phán vào thực
tiễn nghiên cứu của Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phong cách học phê phán – Hướng tiếp cận mới của phong cách học về văn bản phi văn chương
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 3 PHONG CÁCH HỌC PHÊ PHÁN – HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI CỦA PHONG CÁCH HỌC VỀ VĂN BẢN PHI VĂN CHƯƠNG Nguyễn Thế Truyền Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh nguyenthetruyen2004@yahoo.com Ngày nhận bài: 31/7/2018, Ngày duyệt đăng: 17/12/2018 Tóm tắt Phong cách học phê phán là lĩnh vực nghiên cứu mới của phong cách học phương Tây đương đại. Với giới hạn khảo sát là văn bản phi văn chương, phong cách học phê phán có mục đích khám phá và bóc trần ý thức hệ của văn bản vì sự bình đẳng và tiến bộ xã hội. Trong bài viết này, nhằm giúp bạn đọc có một cái nhìn tổng quan, tác giả giới thiệu bốn nội dung chính của phong cách học phê phán: nguồn gốc, quá trình hình thành, mục đích nghiên cứu, hệ thống công cụ phân tích. Qua bài viết, tác giả hy vọng bạn đọc Việt Nam có những hiểu biết cơ bản về phong cách học phê phán, tiến tới có thể áp dụng các nguyên lý và cách thức tiếp cận của phong cách học phê phán vào thực tiễn nghiên cứu của Việt Nam. Từ khoá: phong cách học phê phán, phân tích diễn ngôn phê phán, ý thức hệ, văn bản phi văn chương, tư duy phê phán. Critical stylistics – a new approach of stylistics to non-literary texts Abstract The critical stylistics is a new field of study in contemporary Western learning styles. With limited to non-literary texts, critical stylistics has the purpose of seeking and exposing ideological underpinnings of texts for social equality and progress. Therefore, in order to help readers with an overview about critical stylistics, this article aims to present four main aspects of critical stylistics, including its origins, formation process, purpose of research, and a set of analytical tools. This article is to provide Vietnamese readers with basic knowledge about the critical stylistics so that the readers can apply the critical stylistics principles and how to conduct critical stylistics in research practices in Vietnam. Keywords: critical stylistics, critical discourse analysis, ideology, non-literary texts, critical thinking. 1. Khái niệm văn bản phi văn chương Văn bản1 phi văn chương (non-literary texts) là loại văn bản được xây dựng dựa vào phương thức phản ánh cuộc sống thực thay vì phản ánh một thế giới hư cấu. Văn bản phi văn chương nhằm mục đích chủ yếu là cung cấp thông tin, phân biệt với văn bản văn chương (literary texts) với mục đích chủ yếu là tác động thẩm mỹ. Quan hệ giao tiếp giữa tác giả và người đọc của 1 Văn bản (text) nói đến trong phong cách học phê phán hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả văn bản viết (written văn bản phi văn chương là quan hệ giao tiếp trực tiếp qua chất liệu ngôn ngữ của lời nói thông tin, không thông qua mã hình tượng (của lời nói nghệ thuật). Trong phong cách học từ thập kỷ 70 trở về trước, khi mà “phong cách học đôi lúc được gọi là ngôn ngữ học văn chương – literary linguistics” (Burke, 2014: tr. 1), thì đối tượng được nghiên cứu chủ yếu là văn bản văn texts) lẫn văn bản nói (spoken texts). VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 4 chương. Tuy nhiên, văn bản phi văn chương vẫn được chú ý xem xét từ hai góc độ. Trong giai đoạn tu từ học cổ điển, văn bản phi văn chương được phân tích từ góc độ nghệ thuật nói năng trong một bộ phận quan trọng của tu từ học thời kỳ đó là thuật hùng biện (elocution). Trong giai đoạn phong cách học chức năng truyền thống Nga Xô-Viết2 (thập kỷ 50-70), văn bản phi văn chương được xem xét từ góc độ chức năng xã hội và được phân chia thành các loại: phong cách hành chính, phong cách khoa học, phong cách báo chí, phong cách chính luận. Như vậy, trong phong cách học truyền thống, văn bản phi văn chương mới chỉ được khảo sát từ góc độ hình thức diễn đạt và chức năng xã hội, chưa được khảo sát từ góc độ nội dung phản ánh, đặc biệt là góc độ nội dung tư tưởng mà nó chuyển tải và tác động tới người tiếp nhận. 2. Nguồn gốc của phong cách học phê phán Như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, cũng như chính tác giả của quyển sách Critical stylistics: The Power of English (Jeffries, 2010) thừa nhận, phong cách học phê phán bắt nguồn từ ngôn ngữ học phê phán, phân tích diễn ngôn phê phán và chịu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ học chức năng – hệ thống. 2.1. Ngôn ngữ học phê phán và phân tích diễn ngôn phê phán Ngôn ngữ học phê phán3 (Critical Linguistics) là một phong trào khởi phát từ trường Đại học East Anglia (Anh) vào những năm giữa thập niên 70 của thế kỷ XX với người đề xướng là Roger Flowler và những đồng nghiệp của ông (công trình Language and control4, 1979). Ngôn ngữ học phê phán nghiên cứu quan hệ giữa ngôn ngữ và ý thức hệ (ideology), vạch ra những con đường mà các khuôn hình xã hội của ngôn ngữ (social patterns 2 Phân biệt với phong cách học chức năng – cấu trúc của trường phái Praha (thập kỷ 50-60) và phong cách học chức năng trường phái Halliday (từ cuối thập kỷ 70). 3 Từ ‘phê phán’ (critical) trong ngôn ngữ học phê phán, phân tích diễn ngôn phê phán, phong cách học phê phán được hiểu là ‘nhận thức với tinh thần phản tỉnh, phân biệt đúng sai, hay dở, thấy được thực chất của những vấn đề che giấu đằng sau’. Nhưng trong phân tích diễn ngôn phê phán “từ ‘critical’ cũng thường được dùng một cách hẹp of language) có thể chi phối tư tưởng của con người. Ngôn ngữ học phê phán được hình thành “để khám phá cách thức những nghĩa xã hội (social meaning), như quyền lực và ý thức hệ, được diễn tả thông qua ngôn ngữ như thế nào và cách thức ngôn ngữ trong phương diện này có thể tác động tới cách chúng ta nhận thức thế giới như thế nào” (Nørgaard và cộng sự, 2010: tr. 11- 12). Với ngữ pháp hệ thống như một bộ công cụ, ngôn ngữ học phê phán tập trung phân tích mối quan hệ không thể chia cắt giữa ngôn ngữ và nghĩa xã hội qua các trường hợp như nhan đề bài báo, bài quảng cáo – nơi mà những giả định ... ng của người khác (Presenting the Speech and Thoughts of other Participants) Trong tranh luận, diễn thuyết, khi tác giả dẫn lời nói, tư tưởng của người khác thì quan điểm của tác giả bộc lộ ở cách trích dẫn và sự bình luận của họ đối với điều được thuật lại. Tác giả có thể đồng tình hay hàm ý đồng tình, đứng về phía người được trích dẫn hoặc phản đối, chỉ trích. Lời nói được trích dẫn là phương tiện dùng quyền uy của người được dẫn để tác động mạnh tới quan điểm, tư tưởng của người đọc. Lời nói hay tư tưởng của người khác cũng bị tác giả văn bản bóp méo, xuyên tạc theo nhiều cách thức khác nhau với “mục đích ý thức hệ nào đó” (Jeffries, 2010: tr. 131), và tất nhiên cách dẫn đó làm thay đổi quan điểm, thái độ của người tiếp nhận so với nguyên bản ban đầu. 5.1.10. Định vị thời gian, không gian và quan hệ giao tiếp (Representing Time, Space and Society) Những vấn đề đặt ra trong văn bản phi văn chương phải được người đọc nhận thức từ một điểm nhìn tri nhận nào đó, qua đó, họ cấu trúc thế giới của văn bản trong tâm trí của họ theo một cách nào đó. Cách tốt nhất để người đọc nhận thức những vấn đề của văn bản là “đặt người đọc vào trung tâm chỉ xuất của tiếng nói 20 Van Leeuwen, T. (1996). The representation of social actors. In C. R. Caldas-Coulthard and M. Coulthard (eds) Texts and Practices, pp. 32–70. London and New York: Routledge 21 Mills S. (1995). Feminist stylistics. London: Routledge. 22 Simpson P. (1993). Language, Ideology and Point of View. London: Routledge. trần thuật của văn bản, và đối mặt với những thách thức” (Jeffries, 2010: tr. 157) mà văn bản đặt ra. Những thuộc tính cơ bản của thời gian, không gian trần thuật và các thông số quan hệ xã hội của người tham gia tương tác trực tiếp (qua xưng hô) của văn bản phi văn chương ảnh hưởng tới rất nhiều sự tri nhận của người đọc với tư cách là người đứng bên ngoài, thụ động, đối kháng, hoài nghi, hay ở bên trong, tích cực, chủ động. Định vị hay chỉ xuất là phương tiện khá tinh tế trong quan hệ với tác động của ý thức hệ. Nó kéo người đọc, người nghe lâm thời ra khỏi trung tâm chỉ xuất của chính họ để đi vào vị trí quan sát, suy tư của văn bản. Điều này có khả năng làm thay đổi quan điểm tư tưởng của người tiếp nhận đối với văn bản. 5.2. Những công cụ phân tích khác Vì công việc xây dựng bộ công cụ của Jeffries có tính chất “dần dần từng bước và thăm dò” (Jeffries, 2014: tr. 417) nên kết quả nghiên cứu của bà chưa mỹ mãn. Mặt khác cũng không thể nào liệt kê một cách cạn kiệt các công cụ phân tích phê phán phong cách học. Một danh sách đề xuất nào cũng có tính chất tương đối, và không phải với bất cứ tác phẩm nào, thể loại nào cũng dùng một bộ công cụ phân tích duy nhất. Trong qua trình phát triển hệ thống công cụ phân tích này, Hermeston trong bài viết Towards a critical stylistics of disability cho biết rằng trong khi sử dụng một số công cụ phân tích do Jeffries đề xuất, ông cũng chú ý dùng “những công cụ của các nhà nghiên cứu khác như van Leeuwen20, Mills21 và Simpson22” (Hermeston, 2017: tr. 38) và “bổ sung những yếu tố cho khung lý thuyết, đặc biệt là tác phẩm Martin và White23 về thái độ (attitude) [của ngôn ngữ đánh giá ‘evaluative language’24], cũng như các vấn đề về lạ hoá (foregrounding) và lệch chuẩn (deviation)” (Hermeston, 2017: p. 38). Hermeston cũng quan tâm về phân tích 23 Martin, J. R. and White, P. R. R. (2005). The Language of Evaluation. Basingstoke and New York: Palgrave Macmillan. https://doi.org/10.1057/9780230511910 24 Bản thân Jeffries cũng nhắc đến vai trò của ngôn ngữ đánh giá (evaluative language) trong việc tăng cường hiệu quả biểu thị quan điểm tư tưởng của tác giả văn bản (x. Jeffries, 2010: tr. 147). VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 14 ‘phong cách tư duy’ (mind-style), phương thức trần thuật (narrative mode) và tình thái (modality) (Hermeston, 2017: p. 57). Mặt khác, theo chúng tôi (N.T.T), các công cụ xuất phát từ chính lĩnh vực phong cách học (chứ không phải dựa quá nhiều ngữ pháp chức năng – hệ thống của Halliday và dụng học như Jeffries chẳng hạn) như ẩn dụ (Goatly 200725), phúng dụ, uyển ngữ, cũng cần được nghiên cứu sâu thêm từ phương diện phản ánh ý thức hệ. 6. Ý nghĩa thực tiễn xã hội của phong cách học phê phán Phân tích diễn ngôn phê phán và phong cách học phê phán có một mục đích đáng trân trọng là nâng cao ‘nhận thức mang tính phê phán về ngôn ngữ’ (critical language awareness) cho mọi người, bao gồm cả trong trường học, và nhận thức đó là cơ sở để tạo ra những sự thay đổi xã hội thông qua những hình thức can thiệp trực tiếp (direct intervention) liên quan đến ngôn ngữ (Wales, 2011: tr. 145). Khi ngôn ngữ là diễn đàn của quyền lực xã hội, khi ngôn ngữ góp phần củng cố ý thức hệ thống trị và che giấu sự thật, thì ý thức phê phán về diễn ngôn có thể xem “là một cơ sở cho sự giải phóng xã hội” (Lời nói đầu của Tổng biên tập – Fairclough, 1989: x). Hình 1. Phong cách học phê phán – Nguyên lý mã hoá và cách thức bóc trần ý thức hệ của văn bản Phong cách học phê phán cũng như phân tích diễn ngôn phê phán xem xét “hoạt động của ý thức hệ trong ngôn ngữ” (Jeffries, 2010: tr. 6) và ảnh hưởng của nó tới thế giới quan của người đọc. Phong cách học phê phán xuất phát từ “ý tưởng rằng ngôn ngữ học có thể được dùng cho ứng dụng trong thế giới thực” (Jeffries, 2016: tr. 158). Phong cách học phê phán chỉ rõ bổn phận xã hội, trách nhiệm chính trị của nhà ngôn ngữ 25 Goatly, A. (2007). Washing the Brain: Metaphor and Hidden Ideology. Amsterdam: John Benjamins Publishing học trước các vấn đề xã hội đương đại. Phong cách học phê phán còn là một phần của hệ hình đang phát triển nhằm mục đích truyền ý thức hành động và sự tự tin cho sinh viên về tư duy phê phán (critical thinking) để phát triển nhận thức tích cực về chính trị cho sinh viên. Hiển nhiên, phân tích diễn ngôn phê phán và phong cách học phê phán chỉ vận hành dễ dàng trong một xã hội dân chủ, có tiếng nói đa chiều Company; dẫn theo: Jeffries, 2010: tr. 54. Ý thức hệ Ghi khắc Hệ thống ngôn ngữ Nhà phong cách học Người nói Người viết Xã hội Lựa chọn Kháng cự Chấp thuận Vì sự bình đẳng và tiến bộ xã hôi (Mục đích) Ý thức hệ của văn bản (Trọng tâm) Ngôn ngữ học vi mô (Cấp độ) Bộ công cụ phân tích (Phương tiện) Văn bản (nói, viết) Tác động Người đọc Người nghe Bóc trần TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 15 và ý thức phản biện; nhưng chính phân tích diễn ngôn phê phán và phong cách học phê phán cũng lại là cơ sở của một xã hội dân chủ. Đến đây, chúng ta có thể hình dung bức tranh về sự mã hoá ý thức hệ vào hệ thống ngôn ngữ (và ghi khắc dấu ấn vào văn bản) cùng cách thức bóc trần ý thức hệ của văn bản theo quan điểm của phong cách học phê phán qua sơ đồ mà tác giả (N.T.T) mô tả trong Hình 1. 7. Một số vấn đề tồn tại của phong cách học phê phán Vấn đề đầu tiên là đặc trưng ‘phong cách học’ chưa thể hiện rõ nét trong phong cách học phê phán, nhất là trong quyển Critical stylistics: The Power of English của Jeffries. Mặc dù tác giả sách cho biết: “Và giống Simpson, tôi cũng quan tâm đến việc lựa chọn phong cách, và phân tích văn bản – cái có thể soi sáng những lựa chọn mà người tạo lập văn bản đã thực hiện, mặc dù họ có ý thức hay không” (Jeffries, 2010: tr. 16), nhưng chính Jeffries cũng thừa nhận khi có đôi lời thanh minh về nhan đề tập sách của mình: “Trong lúc trọng tâm ý thức hệ có nghĩa rằng ‘critical’ là chắc chắn được bao hàm [trong nhan đề tập sách], thì cái được chọn ‘stylistics’ là khó khăn hơn” (Jeffries, 2010: tr. 2). Khi điểm sách Critical stylistics: The Power of English, Xiang cũng nêu ý kiến là mối quan hệ giữa phong cách học và quan điểm ý thức hệ trong sách cần phải được khám phá sâu hơn (Xiang, 2011: tr. 223). Vì đặc trưng phong cách học không nổi rõ, nên phong cách học phê phán được một số nhà nghiên cứu xem chỉ như sự mở rộng của phân tích diễn ngôn phê phán. Vấn đề thứ hai, tuy đối tượng khảo sát là văn bản, nhưng phạm vi khảo sát của phong cách học phê phán (như trong quyển Critical stylistics: The Power of English) chỉ mới giới hạn ở cấp độ vi mô của văn bản (câu, từ), thiếu các vấn đề vĩ mô của văn bản, tức là khảo sát văn bản như một toàn thể về đề tài, chủ đề, cấu trúc, lập luận, chiến lược tương tác, hệ thống từ vựng, lối giao tiếp,... – những vấn đề quan hệ rất chặt chẽ với ý thức hệ và quan điểm tư tưởng của tác giả. Một vấn đề khác là phạm vi nghiên cứu của phong cách học phê phán có mở rộng sang văn bản văn chương hay không. Nếu có, khi đó bộ công cụ phân tích của nó chắc chắn phải thay đổi rất nhiều vì ý thức hệ trong văn bản phi văn chương là đơn chủ thể, còn trong văn bản văn chương là một phức chủ thể gồm nhân vật, người trần thuật và tác giả. Và nếu phong cách học phê phán mở rộng sang văn bản văn chương thì nó sẽ khác với phê bình văn học theo khuynh hướng xã hội học ở khối các nước xã hội chủ nghĩa ý thức hệ Marxist trước đây như thế nào? Đến đây cũng cần nói rõ về hai cách tiếp cận ý thức hệ: theo truyền thống “ngục văn tự” phương Đông và theo kiểu dân chủ phương Tây. Trong lịch sử chế độ phong kiến phương Đông và kéo dài sang cả thời kỳ chuyên chính vô sản, việc khám phá ý thức hệ, quan điềm tư tưởng là công việc của tầng lớp thống trị nhằm phát hiện lập trường, chính kiến của quần chúng, nhất là trí thức, văn nghệ sĩ (qua tác phẩm văn chương) để đàn áp, khủng bố những người chống đối. Ngược lại, truyền thống phân tích phê phán ý thức hệ kiểu dân chủ phương Tây với trường phái tiêu biểu phân tích diễn ngôn phê phán lại xuất phát từ chủ thể là dân chúng, còn đối tượng phân tích phê phán ở đây lại là những chính trị gia và những người nắm giữ quyền lực trong xã hội (qua lời diễn thuyết, tuyên ngôn, bài xã luận, bản tin, truyền đơn,). Mục đích của việc phê phán này nhằm nâng cao ý thức xã hội và giải phóng khỏi những bất bình đẳng, bất công và áp bức. 8. Kết luận Phong cách học phê phán là phương pháp phong cách học của phân tích ngôn ngữ, quan tâm tới cách thức ngôn ngữ chuyển tải những ý nghĩa xã hội, nằm trong một lĩnh vực lớn hơn là ‘những hướng tiếp cận phê phán về ngôn ngữ’ (critical approaches to language) (Jeffries, 2010: tr. 114). Phong cách học phê phán bắc những nhịp cầu nối kết phân tích diễn ngôn phê phán với phong cách học bằng việc dùng và phát triển sâu hơn hướng tiếp cận ngôn ngữ học phê phán cho phân tích văn bản. Thành tựu chủ yếu của phong cách học phê phán cho đến thời điểm hiện nay là cung cấp một tập hợp công cụ phân tích mang tính hệ thống và bao quát. Vì VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 16 thế, từ một góc độ nào đó mà nói thì phong cách học phê phán có thể được xem như một cách tiếp cận khác của phân tích diễn ngôn phê phán và có thể được định vị trong nghiên cứu ngôn ngữ học phê phán, vì cả phân tích diễn ngôn phê phán và phong cách học phê phán đều hành động để chỉ rõ ý thức hệ và quyền lực trong diễn ngôn. Đó là công việc “làm sáng tỏ những quan hệ phức tạp và vô hình” (Fairclough, 1989: tr. 27) và mang nhiều ý nghĩa thực tiễn trong khuynh hướng dân chủ hoá vì sự tiến bộ và bình đẳng xã hội. Phong cách học phê phán thể hiện một cách hiểu mới về phong cách: phong cách là sự lựa chọn của những thái độ, cách giải thích, cách phản ánh. Phong cách là sự phản ánh cách nhận thức thực tế, phản ánh thế giới quan và tư duy và cũng chính là sự phản ánh một cách sống, một cách quan niệm. Phong cách học phê phán mở ra những đề tài nghiên cứu mới trong một phạm vi cũ. Trong hướng khảo sát này, các đề tài về tìm hiểu ý thức hệ (hoặc quan điểm tư tưởng, chính trị) trong hiến pháp hay một bộ luật của một quốc gia nào đó chẳng hạn, sẽ là đề tài có nhiều điều mới mẻ và thú vị. Tài liệu tham khảo Burke, M. (2014). Stylistics: From classical rhetoric to cognitive neuroscience. In: Burke L. (ed.), The Routledge Handbook of Stylistics, London; Routledge, pp. 1-7. Fairclough, N. (1989). Language and power. London: Longman. Hermeston, R. (2017). Towards a critical stylistics of disability. Journal of Language and Discrimination, 1 (1), pp. 34-60. Jeffries, L. (2010). Critical Stylistics: The Power of English. Hampshire; Palgrave Macmillian. Jeffries, L. (2014). Critical stylistics. In: Burke, M. (ed.). The Routledge Handbook of Stylistics. London: Routledge, pp. 408-420. Jeffries, L. (2016). Critical stylistics. In: Sotirova, V. (ed). The Bloomsbury Companion to Stylistics. London and New York; Bloomsbury, pp. 157-176. Mills, S. (2005) [1995]. Feminist stylistics. London; Routledge. Mills, S. (2011). Critical stylistics, by Lesley Jeffries, Critical Discourse Studies, 8 (3), pp. 225-226. Nørgurd, N., Montoro, R. and Busse, B. (2010). Key Terms in Stylistics. London; Continuum. Simpson, P. (1993). Language, Ideology and Point of View. London; Routledge. Simpson, P. (2004). Stylistics. London and New York; Taylor & Francis. van Leeuwen, T. (2006). Critical Discourse Analysis. In: Brown K (ed.). Encyclopedia of language and linguistics. New York; Elsevier, pp. 2155-2159. Voloshinov, U.N and Bakhtin, M (1994). Marxism and the Philosophy of Language. Trans. L. Matejka and I.R. Titunik. Bakhtin Reade Selected writings of Bakhtin, Medaredev, Voloshinov, (Ed.) Pam Morris. London: Edward Arnold, pp. 25-37. Wales, K. (2011). A Dictionary of Stylistics (3rd ed.). London and New York; Routledge. Xiang, Y. (2011). Critical stylistics, by Lesley Jeffries, Critical Discourse Studies, 8 (3), pp. 221-223.
File đính kèm:
- phong_cach_hoc_phe_phan_huong_tiep_can_moi_cua_phong_cach_ho.pdf