Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh
Bài viết sử dụng các cách tiếp cận nhân học về không gian, nơi chốn và định
vị văn hóa để phân tích một trường hợp của cửa biển Việt Nam, cửa biển Kỳ Anh ở tỉnh
Hà Tĩnh, với giả thuyết là: vùng văn hóa (cultural area) có ý nghĩa quan trọng trong việc
nhận diện văn hóa của một phạm vi rộng lớn hơn nhưng nó chỉ cung cấp một cái nhìn
tĩnh tại (và có thể là định kiến); trong khi đó, không gian văn hóa (cultural space) chỉ ra
những đặc điểm của các phạm vi hẹp hơn nhưng vẫn mang tính định tính; và vì vậy, nơi
chốn văn hóa (cultural place) mới cung cấp một cái nhìn động tại địa điểm của các thực
hành văn hóa với tất cả nét riêng và những biến đổi qua dâu bể thời gian.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh
Những lớp đắp bồi lịch sử 23 Những lớp đắp bồi lịch sử và văn hóa tại một cửa biển: Nghiên cứu trường hợp cửa biển Kỳ Anh, Hà Tĩnh Trần Thị An(*) Tóm tắt: Bài viết sử dụng các cách tiếp cận nhân học về không gian, nơi chốn và định vị văn hóa để phân tích một trường hợp của cửa biển Việt Nam, cửa biển Kỳ Anh ở tỉnh Hà Tĩnh, với giả thuyết là: vùng văn hóa (cultural area) có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận diện văn hóa của một phạm vi rộng lớn hơn nhưng nó chỉ cung cấp một cái nhìn tĩnh tại (và có thể là định kiến); trong khi đó, không gian văn hóa (cultural space) chỉ ra những đặc điểm của các phạm vi hẹp hơn nhưng vẫn mang tính định tính; và vì vậy, nơi chốn văn hóa (cultural place) mới cung cấp một cái nhìn động tại địa điểm của các thực hành văn hóa với tất cả nét riêng và những biến đổi qua dâu bể thời gian. Từ khóa: Cửa biển, Vùng văn hóa, Không gian văn hóa, Kỳ Anh, Hà Tĩnh Abstract: The paper applies anthropological approaches to cultural space, place and positioning for a case study of Ky Anh estuary in Ha Tinh province on the assumption that while cultural area only provides a static (and probably prejudiced) viewpoint despite its signifi cance in identifying the culture on a broader scale, cultural space connotes narrower yet qualitative ones. Therefore, only cultural place can provide a dynamic insight of the location where cultural practices take place ecompassing all its distinctions and transformations over time. Keywords: Estuary, Cultural Area, Cultural Space, Ky Anh District, Ha Tinh Province 1. Không gian, nơi chốn và định vị văn hóa: Một số vấn đề lý thuyết1 Là một môi trường tồn tại, môi trường sống, môi trường sáng tạo và thực hành văn hóa, không gian là một vấn đề tối quan trọng đối với con người, vì thế, là vấn đề trung tâm của mọi ngành khoa học. Với nhân học, từ việc phân tích các chiều cạnh của không gian vật lý trong mối tương quan với sự kiến tạo các chiều kích không gian (*) PGS.TS., Đại học Quốc gia Hà Nội; Email: antran.vass@gmail.com tinh thần, các lý thuyết gia đã xác lập hẳn một hướng lý thuyết, đó là nhân học về không gian và nơi chốn (anthropology of space and place). Tương liên với hướng lý thuyết nhân học này, trong nghiên cứu văn hóa có một hướng lý thuyết về “định vị văn hóa” (locating culture), mà ở đó, các vấn đề về văn hóa vùng, không gian văn hóa và nơi chốn văn hóa đã được đề xuất, thảo luận và ứng dụng nghiên cứu. Trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, một nhóm nghiên cứu nhân học Hoa Kỳ nhận thấy nhân học đang vượt Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201924 khỏi giới hạn của nghiên cứu khu vực và thực tế phong phú đang thách thức các cách tiếp cận truyền thống và đòi hỏi những phân ngành chuyên sâu của nhân học. Chính vì thế, họ đã khởi xướng và truyền cảm hứng để tổ chức một loạt sách về một lĩnh vực nghiên cứu mới là: nhân học và không gian nơi chốn. Loạt sách gồm 4 cuốn: 1) Anthropology of Globalization: A Reader (Edited by Jonathan Xavier Inda and Renato Rosaldo), 2) The Anthropology of Media: A Reader (Edited by Kelly Askew and Richard R. Wilk), 3) Genocide: An Anthropological Reader (Edited by Alexander Laban Hinton), 4) The Anthropology of Space and Place: Locating Culture (Edited by Setha M. Low and Denise Lawrence-Zúñiga). Bốn cuốn này được Nhà xuất bản Blackwell của Đại học Oxford tài trợ xuất bản, cho nên loạt sách này được mang tên là Nhập môn nhân học Blackwell (Blackwell Readers in Anthropology). Bài viết điểm qua các hướng nghiên cứu về nhân học không gian, nơi chốn và định vị văn hóa được trình bày trong cuốn The Anthropology of Space and Place, Locating Culture1 do Setha M. Low (Chủ tịch Hội Nhân học Hoa Kỳ 2007-2009) và Denise Lawrence-Zúñiga biên tập. Trong cuốn sách này, các phạm vi không gian được đề cập gồm: a) địa lý nhân văn, b) lãnh thổ nhân văn, c) ứng xử mang tính không gian, d) không gian cá nhân, e) không gian mở, và g) không gian công cộng. Các phạm vi không gian văn hóa đã được lý thuyết hóa và được lược thuật gồm: a) các không gian liên quan đến sự hiện diện của thân thể - hay là sự chiếm lĩnh không gian liên quan đến con người từ phương diện thể chất (Embodied Spaces), b) các không gian 1 Blackwell Publishing, 2003, Oxford, UK. liên quan đến giới (Gendered Spaces), c) các không gian được định vị (Inscribed Spaces), d) các không gian đang được tranh luận (Contested Spaces), không gian xuyên quốc gia (Transnational Spaces), và e) chiến lược không gian (Spatial Tactics). Trong các chiều kích đa dạng của không gian từ cách tiếp cận nhân học và định vị văn hóa, bài viết chú ý đến sự gợi ý của các lý thuyết về một số phạm vi không gian gồm không gian địa lý và không gian nhân văn; một số hướng chiếm dụng không gian từ góc độ tồn tại thể chất của con người trong không gian gắn với ứng xử văn hóa hàng ngày (Embodied Spaces), từ góc độ xác định ý nghĩa cho không gian (Inscribed Spaces) và sự tranh chấp của các cộng đồng khác nhau về cùng một không gian để phục vụ cho lợi ích của mình (Contested Spaces); từ đó, áp dụng vào phân tích trường hợp mà chúng tôi lựa chọn. Đồng thời, bài viết cũng sử dụng quan điểm lý thuyết của Henri Lefèbvre về tính năng sản của không gian (trong The Production of Space2, một công trình cũng được xuất bản bởi Blackwell) cho rằng, không gian có tính năng sản trong sự linh hoạt của các bối cảnh nghiên cứu và thực hành xã hội. Sự đắp bồi các lớp ý nghĩa trong một phạm vi không gian mà chúng tôi khảo sát chính là sự thể hiện tính năng sản ý nghĩa không gian mà Henri Lefèbvre đề cập tới. 2. Sông đổ ra biển - vịnh nước sâu và không gian thương mại Cũng như các con sông khác ở Hà Tĩnh, sông ở Kỳ Anh đều là các con sông ngắn, lưu vực nhỏ và dòng chảy lớn. Sông Trí, sông Quyền hợp thành một dòng nơi 2 Henri Lefèbvre (1991), The Production of Space, Trans ... kết với Chăm pa, Chân Lạp... để tạo nên áp lực chính trị, quân sự từ phía Nam Đại Việt. Trong khoảng 4 thế kỷ, Nghệ - Tĩnh vừa là địa bàn tích hợp nhiều mâu thuẫn khu vực vừa là nơi hội tụ những nhân tố phát triển mới” (Nguyễn Văn Kim, 2012). Nằm dưới chân đèo Ngang, vùng đất/ vùng biển Kỳ Anh chắc chắn đã là tâm điểm của vùng chiến địa nhiều thế kỷ mà nguyên nhân và mục đích của các cuộc giao tranh là chiếm giữ lãnh thổ ngang với sự tranh giành lãnh hải - một yếu tố vô cùng quan trọng trong chính trị và thương mại thời bấy giờ, đặc biệt trong thời gian mà việc giao thương ở vịnh Bắc bộ có những trở ngại nhất định. Đồng thời, là cực Nam của Đại Việt trong một thời gian dài, vùng đất Kỳ Anh còn được xem như đại diện phía Nam của vùng đất chịu ảnh hưởng của Hán hóa, mà chỉ bước chân qua đèo Ngang thôi, là vùng đất của Chăm pa chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ, cũng là nơi trú ngụ của các cư dân tại chỗ và các dòng di dân từ miền Bắc vào (theo chỉ dụ của Vua Lý Nhân Tông năm 1075) và từ Bắc miền Trung (Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh) những thế kỷ về sau. Tính động của các dòng di dân và tính khác của cư dân Chăm pa ở phía Nam đèo Ngang đã tạo nên những nét khác biệt của vùng đất chịu ảnh hưởng của Hán ở phía Bắc đèo Ngang. Tính chất đặc biệt về mặt lịch sử của vùng đất này, cùng với nét đặc trưng địa lý, là các yếu tố mang tính quyết định để định vị văn hóa (locating culture) cho vùng cửa biển Kỳ Anh mà ở đó, việc xác định ý nghĩa cho không gian (inscribed spaces) dường như có ý nghĩa quan trọng để định hướng việc chiếm dụng không gian từ góc độ tồn tại thể chất của con người trong không gian gắn với ứng xử văn hóa hằng ngày (embodied spaces); tuy nhiên, tính động và tính lỏng của các lớp chồng lấn ý nghĩa văn hóa của không gian này cũng sẽ tạo nên sự tranh chấp của các cộng đồng khác nhau về cùng một không gian để phục vụ cho lợi ích của mình (contested spaces) mà chúng ta sẽ thấy rõ hơn khi mô tả đời sống cư dân vùng biển này từ góc độ một nơi chốn văn hóa (cultural place). 4. Đền thiêng nơi cửa bể - cột mốc văn hóa phía Nam Đại Việt Việc mô tả yếu tố địa lý, việc giới thiệu bối cảnh lịch sử vùng đất ở các phần viết trên gần như dẫn đến một mặc định là: ngay tại vùng ven biển Kỳ Anh này, tất yếu phải có một cột mốc văn hóa mang dấu ấn thể chế của chính quyền Đại Việt. Cột mốc đó, khá rõ ràng, là truyền thuyết/thư tịch/đền thờ/tục thờ một danh nhân (truyền thuyết hay chính sử mặc lòng) dân tộc. Nguyễn Thị Bích Châu, như ta đã biết, không phải là một nhân vật lịch sử xác thực. Tên bà không xuất hiện trong các bộ sử, dù là ở các bản đương thời hay các bản chép muộn màng sau này. Tên của bà chỉ xuất hiện trong thần tích (văn bản định hình các truyền thuyết dân gian hoặc/và quan điểm của người biên chép) và tác phẩm văn học đời sau (nơi các truyền thuyết dân gian được neo đậu và điểm tô thêm màu sắc). Thần tích cho biết tên tuổi, quê quán lai lịch, công trạng, vị thế lẫy lừng của nhân vật được thờ ở các di tích ven biển Kỳ Anh - Nguyễn Thị Bích Châu, cung phi Vua Trần Duệ Tông, người có công dâng “Kê minh thập sách”, người cùng nhà vua xông pha nơi chiến địa, ra vào sinh tử trong trận đánh Chiêm Thành cuối cùng của nhà Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201928 vua, và đã tử nạn trên lưng ngựa trong trận chiến này và được lập đền thờ ở cửa biển Kỳ Anh. Truyện Hải Khẩu linh từ trong tập Truyền kỳ tân phả của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1749)1 cho ta biết nhiều chi tiết ly kỳ hơn trong chuyến hải hành cuối cùng của cuộc đời Nguyễn Thị Bích Châu khi theo Vua Trần Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành; và cái chết của bà không phải là trên lưng ngựa mà là một sự hiến tế cho thần biển để dẹp đường cho chiến thuyền của nhà vua qua vùng sóng dữ ở cửa biển huyện Kỳ Hoa (nay là Kỳ Anh). Bài thơ Hà Hoa hải môn lữ thứ (Nghỉ lại ở cửa biển Hà Hoa2) trong tập Minh lương cẩm tú (được cho là của Vua Lê Thánh Tông sáng tác trong chuyến vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành năm 1470 dù vẫn còn tồn tại một số tranh cãi về văn bản học)3 lại cho thêm một tiếng nói khẳng định sự tồn tại của ngôi đền “rực rỡ cỏ hoa” thờ cung phi Nguyễn Thị Bích Châu (xem thêm Trần Thị An: 2013). Truyện Bích Châu du tiên mạn ký (Nàng Bích Châu đi chơi cõi tiên) được rút ra từ tập Gia phả của dòng họ Nguyễn Huy và được cho là của Nguyễn Huy Hổ4 1 Trần Nghĩa (chủ biên, 1977), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tập 1, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 342-358. 2 Theo Lịch triều hiến chương loại chí, Hà Hoa là tên phủ ở phía Nam Nghệ An, phủ này có 2 huyện là Thạch Hà và Kỳ Hoa (gồm Cẩm Xuyên và Kỳ Anh hiện nay). Bài thơ dùng địa danh Hà Hoa (tên phủ), nhưng chú thích của bài thơ lại dùng địa danh Kỳ Hoa (tên huyện). Đoàn Thị Điểm trong Truyền kỳ tân phả cũng dùng địa danh Kỳ Hoa (Phan Huy Chú, 1972). 3 Mai Xuân Hải (chủ biên, 1986), Thơ văn Lê Thánh Tông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 188-190. 4 Nguyễn Thạch Giang dịch và giới thiệu (1990), “Gia phả dòng họ Nguyễn Huy”, Tạp chí Hán Nôm, số 1, in lại trong: Nguyễn Huệ Chi (chủ biên, 1999), Truyện truyền kỳ Việt Nam, Tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 343-353. lại kể bà Bích Châu, một nàng tiên do đánh vỡ chén ngọc mà bị giáng trần làm cung phi của Vua Trần Anh Tông (1276-1320, ở ngôi: 1293-1320) và mất vào năm 1312, trên đường Vua Trần Anh Tông khải hoàn trong trận đánh Chiêm Thành năm 1311- 1312 (cũng là lúc nàng tiên hết hạn trần gian được gọi về trời). Người dân địa phương tin vào các sự kiện được kể trong truyền thuyết (bà Bích Châu là cung phi của Vua Trần Duệ Tông, bà viết “Kê minh thập sách”, bà cùng vua đi đánh giặc) và niên đại trong truyền thuyết (đền thờ bà được lập năm 1377, năm mà Trần Duệ Tông băng hà do tử nạn trong trận chiến). Niềm tin được tin là được dựa trên cớ sở của tiểu thuyết Truyền kỳ tân phả và được củng cố thêm vì bài Hà Hoa hải môn lữ thứ được coi là của Vua Lê Thánh Tông5. Chính quyền và người dân Kỳ Anh hàng năm tổ chức lễ hội đền thờ bà và căn cứ vào truyền thuyết, Ban Tổ chức lễ hội cho gói số lượng bánh chưng tương ứng với số năm xây dựng ngôi đền (1377). Không gian (space) biển của các chuyến hải hành của nhà vua đã được cụ thể hóa thành một nơi chốn (place) thờ vị thần phù hộ cho người đi biển (là nhà vua trong quá khứ và ngư dân hiện nay). Sự xác định ý nghĩa không gian ở đây là sự kết hợp giữa niềm tin của người dân và hướng định của chính quyền ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau. Đáng chú ý là ở Kỳ Anh có 2 ngôi đền thờ bà Nguyễn Thị Bích Châu (còn gọi là đền Bà Hải): một được dựng bên bờ dòng sông Vịnh (sông Cửa Khẩu, hợp lưu của sông Trí và sông Quyền); một ngôi khác được dựng ngay bên bờ biển, tại điểm cuối 5 Người dân không tin vào câu chuyện về bà Bích Châu được kể trong Bích Châu du tiên mạn ký có thể do xuất xứ thần tiên của nhân vật. Những lớp đắp bồi lịch sử 29 của mũi Dòn - chân của dãy núi Dòn ăn ra biển (cạnh cảng Sơn Dương, nơi có nhà máy Formosa hiện nay). Những người phụ trách việc thờ tự của hai ngôi đền đều khẳng định đền mình phụ trách mới là đền chính, mới là nơi có ngôi mộ của bà Bích Châu. Tâm lý mong muốn khẳng định tính chính danh của ngôi đền thờ dưới ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo cũng là một cách để thu hút đầu tư của chính quyền và sự tham gia của người đi lễ. Như vậy, việc thờ bà Bích Châu như một vị thần bảo trợ cho người đi biển (trong quá khứ) và như một vị Thánh Mẫu có quyền năng ban phát ân huệ cho muôn mặt đời thường hôm nay (cầu ngư, cầu an, cầu tài, cầu lộc, cầu danh, cầu tự, cầu duyên...) chính là nhu cầu tách con người khỏi không gian địa lý (embodied spaces), để trở thành một chủ nhân “ông” của không gian địa lý dẫu cho sự hàng phục và lệ thuộc sức mạnh thiên nhiên vẫn còn hiển lộ (cầu khấn vị nhiên thần - bà Hải - phù hộ cho cuộc sống của mình). Đồng thời, việc tranh chấp (contested spaces) tính chính danh cho ngôi đền thờ bà cho thấy dấu vết của các lớp văn hóa mà nhu cầu thờ tự và sự can dự của chính quyền bộc lộ rõ. Cần chú ý thêm một chi tiết là, không phải chỉ có Cửa Khẩu (Kỳ Anh) mới có đền thờ bà Bích Châu. Các vùng Cửa Nhượng, Cửa Sót, Cửa Lò đều có đền thờ bà, nhưng chỉ có Cửa Khẩu mới được coi là đền chính và hằng năm thu hút hàng chục vạn khách hành hương. Tại sao như vậy? Có thể nhìn thấy ở đây sự can thiệp của yếu tố địa lý tự nhiên, sự thuận lợi cho việc cập bến tàu thuyền, vùng vịnh kín để người đi biển có thể neo đậu tàu thuyền tránh bão, và sự can thiệp của chính quyền (ngày 03/8/1991, Bộ Văn hóa - Thông tin đã có Quyết định công nhận đền thờ Chế thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu là Di tích lịch sử và Danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia)... Như vậy, việc hình thành một nơi chốn văn hóa (cultural place) từ một không gian văn hóa (cultural space) chắc chắn là đã chịu sự ảnh hưởng đan chéo của nhiều yếu tố: địa lý tự nhiên, địa lý nhân văn, lịch sử, con người... rất cần bóc tách và giải mã để hiểu đúng về nó. Sự hình thành nơi chốn văn hóa (cultural place) và các vấn đề lý thuyết được đúc rút (embodied spaces, contested spaces) như trường hợp bài viết đang đề cập hoàn toàn cho thấy khía cạnh chính trị của vấn đề: việc thực hành văn hóa có liên quan mật thiết và có ý nghĩa khẳng định quyền lực của một thể chế và chủ quyền quốc gia, đặc biệt tại những vùng quan yếu. Việc tự động xây “miếu thờ” (tháng 6/2014)1 rồi “tháp biểu tượng tinh thần”2 dù bị yêu cầu dỡ3 và lại đề đạt một yêu cầu mới4 tại khu công nghiệp Formosa (tại cảng nước sâu Kỳ Anh) không nằm ngoài các vấn đề lý thuyết và thực tiễn đang bàn. 1 Đoàn Loan (2014), Đại biểu Quốc hội phản đối xây miếu trong Formosa Hà Tĩnh, Báo VnExpress, ngày 24/10/2014, https://vnexpress.net/thoi-su/dai- bieu-quoc-hoi-phan-doi-xay-mieu-trong-formosa- ha-tinh-3097895.html (truy cập ngày 05/10/2019) 2 Đức Hùng (2015), Formosa xin xây “tháp biểu tượng tinh thần kháng Pháp”, Báo VnExpress, ngày 10/12/2015, https://vnexpress.net/thoi-su/formosa -xay-thap-bieu-tuong-tinh-than-khang-Phap-3325 660.html (truy cập ngày 05/10/2019). 3 Đức Hùng (2015), Hà Tĩnh ra tối hậu thư cho ‘tháp biểu tượng tinh thần’ của Formosa, Báo Vnexpress, ngày 15/12/2015, https://vnexpress.net/ thoi-su/ha-tinh-ra-toi-hau-thu-cho-thap-bieu-tuong- tinh-than-cua-formosa-3328452.html (truy cập ngày 05/10/2019). 4 Đức Hùng (2016), Formosa xin xây nơi thờ phụng và tâm linh, Báo VnExpress, ngày 05/3/2016, https:// vnexpress.net/thoi-su/formosa-xin-xay-noi-tho- phung-va-tam-linh-3365020.html (truy cập ngày 05/10/2019). Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201930 Kết luận Các cửa biển Việt Nam với một phần lớn là các cửa sông đổ ra biển, với các đặc điểm địa lý riêng biệt của từng vùng miền, đã hình thành nên các nơi chốn mà các cộng đồng dân cư thực hành văn hóa của cộng đồng mình. Các lớp ý nghĩa của nơi chốn văn hóa mà bài viết đang bàn (xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh) luôn biến động và biến đổi theo sự biến động dân cư, bối cảnh lịch sử - kinh tế - xã hội, mang một số nét bản sắc của vùng văn hóa định hình (miền Trung), chịu ảnh hưởng sâu sắc của những đặc điểm định tính của không gian văn hóa biển gồm hợp thể các hoạt động, các niềm tin mang giá trị lịch sử quốc gia. Có thể nói, chính sự thực hành văn hóa của các cộng đồng cư dân nơi cửa sông- biển Kỳ Anh với tất cả sự sống động của nó mới kiến tạo nên một nơi chốn văn hóa thể hiện sự chiếm lĩnh không gian biển của người Việt từ nhiều phương diện (kinh tế, văn hóa, chủ quyền) trong một chiều sâu của lịch sử và thời gian. Nơi chốn văn hóa sinh động, nhộn nhịp thể hiện hơi thở của đời sống hằng ngày nằm trong và chịu ảnh hưởng của vùng văn hóa và không gian văn hóa mà để nghiên cứu nó, cần tới các lý thuyết nhân học về không gian/nơi chốn và lý thuyết định vị văn hóa để nhận diện và hiểu sâu giá trị Tài liệu tham khảo 1. Trần Thị An (2009), “Tìm hiểu sự hình thành truyền thuyết Tứ vị Thánh Nương (qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân gian và tục thờ cúng)”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2. 2. Trần Thị An (2016), “Truyền thuyết dân gian với việc kết nối các dạng thức không gian biển Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6. 3. Charles Wheeler (2006), “Re-Thinking the Sea in Vietnamese History: Littoral Society in the Integration of Thuận - Quảng, Seventeenth-Eighteenth Centuries” (Suy nghĩ lại về biển trong lịch sử Việt Nam: Xã hội duyên hải trong sự thống hợp của vùng Thuận - Quảng các thế kỷ XVII-XVIII), Journal of Southeast Asian Studies, 37 (1), p. 123-154, Ngô Bắc dịch. 4. Phan Huy Chú (1972), Lịch triều hiến chương loại chí, Tố Nguyên Nguyễn Thọ Dực dịch, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn, tr. 175-176 . 5. Nguyễn Tiến Dũng (2010), “Về quan hệ của Đại Việt và Chân Lạp thế kỷ XI- XVI”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 11, tr. 39-56. 6. Nguyễn Văn Kim (2012), “Các thương cảng vùng Nghệ - Tĩnh và giao thương khu vực thế kỷ XI - XIV”, Nghiên cứu Lịch sử, số 12 (440)-2012, tr. 1-18; số 1 (441)-2013, tr. 16-25. 7. Nguyễn Văn Kim (2014), “Biển Việt Nam trong các không gian biển Đông Nam Á”, Tạp chí Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng, số 59. 8. Li Tana (2006), “A View from Sea: Perspectives on the Northern and Central Vietnamese coast” (Một cách nhìn từ biển: bối cảnh vùng duyên hải miền Bắc và Trung Việt Nam), Journal of Southeast Asian Studies, National University of Singapore, Vol. 37 (1), 2006, pp. 83-102. Bản dịch tiếng Việt đăng Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7/2009, tr. 14-28 và số 8/2009, tr. 60-67. 9. The Anthropology of Space and Place: Locating Culture (Edited by Setha M. Low and Denise Lawrence-Zúñiga), Blackwell Publishing, 2003, Oxford, UK.
File đính kèm:
- nhung_lop_dap_boi_lich_su_va_van_hoa_tai_mot_cua_bien_nghien.pdf