Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế

1. Ghi nhận tần suất các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng của loại sơ sinh già tháng (SSGT) điều trị tại Khoa Nhi Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. 2. Xác định sự liên quan giữa các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế trang 1

Trang 1

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế trang 2

Trang 2

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế trang 3

Trang 3

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế trang 4

Trang 4

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế trang 5

Trang 5

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế trang 6

Trang 6

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế trang 7

Trang 7

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế trang 8

Trang 8

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế trang 9

Trang 9

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang Danh Thịnh 15/01/2024 300
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế

Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của trẻ sơ sinh già tháng điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế
74 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 11
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG 
VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA TRẺ SƠ SINH GIÀ THÁNG 
ĐIỀU TRỊ TẠI KHOA NHI
 BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
Nguyễn Thị Kiều Nhi
Bộ môn Nhi, Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: 1. Ghi nhận tần suất các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng của loại sơ sinh già 
tháng (SSGT) điều trị tại Khoa Nhi Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. 2. Xác định sự 
liên quan giữa các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng. Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu: 72 SSGT < 7 ngày tuổi vào điều trị tại đơn nguyên sơ sinh của Khoa nhi Bệnh viện Trường 
Đại học Y Dược Huế. Loại sơ sinh già tháng được chẩn đoán xác định theo WHO 2003: Tuổi 
thai ≥ 42 tuần kèm triệu chứng lâm sàng: da bong khi miết hoặc bong tự nhiên, từng mảng, rốn 
héo hoặc xanh thẫm phân su, móng tay dài nhuốm xanh hoặc tuổi thai chưa đến 42 tuần nhưng 
có các triệu chứng lâm sàng. Thiết kế nghiên cứu quan sát mô tả. Kết quả: Các đặc điểm lâm 
sàng: Thở nhanh và hoặc thở gắng sức là lý do vào viện chủ yếu của các trẻ sơ sinh già tháng 
(48,61%). Bú kém, nôn mữa (16,67%). Ngạt (8,34%). Vàng da (6,94%). Sốt (6,94%). Hạ thân 
nhiệt < 36,50C (13,89%), tăng thân nhiệt (sốt) chiếm 13,89%. Nhịp thở nhanh (59,72%). Tần số 
tim chậm (1,39%). Bỏ bú (11,11%). Trương lực cơ tăng (9,72%). Các đặc điểm cận lâm sàng: 
Số lượng hồng cầu < 4,5.1012/l (51,39%), số lượng bạch cầu từ 5 – 25.103/mm3 (81,94%), số 
lượng tiểu cầu từ 100- 400.103/mm3 (94,44%). Nồng độ hemoglobin < 17g/dl (77,78%). Giá 
trị hematocrit < 65% ( 98,61%). Nồng độ glucose máu ≥ 2,6mmol/l (85,24%). Nồng độ CRP 
< 10mg/l (67,61%). Về phía mẹ: Chu kỳ kinh nguyệt đều (75%). Mẹ chưa sinh con trước đó 
(75%); các bà mẹ sinh 4 con (1,39%). Trên siêu âm lượng nước ối vừa (70,42%), lượng nước ối 
ít (29.58%). Dịch ối trong (62,5%), dịch ối màu vàng (4,17%), ối màu xanh (33,33%). Các bà 
mẹ có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ gồm viêm nhiễm sinh dục; nhiễm trùng đường tiểu; sốt 
trước, trong và 3 ngày sau sinh; chuyển dạ kéo dài; mắc các bệnh nội, ngoại khoa ảnh hưởng 
đến thai (75%). Mối liên quan giữa các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng: Có sự khác 
biệt: giữa các tỷ lệ của tuổi thai theo sản khoa với lượng nước ối trên siêu âm (p < 0,05); giữa 
các tỷ lệ của cân nặng lúc sinh với nồng độ glucose máu (p < 0,02). Có sự tương quan nghịch 
mức độ vừa giữa số lượng hồng cầu và tần số thở (r = - 0,5158; p < 0,0001), tương quan thuận 
mức độ yếu giữa số lượng bạch cầu và tần số thở (r = 0,3045; p = 0,0093). Kết luận: Cần phân 
loại SSGT theo mức độ bong da trên lâm sàng. Mẹ có kinh nguyệt đều vẫn sinh con bong da. 
SSGT có đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng riêng. 
Abstract
STUDYING SOME CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTERISTICS 
OF POST-TERM BABIES IN NICU AT HUE UNIVERSITY HOSPITAL
Nguyen Thi Kieu Nhi
Dept. Of Pediatric, Hue University of Medicine and Pharmacy
Objectives: 1. Estimating the ratios of clinical and paraclinical signs of post-term newborns 
hospitalized at Department of Pediatric Hue University Hospital. 2. Identifying the relation 
75 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 11
between clinical signs and paraclinical signs. Materials and Method: 72 post- term babies 
< 7 days of life hospitalized at NICU from 2010/5 to 2011/4. Classification of post - term 
newborn was based on WHO 2003: gestational age ≥ 42 weeks with clinical manifestations: 
desquamation on press with fingers or natural desquamation, withered or meconial umbilicus, 
meconial long finger nails (*) or geatational age still < 42 weeks with theses clinical 
manifestations (*). Data were recorded on a clinical record form. Per-protocol analysis of 
clinical outcomes was performed by using Medcalc 11.5 and Excell 2007. Analyses used 
the χ2 test or Fisher’s exact test for categorical data; Student’s t test was used for continuous 
data and the Mann-Whitney U test for nonparametric data. Data were presented as means 
or proportions with 95% CIs. Results: Clinical characteristics: Tachypnea and grasp were 
main reasons of hospitalisation (48.61%). Poor feeding, vomitting (16.67%). Asphyxia 
(8.34%). Jawndice (6.94%). Hypothermia < 36.50C (13.89%), fever (13.89%). Tachypnea 
(59.72%). Bradycardia (1.39%). Poor feeding (11.11%). Hypertonia (9.72%). Paraclinical 
characteristics: Erythrocytes < 4.5.1012/l (51.39%), Leucocytes 5 – 25.103/mm3 (81.94%), 
Thrombocytes 100- 400.103/mm3 (94.44%). Hemoglobinemia < 10mg/l (67.61%). Maternal 
characteristics: Menstrual cycles regular (75%). Primiparity (75%). Amniotic volume 
average (70.42%), little (29.58%). Aminiotic liquid clair (62.5%), aminiotic liquid yellow 
(4.17%), aminiotic meconial liquid (33.33%). Maternal manifestation of one of many risk 
factors consist of genital infection; urinary infection; fever before, during, after 3 days of 
birth; prolonged delivery; medical diseases influence the foetus (75%). The relation between 
clinical signs and paraclinical signs: There was significantly statistical difference: between 
gestationnal age based on obstetrical criteria and amniotic volume on ultrasound (p < 0.05); 
between birth weight and glucosemia (p < 0.02). There was conversional correlation of 
average level between erythroctes number and respiratory rate (r = - 0.5158; p < 0.0001), 
concordance correlation of weak level betwwen leucocytes number and respiratory rate 
(r = 0.3045; p = 0.0093). Conclusion: It should made diagnosis of postterm baby based on 
degree of desquamation. The mother who has menstrual cycles regular is still delivered of a 
postterm baby. A postterm baby has the individual clinical and paraclinical signs. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, trong vài thập niên gần đây, 
tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi nói chung 
đã giảm một cách đáng kể còn 28‰ năm 2005. 
Tuy nhiên tỷ lệ tử vong sơ sinh đã giảm không 
đáng kể. Tử vong sơ si ... g nước và ngoài nước nói về vấn đề này.
- Phân bố về cách sinh: tỷ lệ trẻ SSGT sinh 
bằng mổ lấy thai chiếm tỷ lệ cao nhất 72,22%, 
sinh có sử dụng thủ thuật có tỷ lệ thấp nhất 
2,78%. Điều này là hoàn toàn phù hợp vì thai 
già tháng là có nhiều nguy cơ cho cả mẹ và 
con nên việc mổ lấy thai là chỉ định ưu tiên 
hơn cả. Tỷ lệ mổ lấy thai ở trẻ SSGT là cao 
hơn so với trẻ SSĐT [5], [6].
- Đánh giá chỉ số Apgar: ở phút thứ 1, chỉ 
số Apgar < 7 điểm chiếm tỷ lệ gần 28% (5 - 7 
điểm chiếm 20,83%, từ 3 - < 5 điểm chiếm 
5,56%, đặc biệt Apgar <3 điểm chiếm 1,39%). 
Điều này nói lên ngạt là một trong những nguy 
cơ của loại SSGT. 
- Tình hình sử dụng các biện pháp hồi sức 
tại phòng sinh: Nghiên cứu cho thấy 50% loại 
SSGT cần được sử dụng các biện pháp hồi sức 
sơ sinh. Điều này là phù hợp, giúp khẳng định 
thêm loại SSGT là loại sơ sinh có tỷ lệ ngạt 
cao và có nguy cơ mắc nhiều bệnh lý khác.
*Các đặc điểm lâm sàng:
- Lý do vào viện chính của các trẻ SSGT 
là tình trạng thở nhanh và hoặc thở gắng sức 
chiếm tỷ lệ 48,61%; tiếp đến là tình trạng bú 
kém, nôn mữa chiếm 16,67%; ngạt chiếm 
8,34%; sốt và vàng da cùng chiếm 6,94%, các 
nguyên nhân khác chiếm 12,5%. Đây là những 
triệu chứng chính thể hiện các bệnh lý hay gặp 
ở loại SSGT như NTSS, ngạt, cô đặc máu, 
vàng da, hạ đường máu
- Phân bố về các chỉ số nhân trắc: Trẻ 
SSGT phát triển, trưởng thành đầy đủ nên các 
chỉ số nhân trắc cũng tương tự như các trẻ 
SSĐT. Bảng 3.1 cho thấy các giá trị trung bình 
về chiều dài cơ thể, cân nặng lúc sinh, vòng 
đầu lần lượt là 48,40 + 2,27 cm; 3176 + 447 g; 
34,72 + 2,46 cm đều ở mức bình thường.
- Tình trạng thân nhiệt: loại SSGT có thân 
nhiệt ổn định từ 36,50C - < 37,80C chiếm 
cao nhất là 68,05%, tình trạng rối loạn thân 
nhiệt bao gồm tăng thân nhiệt ≥ 37,80C chiếm 
18,06% và hạ thân nhiệt < 36,50C chiếm 
13,89%. So sánh với nghiên cứu của Nguyễn 
Thị Ý Nhi, tỷ lệ tăng thân nhiệt và hạ thân nhiệt 
cùng chiếm 14,77% thì kết quả của chúng tôi 
là gần tương đương [6].
- Phân bố về màu sắc da: Tùy thuộc vào bệnh 
lý mà màu sắc da của trẻ SSGT cũng biến đổi. 
- Tình trạng ý thức: Trẻ SSGT có tình trạng 
ý thức bình thường chiếm cao nhất 65,26%; 
tăng đáp ứng, kích thích chiếm 1,39%; không 
có trẻ hôn mê; đáng chú ý là ý thức kém linh 
hoạt chiếm tỷ lệ khá cao 33,33%. Điều này là 
phù hợp vì những trẻ này đều có bệnh lý và 
sự biểu hiện ra bên ngoài một phần là thông 
qua ý thức, vẻ mặt của trẻ. Từ đó giúp cho các 
nhà lâm sàng nhi khoa có thể phát hiện sớm 
và chẩn đoán bệnh, theo dõi diễn tiến và đánh 
giá hiệu quả của việc điều trị bên cạnh các dấu 
hiệu lâm sàng và cận lâm sàng khác. So sánh 
với Nguyễn Thị Ý Nhi thì tỷ lệ này cũng gần 
tương đương [6].
- Tần số thở và mức độ khó thở nhanh: 
SSGT có nhịp thở nhanh chiếm tỷ lệ cao nhất 
59,72%, không có nhịp thở chậm. Điều này 
cho thấy suy hô hấp là một hội chứng rất hay 
82 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 11
gặp trong nhiều bệnh lý ở trẻ sơ sinh và đáp 
ứng của trẻ để thích nghi với tình trạng thiếu 
oxy là tăng tần số thở là chủ yếu. Vì vậy, khi 
phân độ khó thở nhanh sẽ giúp cho việc điều 
trị được tiến hành nhanh chóng, thuận tiện hơn 
và đánh giá hiệu quả của điều trị.
- Tần số tim: Theo dõi biến đổi nhịp tim 
thai có giá trị trong việc phát hiện sớm một 
số bệnh lý như NTSS, bất thường tim bẩm 
sinh. Đa số tần số tim của trẻ SSGT ở trong 
giới hạn bình thường chiếm 88,89%; biến đổi 
tần số tim bao gồm nhịp tim < 100 lần/phút, 
nhịp tim > 140 lần/phút chiếm 11,11%. Hiện 
nay, một số tác giả vẫn đang còn nghiên cứu. 
Trong tương lai, chúng tôi cũng sẽ tiếp tục 
nghiên cứu về vấn đề này.
- Tình trạng bú của trẻ SSGT: Khi trẻ mắc 
bệnh, bú là một hoạt động gắng sức đối với trẻ. 
Do đó trẻ phải giảm số lần bú hoặc là không bú 
nữa. Nghiên cứu cho thấy trẻ bú bình thường 
chiếm 48,61%; bú kém chiếm 40,28%, bỏ bú 
chiếm 11,11%. Điều này thể hiện tình trạng bú 
là một dấu hiệu lâm sàng khá tin cậy để phát 
hiện sớm bệnh.
- Trương lực cơ của trẻ SSGT: Đánh giá 
trương lực cơ cũng giống như các dấu hiệu 
lâm sàng khác có ích rất lớn trong việc đánh 
giá tuổi thai, phát hiện một số bệnh lý...[1].Ở 
trẻ SSGT, trương lực cơ giống trẻ SSĐT chỉ 
thay đổi khi có bệnh lý. Qua nghiên cứu cho 
thấy rằng trương lực cơ bình thường chiếm 
79,17%; trương lực cơ tăng chiếm 9,72%; 
trương lực cơ giảm chiếm 11,11%.
 - Mức độ bong da: Đây là tiêu chuẩn hình 
thái chính để chẩn đoán loại SSGT. Do bánh 
nhau thoái hóa không đảm bảo chức năng 
nuôi dưỡng các cơ quan trong cơ thể thai nhi 
trong đó có da làm cho da thiếu oxy và bị 
bong ra. Vì vậy, dù chưa quá tháng nhưng 
nếu bánh nhau bị suy chức năng không đủ 
khả năng tưới máu thì lâm sàng vẫn biểu hiện 
bong da và được xếp loại sơ sinh già tháng. 
Tùy theo mức độ bong da mà Clifford đã chia 
loại SSGT làm 3 độ. 
- Các triệu chứng lâm sàng khác: Nghiên 
cứu còn cho thấy một số triệu chứng lâm sàng 
hay gặp ở trẻ SSGT, trong đó bú kém so với 
trước chiếm tỷ lệ 26,39%; nôn mữa chiếm 
27,78%; vận động kém so với trước chiếm 
19,44%; bụng chướng chiếm 8,33%; co giật 
chiếm 1,39%, chậm đi phân su chiếm 1,39%, 
dị tật bẩm sinh chiếm 5,56%. Các dấu hiệu 
này đều thể hiện những bệnh lý hay gặp ở trẻ 
SSGT. So sánh với Nguyễn Thị Ý Nhi thì các 
tỷ lệ % này là có sự khác biệt nhưng không 
đáng kể, bao gồm bú kém chiếm tỷ lệ 37,5%; 
nôn mữa chiếm 26,14%; dị tật bẩm sinh chiếm 
11,36% [6].
* Các đặc điểm cận lâm sàng
- Các đặc điểm về công thức máu: Nghiên 
cứu cho thấy giá trị trung bình các chỉ số 
hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, hematocrit lần 
lượt là 4,5 ± 0,60 (1012/l); 16,789 ± 7,273 
(103/mm3); 249,569 ± 8,546 (103/mm3); 46,8 
± 6,47 (%) đều ở mức bình thường. Riêng giá 
trị trung bình nồng độ hemoglobin là 15,29 ± 
2,18 (g/dl) thì thấp hơn so với bình thường. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả gần 
tương đương với nghiên cứu của Cao Văn 
Minh, Nguyễn Tự Đại bao gồm giá trị trung 
bình của hồng cầu, bạch cầu, hemoglobin, 
hematocrit lần lượt là 4,77 ± 0,81 (1012/l); 
16,92 ± 8,12 ( 103/mm3); 15,37 ± 1,54 (g/dl); 
46,35 ± 6,18 (%) [3].
- Các đặc điểm về glucose máu, CRP: Ở 
trẻ SSGT có hiện tượng giảm kho dự trữ 
glycogen, insulin huyết tương nên dễ bị 
hạ đường máu. Nghiên cứu cho thấy nhóm 
trẻ có nồng độ glucose máu <1,9 mmol/l là 
6,56%, từ 1,9 - <2,6 mmol/l là 8,20%. Trẻ 
SSGT cũng rất dễ bị nhiễm trùng sơ sinh 
đặc biệt khi mẹ có thêm các yếu tố nguy cơ 
nên nồng độ CRP cũng tăng cao có ý nghĩa. 
Từ nghiên cứu cho biết giá trị nồng độ CRP 
trung bình là 11,61 ± 14,80 mg/l, trong đó 
nồng độ CRP > 20mg/l chiếm 15,49%, từ 10 
– 20 mg/l chiếm 16,9%. Theo nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Ý Nhi tỷ lệ trẻ SSGT có nồng độ 
83 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 11
glucose máu < 2,6 mmol/l là 22,73%, nồng độ 
CRP > 10mg/l là 61,36%. Kết quả này cao hơn 
nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi. Điều 
này cho thấy những hiểu biết về cơ chế bệnh 
sinh của loại SSGT đã giúp các nhà nhi khoa 
can thiệp kịp thời và làm giảm đi mức độ nặng 
của bệnh lý hay gặp ở loại SSGT.
* Về phía mẹ
- Tính chất chu kỳ kinh nguyệt mẹ: Chu kỳ 
kinh nguyệt mẹ là một yếu tố để chẩn đoán 
tuổi thai, chu kỳ kinh nguyệt đều sẽ có ích cho 
việc xác định tuổi thai. Các bà mẹ có chu kỳ 
kinh nguyệt không đều chiếm 25%, điều này 
góp phần giải thích thêm cho sự không chính 
xác khi tính tuổi thai theo chu kỳ kinh cuối ở 
nghiên cứu này.
- Số lần sinh con trước đó của các bà mẹ: 
các bà mẹ sinh con so chiếm 75%, tỷ lệ giảm 
dần khi số lần sinh con tăng lên. Tuy chưa 
có nghiên cứu nào trong nước và ngoài nước 
khẳng định bà mẹ mang thai lần đầu thì dễ 
mang thai quá ngày sinh nhưng một số tác giả 
nhận thấy mang thai lần đầu thì hay gặp thai 
già tháng hơn [4].
- Số lượng ối trên siêu âm: Số lượng ối tăng 
dần cho đến 30-32 tuần và giữ hằng định cho 
tới khi thai đủ tháng. Sau đó thể tích nước ối 
giảm dần đi, đặc biệt khi thai già tháng [2]. 
Nghiên cứu cho biết thể tích ối lượng vừa 
70,24%, lượng ối ít chiếm 29,76%, không có 
lượng ối nhiều. Khảo sát lượng ối có thể cho 
biết mức độ trưởng thành của thai, gián tiếp 
đánh giá hiện tượng lão hóa bánh rau, hiện 
tượng suy thai. Mối liên quan giữa tuổi thai và 
lượng nước ối ở nghiên cứu này chúng tôi sẽ 
đề cập đến ở phần tiếp theo.
- Thời gian từ lúc ối vỡ đến lúc sinh: Từ 
nghiên cứu cho thấy thời gian ối vỡ đến lúc sinh 
≥ 18 giờ chiếm 9,72%. Nếu thời gian này > 6 
giờ thì có nguy cơ NTSS, nguy cơ càng tăng 
nếu > 18 giờ [16]. Việc xác định thời gian vỡ ối 
giúp cho chỉ định kháng sinh kịp thời nhằm điều 
trị NTSS – một bệnh lý hay gặp ở loại SSGT.
- Màu sắc dịch ối: Hội chứng hít nước 
ối phân su hay gặp ở trẻ SSGT. Theo nhiều 
nghiên cứu tỷ lệ này thay đổi từ 25 -30% cho 
đến 44% [5], [8]. Nước ối có phân su liên quan 
đến rối loạn tim thai, tình trạng thiếu oxy trong 
tử cung và hoặc suy thai. Khi suy thai cấp ối 
có màu xanh, suy thai mạn ối có màu vàng. Từ 
nghiên cứu cho thấy dịch ối màu trong chiếm 
tỷ lệ 62,5%; màu xanh chiếm 33,33%; màu 
vàng chiếm 4,17%; không có màu đỏ, nâu đen. 
Tỷ lệ này cao hơn so tỷ lệ chung các cuộc sinh 
có phân su nhuộm dịch ối là từ 10 - 20%. Điều 
này hoàn toàn phù hợp vì thai già tháng có 
nhiều nguy cơ và suy thai là nằm trong số đó.
- Một số yếu tố nguy cơ của mẹ đối với 
trẻ SSGT: Từ nghiên cứu cho thấy các bà mẹ 
có các yếu tố nguy cơ chiếm tỷ lệ 75%. Đây 
là các nguy cơ làm dễ mắc các bệnh lý như 
NTSS, ngạt, hạ thân nhiệt, hạ đường máu
Kiểm soát và điều trị các yếu tố nguy cơ ở mẹ 
sẽ góp phần làm giảm các bệnh lý ở trẻ SSGT.
3.2. Mối liên quan giữa các triệu chứng 
lâm sàng và cận lâm sàng
- Liên quan giữa độ già tháng với tuổi thai 
theo sản khoa: Bảng 3.6 cho ta thấy không có 
sự liên quan giữa độ già tháng với tuổi thai 
theo sản khoa (p > 0,05). Điều này có thể giải 
thích do một phần tuổi thai tính theo sản khoa 
không chính xác. Hơn nữa, độ già tháng được 
phân loại theo mức độ bong da mà điều này lại 
tùy thuộc vào chức năng của bánh rau. Mỗi trẻ 
khác nhau được nuôi dưỡng bởi một bánh rau 
khác nhau. Nếu chức năng bánh rau suy giảm 
sớm thì mức độ bong da sẽ nặng hơn.
- Liên quan giữa độ già tháng và tần số thở: 
Nghiên cứu cho thấy không có mối liên quan 
giữa độ già tháng và tần số thở (p > 0,05). Giải 
thích vấn đề này là do các triệu chứng lâm 
sàng biểu hiện cho các loại bệnh lý hay gặp 
ở trẻ SSGT, phụ thuộc vào các yếu tố nguy cơ 
gặp phải sau khi sinh. 
- Liên quan giữa cân nặng và nồng độ 
glucose máu: Từ bảng 3.10 cho thấy có mối 
liên quan giữa cân nặng lúc sinh và nồng độ 
glucose máu (p < 0,05). Trẻ có cân nặng thấp 
84 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 11
thì có nguy cơ hạ glucose máu cao hơn sơ 
sinh có cân nặng bình thường. Sau khi sinh 
nguồn glucose từ mẹ bị cắt đứt trẻ phải sử 
dụng nguồn glycogen dự trữ, ở trẻ SSGT có 
hiện tượng giảm kho dự trữ glycogen, insulin 
huyết tương nên hạ glucose máu càng dễ xảy 
ra hơn.
- Tương quan giữa số lượng hồng cầu và tần 
số thở: Từ biểu đồ 3.1. cho thấy có sự tương 
quan nghịch mức độ vừa giữa số lượng hồng 
cầu và tần số thở (r = -0,5158; p < 0,0001). 
Điều này có thể giải thích do trẻ SSGT có số 
lượng hồng cầu thấp thì khả năng cung cấp oxy 
cho cơ thể giảm. Để tăng lượng oxy cho nhu 
cầu cơ thể hoặc trẻ phải tăng số lượng hồng 
cầu hoặc phải tăng cường vận chuyển oxy. 
Nhưng trong giai đoạn sơ sinh sớm, SSGT 
chưa đủ thời gian để tăng số lượng hồng cầu, 
vì vậy trẻ phải tăng tần số thở để tăng cường 
vận chuyển oxy.
- Tương quan giữa số lượng bạch cầu và 
tần số thở: Từ biểu đồ 3.2 cho thấy có sự tương 
quan thuận mức độ yếu giữa số lượng bạch cầu 
và tần số thở (r = 0,3045; p = 0,0093). Trong 
mô hình bệnh tật của loại SSGT thì NTSS 
chiếm tỷ lệ cao nhất 17% [7]. Trẻ SSGT bị 
NTSS thường có số lượng bạch cầu tăng. Khi 
bị NTSS dạng viêm phổi thì tần số thở của trẻ 
cũng biến đổi, trong đó gia tăng tần số thở là 
chủ yếu... Điều này lý giải vì sao có mối tương 
quan thuận mức độ yếu giữa số lượng bạch 
cầu và tần số thở.
4. KẾT LUẬN
Phân loại sơ sinh già tháng và/hoặc rối loạn 
chức năng nhau phải dựa vào đặc điểm da 
bong trên lâm sàng. Loại trẻ này có đặc điểm 
lâm sàng và cận lâm sàng khác biệt nên kế 
hoạch chăm sóc và nuôi dưỡng khác với loại 
sơ sinh đủ tháng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
5. Nguyễn Thị Kiều Nhi (2009), “Xác định các 
yếu tố nguy cơ mẹ liên quan bệnh nhiễm trùng 
sơ sinh sớm ở con tại khoa sản Bệnh viện 
Trường Đại học Y Dược Huế”, Tạp chí Y học 
Việt Nam, 4 (2), tr 506 – 514.
6. Nguyễn Thị Ý Nhi (2010), Nghiên cứu đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng các loại sơ sinh 
bệnh lý điều trị tại khoa nhi Bệnh viện Trường 
Đại học Y Dược Huế, Luận văn tốt nghiệp bác 
sỹ y khoa, Trường Đại học Y Dược Huế - Đại 
học Huế, Huế.
7. The Saskatchewan Prevention Institute (2007), 
Post –Term Pregnancy, The Saskatchewan 
Prevention Institute, Saskatchewan.
8. World Health Organization (2009), Home 
visits for the newborn child: a strategy to 
improve survival, WHO-UNICEF Joint 
Statement, Geneva.
1. Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược Huế (2009), 
Giáo trình sau đại học Nhi khoa Sơ sinh - 
Cấp cứu, tập 1, Nhà xuất bản Đại học Huế, 
Huế, tr 41-50.
2. Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược Huế (2009), Giáo 
trình sau đại học Nhi khoa Sơ sinh - Cấp cứu, 
tập 1, Nhà xuất bản Đại học Huế, Huế, tr 89-94.
3. Cao Văn Minh, Nguyễn Tự Đại (2003), Thử tìm 
hiểu giá trị các chỉ số của công thức máu ở trẻ 
sơ sinh bình thường và bệnh lý trong 3 ngày 
đầu, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ y khoa, Trường 
Đại học Y Dược Huế - Đại học Huế, Huế. 
4. Phan Thị Bích Ngọc (2008), Tìm hiểu các 
yếu tố liên quan ảnh hưởng đến chỉ số Apgar 
của trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Trường Đại học 
Y Dược Huế, Luận văn tốt nghiệp bác sỹ y 
khoa, Trường Đại học Y Dược Huế -Đại học 
Huế, Huế.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_mot_so_dac_diem_lam_sang_va_can_lam_sang_cua_tre.pdf