Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ

Giới nghiên cứu và phê bình văn học ngày nay đã xác nhận hiện tượng mơ hồ

đa nghĩa như là một đặc tính hữu cơ của văn học nói chung và của ngôn ngữ thơ ca nói

riêng. Tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ là hiện tượng ngôn từ mang nhiều giá trị,

nhiều ý nghĩa không xác định, thiếu minh xác, cho phép người đọc giải thích theo nhiều

cách khác nhau với những liên tưởng và giả định thẩm mỹ khác nhau. Cơ sở hình thành

của hiện tượng này là một quá trình bị chi phối bởi các yếu tố: từ quá trình tư duy nghệ

thuật đến quá trình phản ánh, kết tinh thành ngôn từ nghệ thuật nhằm thỏa mãn đặc

trưng bản chất của nghệ thuật thơ ca để từ đó tác phẩm đi vào thế giới tiếp nhận của

người đọc. Con đường khám phá và sáng tạo cái đẹp khiến cho ngôn từ thơ ca không

ngừng được hoàn thiện, ngày càng mơ hồ, lung linh, đa sắc với trường ngữ nghĩa được

mở ra vô tận

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ trang 1

Trang 1

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ trang 2

Trang 2

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ trang 3

Trang 3

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ trang 4

Trang 4

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ trang 5

Trang 5

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ trang 6

Trang 6

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ trang 7

Trang 7

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ trang 8

Trang 8

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ trang 9

Trang 9

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang minhkhanh 9980
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ

Ngôn ngữ học - Cơ sở hình th0nh tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 21 
CƠ SỞ HÌNH TH0NH TÍNH MƠ HỒ ĐA NGHĨA 
TRONG NGÔN NGỮ THƠ 
Nguyễn Hồng Hạnh1 
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội 
Tóm tắt: Giới nghiên cứu và phê bình văn học ngày nay đã xác nhận hiện tượng mơ hồ 
đa nghĩa như là một đặc tính hữu cơ của văn học nói chung và của ngôn ngữ thơ ca nói 
riêng. Tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ là hiện tượng ngôn từ mang nhiều giá trị, 
nhiều ý nghĩa không xác định, thiếu minh xác, cho phép người đọc giải thích theo nhiều 
cách khác nhau với những liên tưởng và giả định thẩm mỹ khác nhau. Cơ sở hình thành 
của hiện tượng này là một quá trình bị chi phối bởi các yếu tố: từ quá trình tư duy nghệ 
thuật đến quá trình phản ánh, kết tinh thành ngôn từ nghệ thuật nhằm thỏa mãn đặc 
trưng bản chất của nghệ thuật thơ ca để từ đó tác phẩm đi vào thế giới tiếp nhận của 
người đọc. Con đường khám phá và sáng tạo cái đẹp khiến cho ngôn từ thơ ca không 
ngừng được hoàn thiện, ngày càng mơ hồ, lung linh, đa sắc với trường ngữ nghĩa được 
mở ra vô tận. 
Từ khóa: mơ hồ, đa nghĩa, nghệ thuật thơ ca... 
1. MỞ ĐẦU 
Trong thực tế đời sống văn học nước ta những năm gần đây, việc hiểu, cắt nghĩa và 
đánh giá khác nhau đối với các tác phẩm văn học đặc biệt là với thơ ca đã và đang trở 
thành một hiện tượng thời sự. Trên bình diện lý thuyết, người ta cũng đã bắt đầu nói nhiều 
đến vấn đề tính đa nghĩa, mơ hồ của tác phẩm văn chương. Mặc dù chỗ này hay chỗ khác 
vẫn còn có những ý kiến chưa đồng tình, nhưng nhìn chung, phần lớn giới nghiên cứu và 
phê bình văn học ngày nay đã xác nhận hiện tượng mơ hồ đa nghĩa như là một đặc tính hữu 
cơ của nghệ thuật nói chung và của văn học nói riêng. Nó xuất hiện khi một kí hiệu hay 
một hình tượng, trong cùng một lúc, một ngữ cảnh, có nhiều cách giải thích khác nhau, tạo 
nên sự hấp dẫn, khơi gợi sự chú ý, tồn tại lâu dài. Sự xác nhận này đồng nghĩa với việc phủ 
nhận chủ nghĩa duy thực trong văn học, nếu nghệ thuật mà giản đơn, thật thà, đọc đoạn đầu 
biết ngay đoạn kết thì tác phẩm còn được mấy phần hứng thú? 
1 Nhận bài ngày 06.07.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 20.08.2016 
Liên hệ tác giả: Nguyễn Hồng Hạnh; Email: nhhanh@daihocthudo.edu.vn 
22 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI 
2. NỘI DUNG 
2.1. Lịch sử hình thành khái niệm 
Thực ra, tính mơ hồ, đa nghĩa của các hình tượng và tác phẩm nghệ thuật đã được 
nhận biết từ lâu trong lịch sử nghệ thuật của thế giới. Các nghệ sĩ bậc thầy trong quá khứ 
đã nhiều lần lưu ý đến tính chất mơ hồ, đa nghĩa đầy thú vị của văn chương và nghệ thuật 
trong sự tiếp nhận của người đọc, người nghe, người thưởng thức. L. Tolstoy thích nhắc 
đến câu châm ngôn nổi tiếng: “Những cuốn sách có số phận của riêng mình trong đầu bạn 
đọc”. Còn Anatole France thì khẳng định một cách chắc chắn rằng: “... không một câu thơ 
nào của Iliade và Thần khúc trong cách hiểu của chúng ta lại còn giữ nguyên được cái ý 
nghĩa mà thoạt đầu người ta gán cho nó” [1]. 
Trong lịch sử mỹ học, tính đa nghĩa cũng được ý thức từ rất sớm ở cả phương Đông 
lẫn phương Tây. Ở phương Tây, có lẽ I. Kant – nhà triết học và mỹ học cổ điển Đức – là 
người đầu tiên nêu ra ý tưởng về tính đa nghĩa của các hình tượng và biểu tượng nghệ thuật 
mà ông gọi là các “ý niệm thẩm mỹ”. Còn ở phương Đông, người xưa cũng đã không ít lần 
nói đến cái bản chất hàm súc, thâm diệu của văn chương và cùng với đó là sự phức tạp, đa 
dạng của hoạt động tiếp nhận nơi người đọc. Lưu Hiệp – nhà lý luận kiệt xuất của Trung 
Hoa cổ đại – cho rằng: “Tác phẩm văn chương sở dĩ phức tạp là vì nội dung và hình thức 
đều đa dạng, (...). Mỗi người đều chỉ giải thích theo một khía, lấy nó để tìm hiểu [văn 
chương là] cái biến đổi vạn nơi” [2]. 
Đối với nghiên cứu và phê bình văn học hiện đại thế giới, mặc dù đã được đề cập đến 
ít nhiều từ trước đó, nhưng phải đợi đến sự xuất hiện của công trình Bảy loại mơ hồ đa 
nghĩa (Seven types of Ambiguity – 1930) của nhà Phê bình Mới William Empson, tính đa 
nghĩa mới được chú ý quan tâm một cách rộng rãi ở phương Tây như là một trong những 
đặc trưng cốt yếu của văn học, đặc biệt là của thơ ca. 
Như vậy, khái niệm mơ hồ hóa trong văn học đã được bàn đến từ rất lâu bởi nó là 
thuộc tính thú vị của nghệ thuật ngôn từ. Dựa trên quan điểm của các nhà nghiên cứu đi 
trước, chúng ta có thể rút ra một quan niệm về mơ hồ hóa ngôn từ như sau: Ngôn từ mơ hồ 
hóa là ngôn từ mang nhiều giá trị, nhiều ý nghĩa không xác định, thiếu minh xác, cho phép 
người đọc giải thích theo nhiều cách khác nhau với những liên tưởng và giả định thẩm mỹ 
khác nhau. 
2.2. Cơ sở hình thành tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ 
2.2.1. Bản chất của tư duy nghệ thuật 
Văn học là sự phản ánh thế giới khách quan qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. 
Đó là quá trình người nghệ sĩ tiếp xúc với cuộc sống, nảy sinh cảm xúc, vật chất hóa cảm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 23 
xúc bằng hệ thống ngôn từ biểu đạt các ý niệm và tình cảm đó. Văn học phản ánh thực tại 
cuộc sống trong tính tổng thể bao la, trong chiều sâu thăm thẳm, trong khả năng biến đổi 
thường xuyên, trong sự vận động không ngừng, trong bản chất tinh thần phong phú, đầy 
bất ngờ, bí ẩn. Để có thể làm được điều này, người nghệ sĩ cần một tư duy nghệ thuật chủ 
động, sáng tạo. Mục đích của tư duy nghệ thuật là nhận thức, chiếm lĩnh đời sống, phản 
ánh đời sống bằng hình tượng nghệ thuật. Đặc trưng bản chất của tư duy nghệ thuật là tính 
mơ hồ, không xác định. 
Tư duy nghệ thuật tồn tại trên hai dạng thức cơ bản: tư duy hình tượng, cảm tính và tư 
duy tổng hợp, biện chứng. 
Tư duy hình tượng, cảm tính là cơ sở của tư duy nghệ thuật. Loại tư duy này làm sống 
lại trong trí nhớ hình ảnh đối tượng dựa trên sự tiếp xúc của tác giả cũng như người đọc 
với đối tượng. Khi tái tạo sự vật trong ý thức, tư duy hình tượng không chụp ảnh một cách 
máy móc mà còn bao hàm tình cảm, thái độ của con người với chính đối tượng đó. 
Bản thân hình tượng nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính 
chủ quan c ... ất trời. Thơ Xuân Diệu cũng vậy, có nhiểu kiểu kết hợp lạ đến 
nỗi, mới đầu người ta kêu thơ ông là Tây quá, cầu kỳ quá, ví như: “Chiều mộng hòa thơ 
trên nhánh duyên / Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” (Thơ duyên) hay “Gió lướt thướt 
kéo mình qua cỏ rối / Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành” (Tương tư chiều). Những cụm 
từ “chiều mộng”, “nhánh duyên”, “tiếng huyền”, “gió lướt thướt”, “miếng đêm”... khiến 
cho câu thơ có sức biểu đạt lớn, gây ấn tượng và gợi liên tưởng trong người đọc. 
Có thể thấy, một từ chỉ cần liên kết với một từ khác nó đã thành mơ hồ, phát sinh ý 
nghĩa. Nhìn nắng, nhà thơ không sợ nhức đầu hay đen da mà lại thấy “nắng thuỷ tinh”, 
“vàng bay trong nắng”, “đất thêu nắng”, “nắng lạnh”; nhìn buổi chiều, nhà thơ thấy 
“chiều lỡ thì”, “chiều mồ côi”; nhìn sương, nhà thơ thấy “sương trinh”, “sương âu yếm”; 
nhìn mưa, nhà thơ thấy “mưa ái phi”, “mưa sàng sứ”, “mưa hoa nhài”. Khi lựa chọn 
những nắng, chiều, sương, mưa để kết hợp với các từ khác thì bỗng nhiên tính xác thực của 
ngôn ngữ bị phá vỡ, không còn nét nghĩa “nhất thành bất biến nữa”. Một “thực tại” mới đã 
hiện ra. 
 Ở cấp độ câu, những câu thơ lược chủ thể, đánh tráo quan hệ cú pháp, cách kết hợp 
từ ngữ, sử dụng quan hệ đối vị của ngôn ngữ, cách ngắt nhịp thơ, phá vỡ kết cấu câu thơ, 
bài thơ... tất cả là cơ sở hình thành tính mơ hồ. 
Bản thân ngôn ngữ đã là một hệ thống kí hiệu, tín hiệu võ đoán, mơ hồ. Tính mơ hồ 
được tăng lên bội số khi người nghệ sĩ lựa chọn từ ngữ trong tiếng nói hàng ngày, sắp xếp 
chúng cạnh nhau, gia giảm thêm các biện pháp tạo nghĩa, nhào nặn, biến hóa thành câu 
thơ, bài thơ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 27 
2.2.3. Bản chất của thơ ca 
Nếu văn học thông thường đã là “nghệ thuật ngôn từ” thì thơ ca, xét riêng về khía cạnh 
từ ngữ, phải là thứ nghệ thuật của “siêu ngôn từ”. “Mỗi bài thơ hay là một định nghĩa cho 
thơ. Mỗi tiếng thơ là một “con kỳ nhông” đứng chỗ này thì màu xanh, đứng chỗ kia thì 
màu nâu hoặc vàng úa. Thơ là một thể loại kỳ ảo” [8]. Chính tính mơ hồ đa nghĩa của ngôn 
ngữ thơ ca đã tạo cho nó cái tính biến ảo, kì ảo đó. 
Về phương diện nội dung, thơ là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt. Hegel viết: “Đối 
tượng của thơ không phải là những biểu hiện bên ngoài mà là những hứng thú tinh thần, 
thế giới cảm xúc phong phú, phức tạp, khó nắm bắt của con người” [5]. Cũng chính bởi thơ 
phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm nên có thể khó nhận biết ngay một 
bài thơ hay. Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, liên tưởng ta mới nhận ra thứ ánh sáng, màu sắc, 
hương thơm man mác bên trong hình tượng thơ. Vì thế nhà thơ Hoàng Đức Lương đã đề 
cao nàng thơ: “Thơ là sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở ngoài vị, không thể trông bằng mắt 
thường được” [5]. 
Thơ không những giàu cảm xúc mà còn giàu hình ảnh. Thơ không là thực tại đơn 
thuần, không là tổng số những hình ảnh được xác định một cách rõ ràng. Thơ là thế giới 
của những hình ảnh phi vật chất được xây dựng bằng ngôn ngữ mang tính mơ hồ, có giá trị 
biểu cảm cao, tạo hiệu ứng nghệ thuật, thể hiện tư tưởng, tinh thần, cá tính sáng tạo của 
người nghệ sĩ. 
Xây dựng bằng chất liệu mang tính võ đoán, nội chỉ, hình ảnh trong thơ không thể 
cầm, nắm, nhìn trực tiếp mà chỉ có thể cảm thấy. “Thơ là nghệ thuật kì diệu bậc nhất của 
trí tưởng tượng”, để bước vào khám phá thế giới hình ảnh hư ảo của thơ, người đọc phải 
vận dụng liên tưởng và tưởng tượng rất nhiều để giải mã hình tượng như Trường Chinh 
viết. Đọc bài “Át cơ” trong tập Bóng chữ của Lê Đạt, người đọc phải rất nỗ lực tưởng 
tượng, liên tưởng để giải mã hình ảnh cũng như cảm xúc thơ: “Anh trở về địa chỉ tuổi thơ – 
Nhà số lẻ / phố trò chơi bỏ dở - Mộng anh hường / tim em môi bói đỏ - Giàn trầu già / 
khua những át cơ rơi...”. Hình ảnh lá trầu quả cau rất quen thuộc trong đời sống văn hóa 
của người dân Việt Nam xưa nay, cả trong văn chương lẫn đời sống. Nói đến trầu cau, 
người ta nghĩ ngay đến chuyện nhân duyên, đến sự gắn bó trong tình yêu đôi lứa (Miếng 
trầu nên dâu nhà người – Tục ngữ; Nhà em có một giàn trầu / Nhà anh có một hàng cau 
liên phòng – Nguyễn Bính...). Nhưng trong bài “Át cơ”, hình ảnh lá trầu xuất hiện qua cái 
nhìn rất độc đáo, hiện đại của Lê Đạt: lá trầu được so sánh với những con át cơ trong bộ 
bài Tây. Cách ví von này kết hợp với những từ “trò chơi”, “mộng”, “bói”, “anh”, “em” 
ở những câu trên khiến người đọc liên tưởng đến một trò chơi của lớp trẻ hiện đại: bói 
duyên tú cầu. Theo kinh nghiệm phân tích thơ dựa trên chính văn bản thơ của nhà nghiên 
28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI 
cứu Nga B. Gasparov, chúng ta thấy những từ: lẻ, bỏ dở, rơi... nằm trong cùng một hệ 
thống biểu đạt cho sự dở dang, hao hụt. Từ hệ thống từ ngữ đó, ta có thể “đọc” được theo 
cách của mình ý nghĩa hình ảnh: “Giàn trầu già / khua / những át cơ rơi...” biểu hiện cho 
sự rơi rụng, trôi mất của những cơ may tình duyên thuở nhỏ. Lối viết xuống dòng kiểu bậc 
thang cộng với dấu chấm lửng của câu kết góp phần đắc lực thể hiện tâm trạng khắc khoải, 
thất vọng của nhân vật trữ tình. 
Thơ là thể loại “ý tại ngôn ngoại”. Việc kiệm lời, kiệm chữ là một yêu cầu tối quan 
trọng đối với nhà thơ. “Thơ cốt ở ý, ý cốt sâu thì thơ mới hay... Không phải bất cứ điều gì 
nói ra bằng lời thì mới là thơ có giá trị.Ý hết mà lời dừng là cái lời hết mực, song lời dừng 
mà ý chưa hết thì lại càng tuyệt hay” [5]. Chính vì vậy, Chế Lan Viên đã ví nhà thơ như 
người thợ làm muối lành nghề “những người thợ ấy vào trong cái bể bao la vô tận của quần 
chúng, tìm thấy cái đẹp vĩ đại của ngôn ngữ đang hòa tan trong ấy để cấu tạo nên ngôn ngữ 
thơ” [8]. V. Maiakovsky đã ví quá trình sáng tạo ngôn ngữ thơ ca cũng “giống như người 
lọc quặng radium: Lấy một gam phải mất một năm lao động, lấy một chữ phải lọc hàng tấn 
quặng ngôn từ, nhưng trong hàng chục năm dài những chữ ấy sẽ làm rung động hàng triệu 
trái tim” [3]. Tản Đà đã suy nghĩ rất nhiều khi chọn từ “khô” để đưa vào câu thơ: “Non 
cao những ngóng cùng trông / Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày” (Thề non nước). 
Giả sử thay từ “khô” bằng “tuôn” hay “trôi”, không biết “Thề non nước” sẽ sống được bao 
nhiêu cùng năm tháng?... Tính hàm súc của ngôn từ trong thơ, như thế, đã biểu đạt các nét 
nghĩa rộng mở hơn, gợi nhiều liên tưởng hơn bản thân giá trị biểu đạt tự thân của mỗi từ 
ngữ riêng lẻ. 
Chất thơ cũng được xem là một trong những đặc trưng bản chất làm nên tính mơ hồ 
của thơ. Nhà phê bình Trung Quốc đời Thanh là Diệp Tiếp trong sách Nguyên thi nói: “Cái 
lý có thể nói, ai cũng nói được, có những việc không thể kể, khi gặp thì chỉ hiểu ngầm qua 
hình dáng có ý nghĩa, mà lý và việc cũng đã dường như thế” [5]. Đó chính là cái chất thơ 
của đời sống. Ví dụ chất thơ trong bài Nguyệt cầm của Xuân Diệu: 
 “Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh 
 Trăng thương, trăng nhớ hỡi trăng ngần 
 Đàn vui, đàn lạnh ôi đàn chậm, 
 Mỗi giọt rơi tan như lệ ngân...” 
Ngôn ngữ thơ không phải ngôn từ tuyến tính mà là phức hợp. Nhà thơ cùng một lúc 
nói về trăng, đàn, cảm xúc cơ thể của chính mình. Chữ và lời thơ có thể khó hiểu, không 
tuân theo logic. Nhưng khi thả hồn theo cảm xúc, ta cảm nhận mỗi âm thanh buông ra vừa 
như ánh sáng, vừa như nước mắt ngân vang, vừa như rung động thân thể. Chất thơ toát ra 
từ đó, điều mà ta chỉ có thể cảm nhận được qua khoảng trống giữa các chữ, rất mơ hồ. Nhà 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 29 
thơ Tố Hữu cũng nói: “Thơ là cái đó: sự im lặng giữa các từ. Nếu người ta lắng nghe cái 
im lặng đó thì có những tiếng dội vang rất đa dạng và tinh tế. Thơ phải chăng là điều ấy, 
mơ ở trong thực, cái vô hình trong cái hữu hình, những màu sắc trong màu trắng. Điều đó 
người ta gọi là sự tinh diệu của ngôn ngữ và tâm hồn” [5]. 
Cái ý nghĩa có tính thơ là ý nghĩa ngoài lời, ngoài hình ảnh, do chính lời và hình ảnh 
gợi lên nhưng không phải ai cũng cảm được, và nếu đã cảm được rồi thì không phải ai 
cũng chung một đáp số giống nhau, mà mỗi người hiểu một cách. Vì vậy mới nói, bài thơ 
là một thực thể kì ảo, mơ hồ từ hình thức đến nội dung. 
Chữ và nghĩa trong ngôn ngữ thơ ca hòa quyện như xác với hồn, như hình với bóng. 
Thơ không phải là một mớ lý thuyết mà là một thực thể ngôn ngữ. Và phải chăng thơ ca 
ám ảnh người đọc cũng vì vẻ đẹp toát ra từ thực thể ngôn ngữ ấy. Ngôn ngữ thơ bao giờ 
cũng là hóa công của người nghệ sĩ. Mỗi chữ trong thơ đều là sự vang vọng từ tâm hồn thi 
nhân: “Thực chất của thơ là cái linh hồn, là sự sống của những chữ ta dùng. Làm văn xuôi, 
chữ không có đủ sức mạnh ma quái như vậy (...), thi nhân là một thần linh nói một thứ chữ 
riêng mà thế nhân phải diễn tả dài dòng thô lậu” [3, tr.6]. 
Có thể thấy, những thuộc tính đặc trưng của thơ như giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, tính 
hàm súc, chất thơ... tất cả đã làm nên sự lung linh, mơ hồ cho ngôn ngữ thơ. 
2.2.4. Bản chất của quá trình tiếp nhận 
Tác phẩm thơ ca là đứa con tinh thần của nhà thơ. Nhờ hoạt động tích cực của các 
năng lực tư duy, bằng vốn hiểu biết và những tri thức sẵn có, tác giả bước chân vào quá 
trình lao động ngôn từ, dùng ngôn ngữ làm chất liệu, tổ chức sắp xếp, tìm kiếm các phương 
diện biểu hiện, liên kết để xây dựng nên một thực thể sinh động – bài thơ (trực tiếp và gián 
tiếp phản ánh quan niệm về thế giới). Bản thân bài thơ là một cấu trúc mở, mơ hồ, đa tầng 
ý nghĩa, chứa đựng nhiều “điểm không xác định” (R.Ingarden), một “mã nghệ thuật” 
(M.Markov). Từ đây, tác phẩm bước vào cuộc phiêu lưu đầy thú vị trong sự tiếp nhận của 
người đọc, bất chấp ý muốn, vượt ngoài tầm, kiểm soát của tác giả. 
Theo R. Jakobson “có sự khác biệt giữa mã của người phát ngôn và mã của người tiếp 
nhận...”. Sự “đọc” của độc giả dao động giữa kiến tạo và phá vỡ, tổ chức và tái tổ chức 
những dữ liệu được văn bản cung cấp. Người đọc với những hiểu biết về văn hóa vốn có ở 
trên cơ sở liên kết tri thức về mã văn hóa với người sáng tạo sẽ làm sống dậy sản phẩm tinh 
thần của nhà văn. Trường hợp người tiếp nhận theo phương án “thử và sai” cố gắng tìm ra 
mã mới lạ thì thường xảy ra tình trạng ngộ nhận mã của tác giả, làm biến đổi nghĩa của 
ngôn từ thơ. Cứ như vậy, qua sự tiếp nhận khác nhau của người đọc tính mơ hồ của ngôn 
ngữ thơ được nhân lên rất nhiều. 
30 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI 
Trong giao tiếp thông thường, độ dư của ngôn ngữ đảm bảo cho người tiếp nhận dễ 
dàng nắm bắt ý nghĩa. Trong nghệ thuật thơ ca, ngôn ngữ được lựa chọn, tổ chức chặt chẽ, 
đòi hỏi phải đọc nhiều lần. Mỗi lần đọc, người tiếp nhận sẽ tái sáng tạo ngôn ngữ 
(recreation). Dựa trên vốn kinh nghiệm đã có, người đọc có thể bổ sung, lấp đầy những 
khoảng trống, cụ thể hóa những mã văn hóa trong tác phẩm theo những hướng khác nhau. 
Các biểu tượng, ngôn ngữ trong thơ mơ hồ, phát sinh ý nghĩa một phần cũng nhờ vào 
trường liên tưởng, sự tưởng tượng, sức sáng tạo mạnh mẽ của người tiếp nhận. 
Ngoài những yếu tố như vốn kinh nghiệm, khả năng tưởng tượng liên kết tri thức, 
đồng sáng tạo của người đọc, bản thân sự vận động của ngôn ngữ trong thời gian và không 
gian cũng góp phần tạo nên tính mơ hồ. Nói cách khác, tính mơ hồ của ngôn ngữ thơ còn 
phụ thuộc vào sự thay đổi của ngữ cảnh tiếp nhận. Ngữ cảnh là môi trường giao tiếp (thời 
gian, không gian, con người, tính cách, sự kiện thời đại, truyền thống văn hóa...), trong đó 
từ ngữ, bài thơ xuất hiện và có ý nghĩa. Có nhiều trường hợp sự vận động của từ ngữ trong 
không gian và thời gian làm cho ý nghĩa của từ bị bào mòn, khó hiểu, câu thơ vì thế trở nên 
mơ hồ, khó nắm bắt. Một số trường hợp, theo không gian và thời gian, ngữ cảnh thay đổi, 
ý nghĩa của từ ngữ được mở rộng, sự cảm nhận về đối tượng miêu tả ở các thời đại khác 
nhau, ý nghĩa của từ ngữ phát sinh ngày càng phong phú và cũng vì thế trở nên mơ hồ. 
3. KẾT LUẬN 
Có thể nói, cơ sở hình thành tính mơ hồ đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ ca là sự tổng hợp 
của những quá trình: từ quá trình tư duy (tìm kiếm, thu nạp, nắm lấy cái thần, cái bản chất 
của sự vật), để rồi thông qua lựa chọn, mài giũa, kết tinh thành ngôn từ nghệ thuật (chất 
liệu có khả năng gợi cảm, võ đoán, nội chỉ) nhằm thỏa mãn mọi yêu cầu riêng của phong 
cách thơ ca (giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, hàm súc và đầy chất thơ), để từ đó tác phẩm đi 
vào thế giới tiếp nhận của người đọc (tái sáng tạo). Con đường khám phá và sáng tạo cái 
đẹp khiến cho ngôn từ thơ ca không ngừng được hoàn thiện, ngày càng mơ hồ, lung linh, 
đa sắc với trường ngữ nghĩa được mở ra vô tận. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. A.Lukin, V.C.Xcacherơsicốp (1984), Nguyên lý mỹ học Mác- Lênin, Nxb Sách giáo khoa 
Mác – Lênin, Hà Nội. 
2. Aristote, Lưu Hiệp (1999), Nghệ thuật thơ ca – Văn tâm điêu long, Nxb Văn học, Hà Nội. 
3. Lê Xuân, Sự thần diệu của ngôn ngữ thơ (nguồn dẫn từ vanchuongnet.org). 
4. Trần Đình Sử (2006), Giáo trình Lý luận văn học tập 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
5. Trần Đình Sử (1998), Tuyển tập, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 31 
6. Đào Thản (1988), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, 
Hà Nội. 
7. Nhiều tác giả (1997), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
8. Đào Thái Tôn (1996), Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
THE FORMATION OF AMBIGUITY 
IN THE LANGUAGE OF POETRY 
Abstract: Today, the researchers and literary critics confirmed ambiguity as an organic 
feature of literature in general and language of poetry in particular. Ambiguity in 
language of poetry is a language phenomenon containing many values, unknown 
meanings and lack of verifiability which allows readers to interpret it into various ways. 
The formation of this phenomenon is dominated by the following factors: from the 
thinking to art reflects creating artistic language to meet the requirement of poetic art, 
then to transfer to readers. Seeking and creating the beauty help poetic language to 
improve constantly, to increase ambiguity, to sparkle and multi-color with the endless 
of language. 
Keywords: ambiguity, multi-meanings, poetic art. 

File đính kèm:

  • pdfngon_ngu_hoc_co_so_hinh_th0nh_tinh_mo_ho_da_nghia_trong_ngon.pdf