Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh

Bài viết sử dụng các cách tiếp cận nhân học về không gian, nơi chốn và định

vị văn hóa để phân tích một trường hợp của cửa biển Việt Nam, cửa biển Kỳ Anh ở tỉnh

Hà Tĩnh, với giả thuyết là: vùng văn hóa (cultural area) có ý nghĩa quan trọng trong việc

nhận diện văn hóa của một phạm vi rộng lớn hơn nhưng nó chỉ cung cấp một cái nhìn

tĩnh tại (và có thể là định kiến); trong khi đó, không gian văn hóa (cultural space) chỉ ra

những đặc điểm của các phạm vi hẹp hơn nhưng vẫn mang tính định tính; và vì vậy, nơi

chốn văn hóa (cultural place) mới cung cấp một cái nhìn động tại địa điểm của các thực

hành văn hóa với tất cả nét riêng và những biến đổi qua dâu bể thời gian.

Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh trang 1

Trang 1

Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh trang 2

Trang 2

Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh trang 3

Trang 3

Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh trang 4

Trang 4

Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh trang 5

Trang 5

Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh trang 6

Trang 6

Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh trang 7

Trang 7

Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 4460
Bạn đang xem tài liệu "Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh

Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh
Những lớp đắp bồi lịch sử 23
Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: 
Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh
Trần Thị An(*)
Tóm tắt: Bài viết sử dụng các cách tiếp cận nhân học về không gian, nơi chốn và định 
vị văn hóa để phân tích một trường hợp của cửa biển Việt Nam, cửa biển Kỳ Anh ở tỉnh 
Hà Tĩnh, với giả thuyết là: vùng văn hóa (cultural area) có ý nghĩa quan trọng trong việc 
nhận diện văn hóa của một phạm vi rộng lớn hơn nhưng nó chỉ cung cấp một cái nhìn 
tĩnh tại (và có thể là định kiến); trong khi đó, không gian văn hóa (cultural space) chỉ ra 
những đặc điểm của các phạm vi hẹp hơn nhưng vẫn mang tính định tính; và vì vậy, nơi 
chốn văn hóa (cultural place) mới cung cấp một cái nhìn động tại địa điểm của các thực 
hành văn hóa với tất cả nét riêng và những biến đổi qua dâu bể thời gian.
Từ khóa: Cửa biển, Vùng văn hóa, Không gian văn hóa, Kỳ Anh, Hà Tĩnh
Abstract: The paper applies anthropological approaches to cultural space, place and 
positioning for a case study of Ky Anh estuary in Ha Tinh province on the assumption that 
while cultural area only provides a static (and probably prejudiced) viewpoint despite 
its signifi cance in identifying the culture on a broader scale, cultural space connotes 
narrower yet qualitative ones. Therefore, only cultural place can provide a dynamic 
insight of the location where cultural practices take place ecompassing all its distinctions 
and transformations over time.
Keywords: Estuary, Cultural Area, Cultural Space, Ky Anh District, Ha Tinh Province
1. Không gian, nơi chốn và định vị văn 
hóa: Một số vấn đề lý thuyết1
Là một môi trường tồn tại, môi trường 
sống, môi trường sáng tạo và thực hành 
văn hóa, không gian là một vấn đề tối quan 
trọng đối với con người, vì thế, là vấn đề 
trung tâm của mọi ngành khoa học. Với 
nhân học, từ việc phân tích các chiều cạnh 
của không gian vật lý trong mối tương quan 
với sự kiến tạo các chiều kích không gian 
(*) PGS.TS., Đại học Quốc gia Hà Nội; 
Email: antran.vass@gmail.com
tinh thần, các lý thuyết gia đã xác lập hẳn 
một hướng lý thuyết, đó là nhân học về 
không gian và nơi chốn (anthropology of 
space and place). Tương liên với hướng lý 
thuyết nhân học này, trong nghiên cứu văn 
hóa có một hướng lý thuyết về “định vị văn 
hóa” (locating culture), mà ở đó, các vấn 
đề về văn hóa vùng, không gian văn hóa 
và nơi chốn văn hóa đã được đề xuất, thảo 
luận và ứng dụng nghiên cứu.
Trong những năm cuối thế kỷ XX và 
đầu thế kỷ XXI, một nhóm nghiên cứu nhân 
học Hoa Kỳ nhận thấy nhân học đang vượt 
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201924
khỏi giới hạn của nghiên cứu khu vực và 
thực tế phong phú đang thách thức các cách 
tiếp cận truyền thống và đòi hỏi những phân 
ngành chuyên sâu của nhân học. Chính vì 
thế, họ đã khởi xướng và truyền cảm hứng 
để tổ chức một loạt sách về một lĩnh vực 
nghiên cứu mới là: nhân học và không 
gian nơi chốn. Loạt sách gồm 4 cuốn: 1) 
Anthropology of Globalization: A Reader 
(Edited by Jonathan Xavier Inda and Renato 
Rosaldo), 2) The Anthropology of Media: A 
Reader (Edited by Kelly Askew and Richard 
R. Wilk), 3) Genocide: An Anthropological 
Reader (Edited by Alexander Laban 
Hinton), 4) The Anthropology of Space and 
Place: Locating Culture (Edited by Setha 
M. Low and Denise Lawrence-Zúñiga). 
Bốn cuốn này được Nhà xuất bản Blackwell 
của Đại học Oxford tài trợ xuất bản, cho nên 
loạt sách này được mang tên là Nhập môn 
nhân học Blackwell (Blackwell Readers in 
Anthropology). 
Bài viết điểm qua các hướng nghiên 
cứu về nhân học không gian, nơi chốn và 
định vị văn hóa được trình bày trong cuốn 
The Anthropology of Space and Place, 
Locating Culture1 do Setha M. Low (Chủ 
tịch Hội Nhân học Hoa Kỳ 2007-2009) và 
Denise Lawrence-Zúñiga biên tập. Trong 
cuốn sách này, các phạm vi không gian 
được đề cập gồm: a) địa lý nhân văn, b) lãnh 
thổ nhân văn, c) ứng xử mang tính không 
gian, d) không gian cá nhân, e) không gian 
mở, và g) không gian công cộng. Các phạm 
vi không gian văn hóa đã được lý thuyết 
hóa và được lược thuật gồm: a) các không 
gian liên quan đến sự hiện diện của thân 
thể - hay là sự chiếm lĩnh không gian liên 
quan đến con người từ phương diện thể 
chất (Embodied Spaces), b) các không gian 
1 Blackwell Publishing, 2003, Oxford, UK.
liên quan đến giới (Gendered Spaces), c) 
các không gian được định vị (Inscribed 
Spaces), d) các không gian đang được 
tranh luận (Contested Spaces), không gian 
xuyên quốc gia (Transnational Spaces), và 
e) chiến lược không gian (Spatial Tactics). 
Trong các chiều kích đa dạng của không 
gian từ cách tiếp cận nhân học và định vị 
văn hóa, bài viết chú ý đến sự gợi ý của 
các lý thuyết về một số phạm vi không gian 
gồm không gian địa lý và không gian nhân 
văn; một số hướng chiếm dụng không gian 
từ góc độ tồn tại thể chất của con người 
trong không gian gắn với ứng xử văn hóa 
hàng ngày (Embodied Spaces), từ góc độ 
xác định ý nghĩa cho không gian (Inscribed 
Spaces) và sự tranh chấp của các cộng 
đồng khác nhau về cùng một không gian 
để phục vụ cho lợi ích của mình (Contested 
Spaces); từ đó, áp dụng vào phân tích 
trường hợp mà chúng tôi lựa chọn. Đồng 
thời, bài viết cũng sử dụng quan điểm lý 
thuyết của Henri Lefèbvre về tính năng 
sản của không gian (trong The Production 
of Space2, một công trình cũng được xuất 
bản bởi Blackwell) cho rằng, không gian 
có tính năng sản trong sự linh hoạt của các 
bối cảnh nghiên cứu và thực hành xã hội. 
Sự đắp bồi các lớp ý nghĩa trong một phạm 
vi không gian mà chúng tôi khảo sát chính 
là sự thể hiện tính năng sản ý nghĩa không 
gian mà Henri Lefèbvre đề cập tới.
2. Sông đổ ra biển - vịnh nước sâu và 
không gian thương mại
Cũng như các con sông khác ở Hà 
Tĩnh, sông ở Kỳ Anh đều là các con sông 
ngắn, lưu vực nhỏ và dòng chảy lớn. Sông 
Trí, sông Quyền hợp thành một dòng nơi 
2 Henri Lefèbvre (1991), The Production of Space, 
Trans ... 
kết với Chăm pa, Chân Lạp... để tạo nên áp 
lực chính trị, quân sự từ phía Nam Đại Việt. 
Trong khoảng 4 thế kỷ, Nghệ - Tĩnh vừa là 
địa bàn tích hợp nhiều mâu thuẫn khu vực 
vừa là nơi hội tụ những nhân tố phát triển 
mới” (Nguyễn Văn Kim, 2012).
Nằm dưới chân đèo Ngang, vùng đất/
vùng biển Kỳ Anh chắc chắn đã là tâm điểm 
của vùng chiến địa nhiều thế kỷ mà nguyên 
nhân và mục đích của các cuộc giao tranh 
là chiếm giữ lãnh thổ ngang với sự tranh 
giành lãnh hải - một yếu tố vô cùng quan 
trọng trong chính trị và thương mại thời bấy 
giờ, đặc biệt trong thời gian mà việc giao 
thương ở vịnh Bắc bộ có những trở ngại 
nhất định. Đồng thời, là cực Nam của Đại 
Việt trong một thời gian dài, vùng đất Kỳ 
Anh còn được xem như đại diện phía Nam 
của vùng đất chịu ảnh hưởng của Hán hóa, 
mà chỉ bước chân qua đèo Ngang thôi, là 
vùng đất của Chăm pa chịu ảnh hưởng sâu 
sắc của văn hóa Ấn Độ, cũng là nơi trú ngụ 
của các cư dân tại chỗ và các dòng di dân từ 
miền Bắc vào (theo chỉ dụ của Vua Lý Nhân 
Tông năm 1075) và từ Bắc miền Trung 
(Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh) những thế kỷ về 
sau. Tính động của các dòng di dân và tính 
khác của cư dân Chăm pa ở phía Nam đèo 
Ngang đã tạo nên những nét khác biệt của 
vùng đất chịu ảnh hưởng của Hán ở phía 
Bắc đèo Ngang. 
Tính chất đặc biệt về mặt lịch sử của 
vùng đất này, cùng với nét đặc trưng địa 
lý, là các yếu tố mang tính quyết định để 
định vị văn hóa (locating culture) cho vùng 
cửa biển Kỳ Anh mà ở đó, việc xác định 
ý nghĩa cho không gian (inscribed spaces) 
dường như có ý nghĩa quan trọng để định 
hướng việc chiếm dụng không gian từ góc 
độ tồn tại thể chất của con người trong 
không gian gắn với ứng xử văn hóa hằng 
ngày (embodied spaces); tuy nhiên, tính 
động và tính lỏng của các lớp chồng lấn ý 
nghĩa văn hóa của không gian này cũng sẽ 
tạo nên sự tranh chấp của các cộng đồng 
khác nhau về cùng một không gian để phục 
vụ cho lợi ích của mình (contested spaces) 
mà chúng ta sẽ thấy rõ hơn khi mô tả đời 
sống cư dân vùng biển này từ góc độ một 
nơi chốn văn hóa (cultural place). 
4. Đền thiêng nơi cửa bể - cột mốc văn hóa 
phía Nam Đại Việt
Việc mô tả yếu tố địa lý, việc giới thiệu 
bối cảnh lịch sử vùng đất ở các phần viết 
trên gần như dẫn đến một mặc định là: ngay 
tại vùng ven biển Kỳ Anh này, tất yếu phải 
có một cột mốc văn hóa mang dấu ấn thể 
chế của chính quyền Đại Việt. Cột mốc đó, 
khá rõ ràng, là truyền thuyết/thư tịch/đền 
thờ/tục thờ một danh nhân (truyền thuyết 
hay chính sử mặc lòng) dân tộc. 
Nguyễn Thị Bích Châu, như ta đã biết, 
không phải là một nhân vật lịch sử xác 
thực. Tên bà không xuất hiện trong các bộ 
sử, dù là ở các bản đương thời hay các bản 
chép muộn màng sau này. Tên của bà chỉ 
xuất hiện trong thần tích (văn bản định hình 
các truyền thuyết dân gian hoặc/và quan 
điểm của người biên chép) và tác phẩm văn 
học đời sau (nơi các truyền thuyết dân gian 
được neo đậu và điểm tô thêm màu sắc). 
Thần tích cho biết tên tuổi, quê quán 
lai lịch, công trạng, vị thế lẫy lừng của 
nhân vật được thờ ở các di tích ven biển 
Kỳ Anh - Nguyễn Thị Bích Châu, cung phi 
Vua Trần Duệ Tông, người có công dâng 
“Kê minh thập sách”, người cùng nhà vua 
xông pha nơi chiến địa, ra vào sinh tử trong 
trận đánh Chiêm Thành cuối cùng của nhà 
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201928
vua, và đã tử nạn trên lưng ngựa trong trận 
chiến này và được lập đền thờ ở cửa biển 
Kỳ Anh. Truyện Hải Khẩu linh từ trong tập 
Truyền kỳ tân phả của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn 
Thị Điểm (1705-1749)1 cho ta biết nhiều 
chi tiết ly kỳ hơn trong chuyến hải hành 
cuối cùng của cuộc đời Nguyễn Thị Bích 
Châu khi theo Vua Trần Duệ Tông đi đánh 
Chiêm Thành; và cái chết của bà không 
phải là trên lưng ngựa mà là một sự hiến 
tế cho thần biển để dẹp đường cho chiến 
thuyền của nhà vua qua vùng sóng dữ ở cửa 
biển huyện Kỳ Hoa (nay là Kỳ Anh). Bài 
thơ Hà Hoa hải môn lữ thứ (Nghỉ lại ở cửa 
biển Hà Hoa2) trong tập Minh lương cẩm tú 
(được cho là của Vua Lê Thánh Tông sáng 
tác trong chuyến vua thân chinh đi đánh 
Chiêm Thành năm 1470 dù vẫn còn tồn tại 
một số tranh cãi về văn bản học)3 lại cho 
thêm một tiếng nói khẳng định sự tồn tại 
của ngôi đền “rực rỡ cỏ hoa” thờ cung phi 
Nguyễn Thị Bích Châu (xem thêm Trần Thị 
An: 2013). Truyện Bích Châu du tiên mạn 
ký (Nàng Bích Châu đi chơi cõi tiên) được 
rút ra từ tập Gia phả của dòng họ Nguyễn 
Huy và được cho là của Nguyễn Huy Hổ4 
1 Trần Nghĩa (chủ biên, 1977), Tổng tập tiểu thuyết 
chữ Hán Việt Nam, Tập 1, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 
tr. 342-358.
2 Theo Lịch triều hiến chương loại chí, Hà Hoa là 
tên phủ ở phía Nam Nghệ An, phủ này có 2 huyện 
là Thạch Hà và Kỳ Hoa (gồm Cẩm Xuyên và Kỳ 
Anh hiện nay). Bài thơ dùng địa danh Hà Hoa (tên 
phủ), nhưng chú thích của bài thơ lại dùng địa danh 
Kỳ Hoa (tên huyện). Đoàn Thị Điểm trong Truyền 
kỳ tân phả cũng dùng địa danh Kỳ Hoa (Phan Huy 
Chú, 1972). 
3 Mai Xuân Hải (chủ biên, 1986), Thơ văn Lê Thánh 
Tông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 188-190.
4 Nguyễn Thạch Giang dịch và giới thiệu (1990), 
“Gia phả dòng họ Nguyễn Huy”, Tạp chí Hán Nôm, 
số 1, in lại trong: Nguyễn Huệ Chi (chủ biên, 1999), 
Truyện truyền kỳ Việt Nam, Tập 2, Nxb. Giáo dục, 
Hà Nội, 1999, tr. 343-353.
lại kể bà Bích Châu, một nàng tiên do đánh 
vỡ chén ngọc mà bị giáng trần làm cung 
phi của Vua Trần Anh Tông (1276-1320, 
ở ngôi: 1293-1320) và mất vào năm 1312, 
trên đường Vua Trần Anh Tông khải hoàn 
trong trận đánh Chiêm Thành năm 1311-
1312 (cũng là lúc nàng tiên hết hạn trần 
gian được gọi về trời). 
Người dân địa phương tin vào các sự 
kiện được kể trong truyền thuyết (bà Bích 
Châu là cung phi của Vua Trần Duệ Tông, 
bà viết “Kê minh thập sách”, bà cùng vua đi 
đánh giặc) và niên đại trong truyền thuyết 
(đền thờ bà được lập năm 1377, năm mà 
Trần Duệ Tông băng hà do tử nạn trong trận 
chiến). Niềm tin được tin là được dựa trên 
cớ sở của tiểu thuyết Truyền kỳ tân phả và 
được củng cố thêm vì bài Hà Hoa hải môn 
lữ thứ được coi là của Vua Lê Thánh Tông5. 
Chính quyền và người dân Kỳ Anh hàng 
năm tổ chức lễ hội đền thờ bà và căn cứ 
vào truyền thuyết, Ban Tổ chức lễ hội cho 
gói số lượng bánh chưng tương ứng với số 
năm xây dựng ngôi đền (1377). Không gian 
(space) biển của các chuyến hải hành của 
nhà vua đã được cụ thể hóa thành một nơi 
chốn (place) thờ vị thần phù hộ cho người 
đi biển (là nhà vua trong quá khứ và ngư 
dân hiện nay). Sự xác định ý nghĩa không 
gian ở đây là sự kết hợp giữa niềm tin của 
người dân và hướng định của chính quyền 
ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau. 
Đáng chú ý là ở Kỳ Anh có 2 ngôi đền 
thờ bà Nguyễn Thị Bích Châu (còn gọi là 
đền Bà Hải): một được dựng bên bờ dòng 
sông Vịnh (sông Cửa Khẩu, hợp lưu của 
sông Trí và sông Quyền); một ngôi khác 
được dựng ngay bên bờ biển, tại điểm cuối 
5 Người dân không tin vào câu chuyện về bà Bích 
Châu được kể trong Bích Châu du tiên mạn ký có thể 
do xuất xứ thần tiên của nhân vật.
Những lớp đắp bồi lịch sử 29
của mũi Dòn - chân của dãy núi Dòn ăn ra 
biển (cạnh cảng Sơn Dương, nơi có nhà máy 
Formosa hiện nay). Những người phụ trách 
việc thờ tự của hai ngôi đền đều khẳng định 
đền mình phụ trách mới là đền chính, mới 
là nơi có ngôi mộ của bà Bích Châu. Tâm 
lý mong muốn khẳng định tính chính danh 
của ngôi đền thờ dưới ảnh hưởng của quan 
niệm Nho giáo cũng là một cách để thu hút 
đầu tư của chính quyền và sự tham gia của 
người đi lễ. Như vậy, việc thờ bà Bích Châu 
như một vị thần bảo trợ cho người đi biển 
(trong quá khứ) và như một vị Thánh Mẫu 
có quyền năng ban phát ân huệ cho muôn 
mặt đời thường hôm nay (cầu ngư, cầu 
an, cầu tài, cầu lộc, cầu danh, cầu tự, cầu 
duyên...) chính là nhu cầu tách con người 
khỏi không gian địa lý (embodied spaces), 
để trở thành một chủ nhân “ông” của không 
gian địa lý dẫu cho sự hàng phục và lệ thuộc 
sức mạnh thiên nhiên vẫn còn hiển lộ (cầu 
khấn vị nhiên thần - bà Hải - phù hộ cho 
cuộc sống của mình). Đồng thời, việc tranh 
chấp (contested spaces) tính chính danh 
cho ngôi đền thờ bà cho thấy dấu vết của 
các lớp văn hóa mà nhu cầu thờ tự và sự 
can dự của chính quyền bộc lộ rõ. 
Cần chú ý thêm một chi tiết là, không 
phải chỉ có Cửa Khẩu (Kỳ Anh) mới có đền 
thờ bà Bích Châu. Các vùng Cửa Nhượng, 
Cửa Sót, Cửa Lò đều có đền thờ bà, nhưng 
chỉ có Cửa Khẩu mới được coi là đền chính 
và hằng năm thu hút hàng chục vạn khách 
hành hương. Tại sao như vậy? Có thể nhìn 
thấy ở đây sự can thiệp của yếu tố địa lý 
tự nhiên, sự thuận lợi cho việc cập bến tàu 
thuyền, vùng vịnh kín để người đi biển có 
thể neo đậu tàu thuyền tránh bão, và sự can 
thiệp của chính quyền (ngày 03/8/1991, 
Bộ Văn hóa - Thông tin đã có Quyết định 
công nhận đền thờ Chế thắng Phu nhân 
Nguyễn Thị Bích Châu là Di tích lịch sử và 
Danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia)... Như 
vậy, việc hình thành một nơi chốn văn hóa 
(cultural place) từ một không gian văn hóa 
(cultural space) chắc chắn là đã chịu sự ảnh 
hưởng đan chéo của nhiều yếu tố: địa lý tự 
nhiên, địa lý nhân văn, lịch sử, con người... 
rất cần bóc tách và giải mã để hiểu đúng 
về nó. 
Sự hình thành nơi chốn văn hóa 
(cultural place) và các vấn đề lý thuyết 
được đúc rút (embodied spaces, contested 
spaces) như trường hợp bài viết đang đề cập 
hoàn toàn cho thấy khía cạnh chính trị của 
vấn đề: việc thực hành văn hóa có liên quan 
mật thiết và có ý nghĩa khẳng định quyền 
lực của một thể chế và chủ quyền quốc gia, 
đặc biệt tại những vùng quan yếu. Việc tự 
động xây “miếu thờ” (tháng 6/2014)1 rồi 
“tháp biểu tượng tinh thần”2 dù bị yêu cầu 
dỡ3 và lại đề đạt một yêu cầu mới4 tại khu 
công nghiệp Formosa (tại cảng nước sâu 
Kỳ Anh) không nằm ngoài các vấn đề lý 
thuyết và thực tiễn đang bàn. 
1 Đoàn Loan (2014), Đại biểu Quốc hội phản đối 
xây miếu trong Formosa Hà Tĩnh, Báo VnExpress, 
ngày 24/10/2014, https://vnexpress.net/thoi-su/dai-
bieu-quoc-hoi-phan-doi-xay-mieu-trong-formosa-
ha-tinh-3097895.html (truy cập ngày 05/10/2019)
2 Đức Hùng (2015), Formosa xin xây “tháp biểu 
tượng tinh thần kháng Pháp”, Báo VnExpress, ngày 
10/12/2015, https://vnexpress.net/thoi-su/formosa
-xay-thap-bieu-tuong-tinh-than-khang-Phap-3325
660.html (truy cập ngày 05/10/2019).
3 Đức Hùng (2015), Hà Tĩnh ra tối hậu thư cho 
‘tháp biểu tượng tinh thần’ của Formosa, Báo 
Vnexpress, ngày 15/12/2015, https://vnexpress.net/
thoi-su/ha-tinh-ra-toi-hau-thu-cho-thap-bieu-tuong-
tinh-than-cua-formosa-3328452.html (truy cập 
ngày 05/10/2019).
4 Đức Hùng (2016), Formosa xin xây nơi thờ phụng 
và tâm linh, Báo VnExpress, ngày 05/3/2016, https://
vnexpress.net/thoi-su/formosa-xin-xay-noi-tho-
phung-va-tam-linh-3365020.html (truy cập ngày 
05/10/2019).
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201930
Kết luận
Các cửa biển Việt Nam với một phần 
lớn là các cửa sông đổ ra biển, với các 
đặc điểm địa lý riêng biệt của từng vùng 
miền, đã hình thành nên các nơi chốn mà 
các cộng đồng dân cư thực hành văn hóa 
của cộng đồng mình. Các lớp ý nghĩa của 
nơi chốn văn hóa mà bài viết đang bàn (xã 
Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh) luôn biến động 
và biến đổi theo sự biến động dân cư, bối 
cảnh lịch sử - kinh tế - xã hội, mang một 
số nét bản sắc của vùng văn hóa định hình 
(miền Trung), chịu ảnh hưởng sâu sắc của 
những đặc điểm định tính của không gian 
văn hóa biển gồm hợp thể các hoạt động, 
các niềm tin mang giá trị lịch sử quốc gia. 
Có thể nói, chính sự thực hành văn hóa 
của các cộng đồng cư dân nơi cửa sông-
biển Kỳ Anh với tất cả sự sống động của 
nó mới kiến tạo nên một nơi chốn văn hóa 
thể hiện sự chiếm lĩnh không gian biển của 
người Việt từ nhiều phương diện (kinh tế, 
văn hóa, chủ quyền) trong một chiều sâu 
của lịch sử và thời gian. Nơi chốn văn hóa 
sinh động, nhộn nhịp thể hiện hơi thở của 
đời sống hằng ngày nằm trong và chịu ảnh 
hưởng của vùng văn hóa và không gian văn 
hóa mà để nghiên cứu nó, cần tới các lý 
thuyết nhân học về không gian/nơi chốn và 
lý thuyết định vị văn hóa để nhận diện và 
hiểu sâu giá trị 
Tài liệu tham khảo
1. Trần Thị An (2009), “Tìm hiểu sự hình 
thành truyền thuyết Tứ vị Thánh Nương 
(qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết 
dân gian và tục thờ cúng)”, Tạp chí 
Nghiên cứu văn học, số 2.
2. Trần Thị An (2016), “Truyền thuyết 
dân gian với việc kết nối các dạng thức 
không gian biển Việt Nam”, Tạp chí 
Nghiên cứu văn học, số 6.
3. Charles Wheeler (2006), “Re-Thinking 
the Sea in Vietnamese History: Littoral 
Society in the Integration of Thuận 
- Quảng, Seventeenth-Eighteenth 
Centuries” (Suy nghĩ lại về biển trong 
lịch sử Việt Nam: Xã hội duyên hải 
trong sự thống hợp của vùng Thuận - 
Quảng các thế kỷ XVII-XVIII), Journal 
of Southeast Asian Studies, 37 (1), 
p. 123-154, Ngô Bắc dịch.
4. Phan Huy Chú (1972), Lịch triều hiến 
chương loại chí, Tố Nguyên Nguyễn 
Thọ Dực dịch, Phủ Quốc vụ khanh đặc 
trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn, tr. 
175-176 .
5. Nguyễn Tiến Dũng (2010), “Về quan 
hệ của Đại Việt và Chân Lạp thế kỷ XI-
XVI”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 
11, tr. 39-56.
6. Nguyễn Văn Kim (2012), “Các thương 
cảng vùng Nghệ - Tĩnh và giao thương 
khu vực thế kỷ XI - XIV”, Nghiên cứu 
Lịch sử, số 12 (440)-2012, tr. 1-18; số 1 
(441)-2013, tr. 16-25.
7. Nguyễn Văn Kim (2014), “Biển Việt 
Nam trong các không gian biển Đông 
Nam Á”, Tạp chí Phát triển kinh tế - xã 
hội Đà Nẵng, số 59.
8. Li Tana (2006), “A View from Sea: 
Perspectives on the Northern and Central 
Vietnamese coast” (Một cách nhìn từ 
biển: bối cảnh vùng duyên hải miền Bắc 
và Trung Việt Nam), Journal of Southeast 
Asian Studies, National University of 
Singapore, Vol. 37 (1), 2006, pp. 83-102. 
Bản dịch tiếng Việt đăng Tạp chí Nghiên 
cứu Lịch sử, số 7/2009, tr. 14-28 và số 
8/2009, tr. 60-67.
9. The Anthropology of Space and Place: 
Locating Culture (Edited by Setha M. 
Low and Denise Lawrence-Zúñiga), 
Blackwell Publishing, 2003, Oxford, UK.

File đính kèm:

  • pdfnhung_lop_dap_boi_lich_su_va_van_hoa_tai_mot_cua_bien_nghien.pdf