Những khát vọng nhân văn trong Tập đoàn quân Kỵ binh của Isaac Babel
Isaac Babel là một nhà văn Nga Do Thái đặc biệt trong văn học Nga. Bản thân nhà văn và tác phẩm xuất sắc nhất của
ông Tập đoàn quân Kỵ binh đã thực sự trở thành một hiện tượng đáng kể trong văn học Nga và thế giới. Với Tập đoàn quân Kỵ
binh, nhà văn không chỉ giúp người đọc hiểu thêm về cuộc sống, quá trình chiến đấu cũng như phẩm chất, lý tưởng của những
chiến sỹ Hồng quân Codăc, mà còn giúp người đọc thấy được những giá trị nhân văn, nhân bản, những mong ước giản dị và cả
những khát vọng cao cả của con người, đặc biệt những người trí thức Do Thái trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt. Qua đó,
người đọc thêm trân trọng một cây bút tài năng và dũng cảm, cũng như có cái nhìn toàn diện hơn về một giai đoạn đầy biến động
của văn học Nga – Xô Viết. Với một góc nhìn tâm lý ít thấy khi tiếp cận các tác phẩm viết vềchiến tranh bài viết hy vọng sẽ làm nổi
bật được những vấn đề trên
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những khát vọng nhân văn trong Tập đoàn quân Kỵ binh của Isaac Babel
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603 https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.971 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 11, Số 1 (2021), 163-171 | 163 Cite this article as: Do, T. H. (2021). The humane aspirations in Isaac Babel’s Red Cavalry. UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, 11(1), 163-171. https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.971 NHỮNG KHÁT VỌNG NHÂN VĂN TRONG TẬP ĐOÀN QUÂN KỴ BINH CỦA ISAAC BABEL Đỗ Thị Hường Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Việt Nam Tác giả liên hệ: Đỗ Thị Hường - Email: huongvhnnvvh@gmail.com Ngày nhận bài: 29-5-2021; ngày nhận bài sửa: 14-6-2021; ngày duyệt đăng: 17-6-2021 Tóm tắt: Isaac Babel là một nhà văn Nga Do Thái đặc biệt trong văn học Nga. Bản thân nhà văn và tác phẩm xuất sắc nhất của ông Tập đoàn quân Kỵ binh đã thực sự trở thành một hiện tượng đáng kể trong văn học Nga và thế giới. Với Tập đoàn quân Kỵ binh, nhà văn không chỉ giúp người đọc hiểu thêm về cuộc sống, quá trình chiến đấu cũng như phẩm chất, lý tưởng của những chiến sỹ Hồng quân Codăc, mà còn giúp người đọc thấy được những giá trị nhân văn, nhân bản, những mong ước giản dị và cả những khát vọng cao cả của con người, đặc biệt những người trí thức Do Thái trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt. Qua đó, người đọc thêm trân trọng một cây bút tài năng và dũng cảm, cũng như có cái nhìn toàn diện hơn về một giai đoạn đầy biến động của văn học Nga – Xô Viết. Với một góc nhìn tâm lý ít thấy khi tiếp cận các tác phẩm viết vềchiến tranh bài viết hy vọng sẽ làm nổi bật được những vấn đề trên. Từ khóa: Isaac Babel; Tập đoàn quân Kỵ binh; khát vọng nhân văn; trí thức; Do Thái. 1. Mở đầu Văn học Nga nổi tiếng là một nền văn học lớn trên thế giới với sự xuất hiện của nhiều người khổng lồ có ảnh hưởng lớn lao tới văn hóa nhân loại. Văn học Nga cũng nổi tiếng với những vụ án văn chương hết sức khốc liệt trong lịch sử văn học thế giới. Có lẽ cũng bởi văn học Nga “hưởng ứng rất nhạy bén với các vấn đề xã hội” (Nguyen, 2002) cho nên nhiều nhà văn Nga và những đứa con tinh thần của họ phải chịu những số phận đầy thăng trầm. Chính M.Gorky đã từng viết: “Đời các nhà văn Nga rất dồi dào những tấn bi kịch” (Gorky, 1970). Có thể kể ra một danh sách dài “những người tuẫn nạn trong văn học Nga thế kỷ XX”: A.Platonov, B.Pasternak, M.Bulgakov, A.Solzhenitsyn, I.Brodsky Isaac Emmanuilovit Babel cũng là một người trong danh sách ấy. Ông là một nạn nhân của những vụ trấn áp văn chương những năm 30 - 40 của thế kỷ XX. Nói đến Babel người ta nói đến một nhà văn Nga gốc Do Thái đặc biệt và tài năng. Ngay khi mới xuất hiện trên văn đàn Babel đã được ca ngợi là “ngôi sao mới xuất hiện trong nền văn học chúng ta” (Freidin, 1990). Babel được biết đến trên văn đàn Nga và thế giới với tác phẩm Tập đoàn quân Kỵ binh. Ngay từ 1926, khi mới ra đời Tập đoàn quân Kỵ binh đã được dịch ra 20 thứ tiếng và Babel đã nổi tiếng rất xa bên ngoài biên giới Liên Xô. Nguyễn Hải Hà đã dẫn lời Erenburg trong Chuyện làng văn: “Quân đoàn kỵ binh (cách dịch của Nguyễn Hải Hà) của Babel chiếm được cảm tình của Maiacovsky, Esenin, A.Belưi, T.Mann và H.Barbusse, R.Rolland, và Bress cùng nhiều nhà văn lớn trên thế giới” (Nguyen, 2004). Giáo trình Lịch sử văn học Nga khen ngợi Tập đoàn quân Kỵ binh: “Tập truyện viết hấp dẫn, đậm đà (nồng như rượu mạnh, sặc sỡ như ngọc quý)” (Multiple authors, 2003). Với tập truyện này, tên tuổi của Babel được ca ngợi, nhưng cũng với tập truyện này, Babel bị kết án bởi nguyên soái Budionyi – Tư lệnh quân đoàn Kỵ binh số Một. Tập đoàn quân Kỵ binh là một tập truyện ngắn gồm 34 tác phẩm ghi lại cuộc sống và quá trình chiến đấu của những chiến sĩ kỵ binh Đỗ Thị Hường 164 Hồng quân trong cuộc chiến tranh khốc liệt giữa Liên Xô và Ba Lan 1920. Mặc dù là một tác phẩm viết về chiến tranh nhưng trong Tập đoàn quân Kỵ binh người đọc vẫn thấy sự xuất hiện của những nhân vật nghệ sĩ với thế giới của những tác phẩm nghệ thuật, những nhân vật tôn giáo với nhà thờ, giáo đường, những nhân vật triết gia Do Thái với những nghi lễ cổ truyền Chính sự tái hiện chân thực cuộc sống chiến đấu của cả các chiến sỹ Hồng quân lẫn những nạn nhân chiến tranh đã khiến Babel trở thành nạn nhân của tác phẩm của mình. Nhưng Gorky đã bênh vực Babel: “Babel tô đẹp các nhân vật của ông đạt hơn, thật hơn Gogol đã làm với những con người của vùng Daporozhe (các nhân vật trong Taras Bulba) Babel đã bổ xung tài tình khái niệm của tôi về chủ nghĩa anh hùng của quân đội đầu tiên trong lịch sử” “Babel là một hy vọng lớn của văn học Nga” (Babel, 2000). “Thời gian sẽ mài giũa những viên ngọc thật” (Nguyen, 2002), Babel đã được phục hồi danh dự và tên tuổi vào tháng 12/1954. Năm 1988, Tuyển tập Babel (2 tập), hồi ký của những nhà văn cùng thời viết về Babel được xuất bản ở Nga. Năm 2001, Toàn tập Babel (The Complete Work of Isaak Babel) được phổ biến rộng rãi ở phương Tây. Freidin khẳng định “Tập đoàn quân Kỵ binh – tác phẩm làm nên tên tuổi của Babel đã được tái bản 35 lần chỉ tính riêng ở Nga” (Freidin, 1990). “Không thể hình dung được hoàn chỉnh bức tranh văn học Nga nếu bỏ qua mảng văn học đã từng bị cấm đoán trước đây” (Dao, 2002) – nhà nghiên cứu Đào Tuấn Ảnh đã đưa ra nhận xét rất xác đáng. Ở Việt Nam, năm 2000 dịch giả Nguyễn Thụy Ứng đã cho công bố Tuyển tập I.Babel gồm ba tập truyện ngắn (Tập đoàn quân Kỵ binh, Truyện ngắn Odessa, Truyện ngắn) và hai vở kịch (Maria và Hoàng hôn). Trong số những tác phẩm của Babel được dịch và giới thiệu ở Việt Nam cho đến nay, Tập đoàn quân Kỵ binh là tác phẩm lớn nhất, xuất sắc nhất, thể hiện rõ nhất tài năng của nhà văn Nga Do Thái này. Nhà văn Erenburg đã viết: “Babel không giống ai và chẳng ai có thể giống Babel. Ông khác các tác giả khác không chỉ ở phong cách viết văn độc đáo mà còn ở ... ới nhân vật của Babel là một thế giới của những con người khắc khoải kiếm tìm: những chiến binh Hồng quân kiếm tìm danh dự và chiến công; người trí thức tham gia Cách mạng Liutov và Ilia kiếm tìm vị trí của mình trong quần chúng Cách mạng; người nghệ sĩ Apolech kiếm tìm những tác phẩm nghệ thuật đích thực; còn những nhân vật như Ghedali, Sidorov, Arghev và Sashka Conhaev lại là “những người lữ khách Nga” kiếm tìm một thành quốc tương lai - ở nơi ấy có sự bình yên tuyệt đối. Ghedali trong tác phẩm cùng tên là một triết gia Do Thái tiến bộ. Căm thù bọn Ba Lan độc ác tàn sát người Do Thái, cảm kích khi Cách mạng “đập chết bọn Ba Lan” nhưng cụ vẫn không hết băn khoăn về Cách mạng: “Nhưng bọn Ba Lan đã bắn vì chúng nó là phản Cách mạng. Các ngài bắn vì các ngài là Cách mạng. Nhưng Cách mạng lại là hân hoan hạnh phúc. Mà hân hoan hạnh phúc thì không thích trong nhà có trẻ mồ côi. Những việc tốt thì do con người tốt làm ra. Cách mạng là công việc tốt của những con người tốt. Song người tốt không giết người. Như vậy có nghĩa là Cách mạng đang do những con người độc ác làm. Nhưng bọn Ba Lan cũng là những con người độc ác. Vậy ai sẽ nói cho Ghedali biết đâu là Cách mạng và đâu là phản Cách mạng” (Babel, 2000). Trong suy nghĩ đơn giản của Ghedali bọn Ba Lan là xấu, Cách mạng là tốt; bắt người Do Thái và giứt râu người Do Thái là xấu, cứu người Do Thái là tốt; bắn giết là xấu, mang lại niềm vui và hân hoan là tốt; giết người là những kẻ độc ác, việc tốt do những người tốt làm ra Nhưng Ghedali đâu biết rằng trên cuộc đời này làm gì có cuộc Cách mạng nào là Cách mạng ngọt bùi, niềm vui và sự hân hoan có được phải đánh đổi bằng máu. Bọn Ba Lan nổ súng vì mục đích phi nghĩa còn Cách mạng nổ súng vì Cách mạng cần phải chống lại kẻ phi nghĩa bằng chính thứ vũ khí của chúng. Ngay Lênin cũng đã nói: “Những người xã hội không tưởng xưa kia tưởng tượng rằng chủ nghĩa xã hội có thể được xây dựng bởi những con người khác, rằng đầu tiên họ sẽ giáo dục những con người tốt đẹp, sạch sẽ, đã được huấn luyện thật tốt rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội với những con người ấy. Chúng ta bao giờ cũng cười họ và nói rằng đó là trò chơi búp bê, là trò đùa của các thiên kim tiểu thư về chủ nghĩa xã hội chứ không là chính trị nghiêm túc” (Babel, 2000). Tuy suy nghĩ của Ghedali có phần đơn giản và lệch lạc nhưng Babel tôn trọng tấm lòng của Ghedali – một người Do Thái đã nhiệt tình ủng hộ Cách mạng, trân trọng khát khao cháy bỏng của cụ về một thế giới đại đồng Nga – nơi ấy không còn máu chảy, không còn chiến tranh, nơi ấy chỉ có những người tốt. “Và chúng tôi muốn có Quốc tế của những người tốt, tôi muốn mỗi linh hồn đều được tính tới và được cấp cho một khẩu phần hạng nhất” (Babel, 2000). Khát vọng của Ghedali cũng là khát vọng của ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 163-171 169 Babel và tất cả những ai tham gia Cách mạng. Có điều triết gia Do Thái chỉ dừng lại ở khát vọng, ước mơ còn Babel và các chiến sĩ Hồng quân trong Tập đoàn quân Kỵ binh không chỉ biết ước mơ, không chỉ tin tưởng vào tương lai, họ đã đấu tranh cho tương lai. Cũng bởi thế cho nên Babel gọi Quốc tế của Ghedali là Quốc tế thứ Tư – cái quốc tế không thể nào có. Nếu như Ghedali mơ tới một Quốc tế của những người tốt thì anh lính Hồng quân Sidorov trong Mặt trời nước Ý lại khát khao được sang đất Ý. Với anh, nước Ý chính là miền đất hứa, là nơi chốn bình an tuyệt đối, là thế giới lý tưởng. Ở đó sẽ không có những cuộc hành binh đánh bọn phản Cách mạng, sẽ không có một Matxcơva thờ ơ với Tập đoàn quân, sẽ không có cả mặt trận, không có “Tập đoàn quân Kỵ binh và cuộc đời lính tráng nồng nặc mùi máu và xác chết” (Babel, 2000). Anh viết trong bức thư gửi cho người yêu: “Nước Ý đã thấm nhập vào tim anh như bùa yêu. Ý nghĩ về đất nước này, đất nước mà anh chưa nhìn thấy bao giờ, đối với anh nó ngọt ngào như cái tên của một người đàn bà, như tên em, Victoria” (Babel, 2000). Sidorov tự nhận mình là con người nhu nhược. Anh không chịu đựng nổi những sự thực khốc liệt của chiến tranh, nhất là sự thờ ơ của hậu phương và thái độ quan liêu của những viên chức ở Matxcova. Tuy còn nhiều dằn vặt, suy tư nhưng trong tâm hồn mệt mỏi của anh hình ảnh nước Ý cứ sáng lên, hấp dẫn anh, lôi cuốn anh, hứa hẹn với anh một cuộc sống bình yên. Anh muốn được sang nước Ý để trốn chạy tất cả dù không biết sẽ có điều gì chờ đón mình ở phía trước. Babel hiểu và thông cảm với khát vọng của Sidorov. Dù sao anh cũng là người dám sống thật với ước mơ của chính mình. Trợ tế Arghev trong Hai tay Ivan cũng là một kẻ trốn chạy. Là người sùng tín, tôn thờ Chúa Jesus và lý tưởng về một thế giới an lành, lương thiện Arghev không chấp nhận nổi những sự khốc liệt của chiến tranh. Hai lần bị đưa ra mặt trận, hai lần trốn chạy. Lần thứ ba bị đưa vào trung đoàn các phần tử xấu ở Matxcova, lại giả điếc để không phải ra mặt trận, cuối cùng điếc thật. Sự hèn nhát và nhu nhược của Arghev tuy đáng lên án, nhưng số phận của Arghev lại gây ra sự thương cảm trong lòng người đọc. Muốn đạt được sự bình yên, muốn có được một thế giới an lành người ta phải đấu tranh cho nó chứ không phải trốn chạy. Hạnh phúc thực sự chỉ có được khi người ta biết đạt lấy nó bằng chính khả năng của mình. Đó chính là chân lí rút ra từ những câu chuyện của Ghedali, Sidorov, Arghev. Viết về họ Babel không hề có thái độ mỉa mai, trái lại nhà văn tỏ ra hiểu và thông cảm với họ. Bởi họ không thể chấp nhận những gì “tạm thời, tương đối, ước lệ” (chữ của Berdiaev) của thời kỳ quá độ, họ mong muốn đạt ngay đến một thế giới lý tưởng. Babel đồng cảm với mong ước của họ, trân trọng tinh thần hướng thiện và khát vọng lưu giữ lòng tốt của con người, một trong những giá trị đạo đức ngàn đời của nhân loại, ở họ. Cũng ôm ấp khát vọng tình yêu thương, cũng từng mơ ước một thế giới chỉ có sự yên ả và thanh bình nhưng Sashka Conhaev không phải là người ảo tưởng như Ghedali, Sidorov hay Arghev. Sống ở bất cứ môi trường nào anh cũng sẵn sàng lắng nghe, thông cảm, chia sẻ nỗi buồn, sự tuyệt vọng của người khác; động viên, an ủi giúp đỡ họ vượt qua khó khăn. Bà con, đồng đội gọi anh là Sashka Chúa Cứu Thế. Cuộc sống lý tưởng trong mắt Sashka chính là cuộc sống của những người chăn bò chăn ngựa ở làng quê. Tuyệt vời làm sao khi được sống trên thảo nguyên mênh mông và tươi đẹp, chỉ có niềm vui của lao động hăng say và tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên: “Đất mang khí ẩm tháng tư. Nước xanh nhấp nhoáng như ngọc bích dưới những hố đen ngòm. Cỏ xanh rờn nhú lên trên mặt đất thành những đường thêu rắc rối. Và từ dưới đất bốc lên cái mùi chua chua như mùi ả vợ lính lúc trời rạng. Trên những nấm cuốc gan, những đàn gia súc đầu mùa đổ xuống bên dưới. Những con ngựa non tơ nô rỡn trong khoảng không mênh mông xanh lơ ở chân trời” (Babel, 2000). Chẳng thế mà Sashka kiên quyết từ chối công việc của một thợ mộc ở thị trấn để được sống giữa thảo nguyên yên ả, sống giữa đàn gia súc thân thuộc và bà con Côdăc yêu lao động. Ra mặt trận, tâm hồn Sashka vẫn không hề bị chai sạn đi bởi súng đạn, máu lửa, chiến tranh. Ở anh vẫn dạt dào dòng chảy của tình yêu thương. Vốn hát hay, Sashka đã dùng tiếng hát của mình để đưa sự yên bình, tình yêu, niềm thương nỗi nhớ, khát vọng, mơ ước trở lại thế giới tình cảm của những người chiến sĩ. Những giai điệu thắm thiết cổ xưa trong bài hát của anh đã làm sống dậy tình người, tưới tắm cho những mảnh đất tâm hồn đang khô hạn bởi chiến tranh. Chính “tôi” đã viết: “Các bài hát của anh cần cho chúng tôi, không ai biết chiến tranh bao giờ mới chấm dứt, mà Sashka Chúa Cứu Thế, ca sĩ của đại đội Đỗ Thị Hường 170 kỵ binh, còn chưa là một trái cây quá chín để rụng” (Babel, 2000). Sashka không chờ đợi hay trốn chạy, anh hành động vì mình và vì mọi người. Bởi thế có thể nói Sashka chính là hiện thân hoàn hảo nhất của khát vọng nhân văn nhân bản trong chiến tranh. Cũng xuất thân nông dân Sashka của Babel gợi nhớ Platon Karataev trong Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoy. Nếu như Platon Karataev chính là người đem lại ánh sáng chân lý cho Pie Bezukhov thì Sashka lại là người đem lại hơi ấm của tình người tới tất cả mọi nhân vật trong Tập đoàn quân Kỵ binh. Tuy có những nét tính cách khác nhau nhưng cả Ghedali, cả Sidorov, cả Arghev và đặc biệt là Sashka đều là những người có tâm hồn đẹp. Họ đã dám sống, dám khát vọng, dám mơ ước dù có lúc biết rằng mơ ước của mình là không tưởng. Họ cũng là những nhân vật nói lên tiếng nói thiết tha của tác giả về tình người, về vẻ đẹp của lòng tốt, lương tâm, sự đồng cảm. Trong chiến tranh khốc liệt, giữa một thế giới những chiến binh dễ gợi ra sự khắc khổ, khô khan những nhân vật mang khát vọng về tình yêu thương của Babel như đem đến một luồng sinh khí mới mềm mại hơn, lãng mạn hơn, nhân văn hơn cho tác phẩm. 3. Kết luận Như thế, Babel đã xây dựng nên trong Tập đoàn quân Kỵ binh một thế giới nhân vật khát vọng. Khát vọng hài hòa của Liutov, khát vọng tự do sáng tạo nghệ thuật của Apolech, khát vọng về một thế giới lý tưởng của Ghedali là gì nếu không phải là khát vọng đạt tới sự hoàn hảo trong con người? Tự đốt cháy mình, sống hết mình cho bản thân và những người khác, họ giống như nhân vật lãng mạn mang đầy màu sắc huyền thoại Danko của Gorky. Có điều Babel không lý tưởng hóa, thần thánh hóa những nhân vật của mình, nhà văn chỉ lý tưởng hóa khát vọng của họ, gieo vào trong tâm hồn họ khát vọng kiếm tìm cái đẹp tuyệt đối Bởi thế, họ thật hơn, gần gũi hơn với người đọc. “Trên đời này thật không có gì khó khăn hơn là viết những trang văn xuôi lương thiện, giản dị về con người” (Vuong, 1998), với Tập đoàn quân Kỵ binh và những nhân vật luôn khát khao những ước vọng nhân văn, Babel thực sự đã làm được công việc khó khăn ấy. Tài liệu tham khảo Babel, I. E. (2000). The collected stories (Tuyển tập) (T. U. Nguyen, Trans.). Culture and Information. Berdiaev, A. N. (2003). The Russian soul (Tâm hồn Nga) (T. L. Tu, Trans.). Journal of Foreign Literature, 6, 199–218. Dao, T. A. (2001). A look back at the Soviet Russian prose written about war (Nhìn lại văn xuôi Nga Xô Viết viết về chiến tranh). Journal of Writer, 5, 124–133. Dao, T. A. (2002). Critic Dao Tuan Anh: ‘I'm the person who knows...to quit’ (Nhà phê bình Đào Tuấn Ảnh: ‘Tôi là người biết... bỏ cuộc’). Vnexpress. https://vnexpress.net/nha-phe-binh- dao-tuan-anh-toi-la-nguoi-biet-bo-cuoc- 1875255.html. Freidin, G. (1990). Isaac Babel (1894—1940). Freidin, G. (2021). Isaac Babel. Encyclopedia Britannica. https://www.britannica.com/biography/Isaac- Babel. Gorky, M. (1970). Gorky's discussions of literature (Gorky bàn về văn học). Literature. Hoang, T. X. (1999). The ten biggest religions in the world (Mười tôn giáo lớn trên thế giới). National Politicics. Huu, N. (1982). The dictionary of foreign writers and playwrights (Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước ngoài). Culture. Le, D. T. (1999). A few characteristics of Russian- Soviet short stories (Mấy đặc điểm truyện ngắn Nga – Xô Viết). Journal of Military Arts, 4, 110– 112. Multiple authors. (2003). The history of Russian literature (Lịch sử văn học Nga). Education. Nguyen, C. (1993). The Jewish folk legends (Những truyền thuyết dân gian Do Thái). Culture. Nguyen, H. D. (1963). Literature, arts and politics in the Soviet Union (Văn nghệ với chánh trị tại Liên Xô). Encyclopedia, 159+160, 57–61 & 21–26. Nguyen, H. H. (2002). Russian literature, truth and beauty (Văn học Nga sự thật và cái đẹp). Education. Nguyen, H. H. (2004). Tragic/Miserable life (Cuộc đời sóng gió bi thảm). Printed in Stories of Vietnamese and world literature. Education. ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 163-171 171 Pautovsky, K., & Phan, H. G. (2004). Some words about Babel (Mấy lời về Babel). Printed in Alone with the autumn. Culture and Information. Prokhorov, A. M. (n.d.). The Soviet commander Budionyi (Будённый Семён Михайлович) (Vol. 30). The Soviet Encyclopedia. About the relationship between the intellectuals and ordinary people in "Red Calvary" by I. E. Babel” (Проблема взаимоотношений интеллигенции и народа в “Конармии” И.Э.Бабеля). (n.d.). https://www.elibrary.ru/item.asp?id=36820773. Vuong, T. N. (1998). The diary of short stories (Sổ tay truyện ngắn). Vietnam Writers' Association. THE HUMANE ASPIRATIONS IN ISAAC BABEL’S RED CAVALRY Do Thi Huong Vietnam Institute of Literature, Vietnam Academy of Social Sciences, Vietnam Author corresponding: Do Thi Huong - Email: huongvhnnvvh@gmail.com Article History: Received on 29th May 2021; Revised on 14th June 2021; Published on 17th June 2021 Abstract: Isaac Babel is an exceptional Russian-Jewish writer of Russian literature. The writer himself and his best work Red Cavalry have truly become a remarkable phenomenon in Russian and world literature. Through Red Cavalry, Babel not only helps readers understand more about the life, the fighting process as well as the virtues and the ideal of the Red Army Cossack soldiers, but also allows them to see the human values, human nature, simple wishes and noble aspirations of people, especially the Jewish intellectuals in violent war situations. His readers, therefore, pay even more respect for this talented and brave writer, and at the same time, earn a more comprehensive view of a highly turbulent period of the Russian-Soviet literature. With an uncommon psychological view used in approaching the works written about war, this article hopes to highlight the issues mentioned above. Key words: Isaac Babel; Red Cavalry; humane aspiration; intellectual; Jew.
File đính kèm:
- nhung_khat_vong_nhan_van_trong_tap_doan_quan_ky_binh_cua_isa.pdf