Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về hành vi quản trị lợi
nhuận trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành Thuỷ sản được niêm yết
trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Dựa trên số liệu thu thập từ báo cáo tài chính của 15
doanh nghiệp đang niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Sở giao dịch
Chứng khoán Hà Nội thuộc nhóm ngành Thủy sản trong giai đoạn từ 2012 đến 2018, sử dụng
phương pháp ước lượng dữ liệu bảng và kiểm định trị trung bình để trả lời câu hỏi:“Có hay
không hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam?”. Thông qua việc thực hiện kiểm định phù hợp, có thể
kết luận rằng các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường Chứng khoán Việt Nam trong nhóm
ngành Thủy sản đều có hành vi điều chỉnh lợi nhuận với mức ý nghĩa thống kê 5%.

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020
159
NGHIÊN CỨU HÀNH VI QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN TRÊN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC NHÓM NGÀNH
THỦY SẢN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
Đinh Công Hiển*, Trần Kiều Nga**, Nguyễn Thiện Phong,
Võ Hồng Hạnh và Nguyễn Phương Tâm
Khoa Kế toán – TCNH, Trường Đại học Tây Đô
(*Email: dchien@tdu.edu.vn)
Ngày nhận: 15/6/2020
Ngày phản biện: 09/8/2020
Ngày duyệt đăng: 17/9/2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về hành vi quản trị lợi
nhuận trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành Thuỷ sản được niêm yết
trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Dựa trên số liệu thu thập từ báo cáo tài chính của 15
doanh nghiệp đang niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Sở giao dịch
Chứng khoán Hà Nội thuộc nhóm ngành Thủy sản trong giai đoạn từ 2012 đến 2018, sử dụng
phương pháp ước lượng dữ liệu bảng và kiểm định trị trung bình để trả lời câu hỏi:“Có hay
không hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam?”. Thông qua việc thực hiện kiểm định phù hợp, có thể
kết luận rằng các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường Chứng khoán Việt Nam trong nhóm
ngành Thủy sản đều có hành vi điều chỉnh lợi nhuận với mức ý nghĩa thống kê 5%.
Từ khóa: Cơ sở dồn tích, ngành thủy sản, quản trị lợi nhuận
Trích dẫn: Đinh Công Hiển, Trần Kiều Nga, Nguyễn Thiện Phong, Võ Hồng Hạnh, Nguyễn
Phương Tâm, 2020. Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính của
các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành Thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây
Đô. 09: 159-175.
**TS. Trần Kiều Nga – Trưởng Khoa Kế toán - TCNH, Trường Đại học Tây Đô
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020
160
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thông tin lợi nhuận trên báo cáo tài
chính (BCTC) luôn được các nhà đầu tư
quan tâm nhiều nhất và cũng là thông tin
mà nhà các nhà quản trị doanh nghiệp
(DN) có xu hướng tác động vào nhiều
nhất. Tuy nhiên, hành động quản trị lợi
nhuận tuân thủ khuôn khổ pháp lý và vận
dụng khéo léo, linh hoạt các “khoảng
không tự do” mà chuẩn mực kế toán để lại
để “sắp xếp” BCTC theo cách thuận lợi
nhất cho DN hay cho chính nhà quản trị
nên không được xem là hành động phi
pháp.
Mặt khác, gần đây đã có rất nhiều
nghiên cứu đưa ra các bằng chứng thực
nghiệm trong bối cảnh thị trường chứng
khoán (TTCK) Việt Nam cho thấy sự xuất
hiện của hành vi quản trị lợi nhuận. Trong
đó, lợi nhuận có thể được điều chỉnh tăng
nhằm tăng giá trị doanh nghiệp khi phát
hành cổ phiếu hoặc thu hút nhà đầu tư
trong năm niêm yết đầu tiên hoặc lợi
nhuận cũng có thể được điều chỉnh giảm
nhằm giảm số thuế Thu nhập doanh
nghiệp (TNDN) phải nộp khi có sự thay
đổi thuế suất... Dù vậy, hạn chế chung của
các nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung
với nhóm đối tượng là các DN niêm yết
trên Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ
Chí Minh (HOSE) và Sở giao dịch Chứng
khoán Hà Nội (HNX) mà bỏ qua nghiên
cứu ảnh hưởng của hành vi quản trị lợi
nhuận đối với một nhóm ngành cụ thể với
những đặc thù riêng của ngành nghề đó.
Ngoài ra, trong những năm gần đây,
một loạt sai lệch thông tin về lợi nhuận
được công bố trên BCTC trước và sau
kiểm toán của các DN thuộc nhóm ngành
Thủy sản niêm yết trên TTCK Việt Nam
đã gây nhiều lo lắng cho các nhà đầu tư và
các bên liên quan. Điều này đặt ra câu hỏi
“Có hay không hành vi quản trị lợi nhuận
của các DN ngành Thủy sản niêm yết trên
TTCK tại Việt Nam?” Hiện nay, có rất
nhiều mô hình nhận diện quản trị lợi
nhuận, tuy nhiên mô hình được cho là hiệu
quả trong việc nhận diện quản lợi nhuận
trên thế giới là mô hình Jones điều chỉnh
năm 1995, nhóm tác giả sử dụng mô hình
này cho nghiên cứu nhằm giúp các đối
tượng sử dụng thông tin có được luồng
thông tin chính xác hơn về kết quả hoạt
động kinh doanh của DN có thể đưa ra
quyết định đúng đắn hơn.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Quản trị lợi nhuận và mục
đích quản trị lợi nhuận
2.1.1. Khái niệm quản trị lợi nhuận
Trong bài nghiên cứu của mình,
Schipper (1989) đã đưa ra khái niệm về
việc quản trị lợi nhuận: “Quản trị lợi nhuận
là một sự can thiệp có cân nhắc trong quá
trình cung cấp thông tin tài chính nhằm đạt
được những mục đích cá nhân”. Trong khi
đó, Ronen và Yaari (2008) cho rằng:
“Quản trị lợi nhuận là hành vi của Ban
giám đốc sử dụng việc ghi nhận trên cơ sở
dồn tích thông qua một số tài khoản để làm
thay đổi lợi nhuận sau thuế theo các mục
tiêu công bố thông tin của họ”. Như vậy,
quản trị lợi nhuận có thể hiểu là hành động
làm thay đổi số liệu lợi nhuận trong quá
trình cung cấp thông tin ra bên ngoài có
chủ đích của nhà quản trị nhằm đạt được
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020
161
mục tiêu lợi nhuận mục tiêu thông qua
công cụ kế toán.
2.1.2. Mục đích quản trị lợi nhuận
Mục đích mà nhà quản trị thực hiện
hành vi điều chỉnh lợi nhuận có thể là:
- Chế độ trả công cho nhà quản trị: Các
nhà quản trị sẽ tìm cách thay đổi lợi nhuận
thực tế để có thể nhận được thưởng và chia
lợi nhuận tại một thời điểm nào đó, hoặc
trường hợp, trong hợp đồng thù lao giữa
nhà quản trị và DN có điều khoản, nếu lợi
nhuận đạt tối thiểu đến mức X đồng thì
nhà quản trị sẽ được Y đồng tiền lương
(thưởng).
- Đảm bảo xu hướng lợi nhuận bền
vững trong các kỳ kế toán: Các DN niêm
yết có chiều hướng quản trị lợi nhuận theo
hướng sang bằng lợi nhuận nhằm đạt được
sự ổn định về lợi nhuận giữa các kỳ kế
toán.
- Để được chấm điểm tín dụng tốt: Các
ngân hàng hay các tổ chức tín dụng thường
căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá
hiệu quả sử dụng vốn trong quá khứ của
DN để xem xét xem liệu có ... ) 0,3216 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2016 NGC (0,0813) (0,4005) 0,3192 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2017 NGC 0,0117 (0,4286) 0,4404 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2018 NGC 0,0028 (0,4097) 0,4125 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2012 SJ1 0,2579 (0,2956) 0,5535 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2013 SJ1 0,1458 (0,2917) 0,4375 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2014 SJ1 0,1703 (0,2846) 0,4549 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2015 SJ1 0,0241 (0,2612) 0,2853 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2016 SJ1 0,1809 (0,5871) 0,7680 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2017 SJ1 0,0958 (0,3578) 0,4536 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2018 SJ1 0,0669 (0,3427) 0,4096 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2012 TS4 0,0227 (0,3187) 0,3414 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2013 TS4 (0,0549) (0,3034) 0,2486 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2014 TS4 0,0069 (0,2425) 0,2494 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2015 TS4 0,0388 (0,2510) 0,2898 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2016 TS4 (0,0903) (0,1984) 0,1082 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2017 TS4 (0,0231) (0,2608) 0,2376 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2018 TS4 (0,0495) (0,1813) 0,1317 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2012 VHC 0,0343 (0,3218) 0,3562 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2013 VHC 0,2765 (0,4887) 0,7652 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2014 VHC 0,1566 (0,4606) 0,6172 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2015 VHC 0,0390 (0,3688) 0,4078 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2016 VHC 2,8954 2,6900 0,2054 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
2017 VHC (2,3303) (1,0140) (1,3163) DN điều chỉnh giảm lợi nhuận
2018 VHC 0,1077 (0,3758) 0,4835 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận
(Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu, 2020)
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020
171
5.3. Kiểm định giả thuyết
Sau khi có được kết quả, để đánh giá độ
chính xác của nhận định mà đề tài nghiên
cứu đã đề cập phía trên, nhóm tác giả thực
hiện kiểm định giả thuyết với 105 quan sát
(15 DN trong giai đoạn từ 2012 đến 2018)
với trung bình mẫu là 0,2351 và độ lệch
chuẩn là 0,2757 để kiểm định giả thuyết:
Các DN Thủy sản niêm yết trên TTCK
Việt Nam có điều chỉnh lợi nhuận với mức
ý nghĩa thống kê 5%.
Giả thuyết 1: {
𝐻0: 𝜇 = 𝜇0 = 0
𝐻1: 𝜇 ≠ 0
Kiểm định:
𝑡 =
(�̅� − 𝜇0)√𝑛
𝑠
=
(0,2351 − 0)√105
0,2757
= 8,7379
Tra bảng t1-α/2 = t0,025 =1,96
Ta có: t = 8,7379 > 1,96 = t1-α/2
Kết luận: Chấp nhận giả thuyết hay nói
cách khác các DN Thủy sản niêm yết trên
TTCK Việt Nam có điều chỉnh lợi nhuận
với mức ý nghĩa thống kê 5%.
Giải thích cho điều này, có thể dotrong
bối cảnh TTCK Việt Nam còn nhiều quy
định chưa chặt chẽ và còn nhiều chuẩn
mực, văn bản hướng dẫn chưa rõ ràng, để
lại nhiều khoản trống thì khả năng DN
thực hiện báo cáo lợi nhuận linh hoạt là
điều tất yếu xảy ra, vì ban điều hành DN
với tư cách là người làm thuê chịu áp lực
về lợi nhuận với chủ DN. Thêm nữa, ý
thức tuân thủ pháp luật về kế toán - kiểm
toán của các DN niêm yết chưa cao, các
DN công bố các BCTC còn nặng về hình
thức, không đầy đủ, thiếu chi tiết điều này
gây cản trở sự đánh giá thực trạng tài chính
DN của các NĐT. Ngoài ra, phải nói đến
năng lực và trách nhiệm của các tổ chức,
cơ quan quản lý được giao nhiệm vụ kiểm
tra, kiểm soát. Không ít trường hợp BCTC
của DN chậm nộp, chậm công bố, công bố
thông tin không đầy đủ, không chính xác
theo quy định của pháp luật vẫn không bị
phát hiện và xử lý đúng mức.
6. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
6.1. Kết luận
Chất lượng thông tin trên BCTC của
các DN niêm yết đang là một vấn đề thu
hút nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý,
NĐT,... Một trong những nguyên nhân
quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng
BCTC của các DN niêm yết là hành vi
điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý.
Để nhận diện được hành vi điều chỉnh
lợi nhuận phương pháp tối ưu là kiểm tra,
đối chiếu trực tiếp giữa BCTC với các
chứng từ sổ sách có liên quan của DN nghi
ngờ có điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên,
phương pháp này thường chỉ được thực
hiện thông qua các cơ quan có thẩm quyền
như kiểm toán, thanh tra,... Các đối tượng
sử dụng thông tin khác như các nhà nghiên
cứu, NĐT khó sử dụng phần vì DN không
muốn người bên ngoài DN biết những
thông tin chi tiết những chứng từ, các loại
sổ sách liên quan cũng như những hoạt
động tại DN họ, phần vì số mẫu quá lớn
nhà nghiên cứu không thể đi phỏng vấn
trực tiếp hay đi khảo sát thực tế tại từng
DN được. Do đó, các nhà nghiên cứu
thường đưa ra các mô hình để nhận diện
các hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Trên thế
giới đã có mô hình được xây dựng để nhận
diện hành vi quản trị lợi nhuận của nhà
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020
172
quản lý, trong đó mô hình Jones điều chỉnh
1995 được cho là hiệu quả trong việc phát
hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các
nước phát triển như: Anh, Mỹ và một số
nước như Malaysia, Taiwan
Sau khi nghiên cứu 15 DN thuộc nhóm
ngành thủy sản đang niêm yết trên Thị
trường Chứng khoán Việt Nam trong giai
đoạn từ 2012 - 2018 bằng mô hình Jones
điều chỉnh 1995, có thể kết luận: Các DN
được nghiên cứu đều có hành vi điều chỉnh
lợi nhuận trong năm 2018. Tùy theo đặc
điểm của quy mô của từng DN mà họ có
thể đều chỉnh tăng hoặc điều chỉnh giảm.
Nghiên cứu này cung cấp thông tin tham
khảo cho các nhà đầu tư, nhà đầu tư tiềm
năng căn cứ xác định rủi ro khi DN quan
tâm có dấu hiệu sử dụng hành vi điều
chỉnh lợi nhuận nhằm làm ảnh hưởng
thông tin trên BCTC.
6.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng thông tin cho các thành
phần tham gia thị trường chứng
khoán
Thứ nhất, để đảm bảo lợi ích lâu dài
tránh sự hấp dẫn của lợi ích ngắn hạn trước
mắt, các DN niêm yết cần nâng cao nhận
thức hơn nữa về vai trò cung cấp thông tin
kế toán minh bạch, trung thực cho NĐT.
DN cần siết chặt hệ thống kiểm soát nội bộ
nhằm phát hiện những điểm sai sót và bất
hợp lí trong BCTC. Ngoài ra, những người
trực tiếp kí BCTC như Kế toán trưởng,
giám đốc phải có đủ trình độ và đạo đức
nghề nghiệp.
Thứ hai, để có được quyết định đầu tư
đúng đắn, nhằm giảm thiểu rủi ro, bản thân
NĐT cần trang bị đầy đủ những kiến thức
về kinh tế, tài chính và kế toán, đặc biệt là
về BCTC, phân tích logic các yếu tố cấu
thành nên BCTC để đánh giá chính xác
hơn về chỉ tiêu lợi nhuận. Tiếp theo đó là
NĐT cần được trang bị kiến thức cơ bản
về hành vi cũng như động cơ quản trị lợi
nhuận của nhà quản trị hay phương pháp
điều chỉnh, việc này cần NĐT phải theo
dõi BCTC của DN trong nhiều kỳ kế toán
liên tiếp để có thể đánh giá đúng đắn về giá
trị thực của DN, cần chú trọng các yếu tố
như sự thay đổi chính sách kế toán ảnh
hưởng như thế nào đến các khoản mục
doanh thu, chi phí, lợi nhuận để tránh khả
năng nhà quản trị lợi dụng việc thay đổi
chính sách kế toán nhằm thao túng lợi
nhuận, xem xét các chi phí mang tính chất
ước tính như chi phí trả trước, chi phí trích
trước, cơ sở lựa chọn số kỳ phân bổ, số kỳ
trích trước cũng hết sức quan trọng, NĐT
cần tìm hiểu kỹ. Bên cạnh đó NĐT cá nhân
cũng cần tránh tâm lý bầy đàn chạy theo
số đông mà bỏ qua các nguy cơ có thể có
trong các BCTC, hay kỳ vọng sai vào một
chứng khoán nhất định.
Thứ ba, đối với kiểm toán viên và các
công ty kiểm toán độc lập, việc kiểm toán
BCTC cần chú trọng đến tính trung thực
của thông tin trên BCTC đặc biệt là chỉ
tiêu liên quan đến lợi nhuận bên cạnh việc
xem xét tính tuân thủ chuẩn mực kế toán
của các DN, đi sâu xem xét đến các ước
tính kế toán. Áp dụng kết hợp nhiều biện
pháp trong quá trình kiểm tra các ước tính
kế toán.
Thứ tư, Bộ Tài Chính cần tiếp tục hoàn
thiện hệ thống chuẩn mực kế toán Việt
Nam theo hướng coi trọng các ước tính kế
toán để lập BCTC vì tuy nguy cơ vận dụng
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020
173
các ước tính kế toán để thực hiện hành vi
điều chỉnh lợi nhuận là hiện hữu nhưng
không vì thế mà bỏ qua những lợi ích mà
ước tính kế toán mang lại. Mà theo đó, cần
có nhưng hướng dẫn sử dụng các ước tính
kế toán, phải có cơ sở tính toán và xác định
phù hợp để tránh NQT có thể vận dụng để
điều chỉnh lợi nhuận theo ư muốn chủ
quan của họ. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính
cũng cần thường xuyên bổ sung, cập nhập
những chuẩn mực phù hợp với tình hình
thực tế phù với với đặc điểm thị trường
Việt Nam cần có những quy định, hướng
dẫn chi tiết, rõ ràng.Phát triển công tác đào
tạo kế toán, kiểm toán, thành lập các tổ
chức độc lập, chuyên nghiệp về kế toán,
kiểm toán, tương tác hỗ trợ với nhà nước
phát hiện sai phạm trong lĩnh vực kế toán,
kiểm toán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ajinkya, B., Bhojraj, S., &
Sengupta, P, 2005. The association
between outside director, institutional
investors and the properties of earnings
forecasts. Journal of Accounting
Research, 43, 343- 376.
2. Dechow, R., Sloan, G., and
Sweeney, A., P, 1995. Detecting
earnings management, The Accounting
Review,70 (2), 193-225.
3. Hoàng Khánh, Trần Thị Thu
Hiền, 2015. Phát hiện sai phạm BCTC
của các DN xây dựng niêm yết, Tạp chí
Kinh tế Phát triển, 218, 42-29.
4. Huỳnh Thị Vân, 2012. Nghiên
cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các
DN cổ phần trong năm đầu niêm yết
trên TTCK Việt Nam, Luận văn thạc sĩ.
Đại học Đà Nẵng.
5. Jones, J,1991. Earnings
Management During Import Relief
Investigations, Journal of Accounting
Research, 29, 193-228.
6. Kothari, Leone, Wasley, 2005.
Performance matched discretionary
accual measure, Journal of accounting
and economics, 39, 163-197.
7. Nguyễn Anh Hiền, Phạm Thanh
Trung, 2015. Kiểm định và nhận diện
mô hình nghiên cứu hành vi điều chỉnh
lợi nhuận của các DN niêm yết tại Việt
Nam. Tạp chí Phát triển KH và CN, 18
(Q3), 7-13.
8. Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
báo cáo tài chính của công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán – bằng
chứng thực nghiệm tại Việt Nam, Luận
án tiến sỹ, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh.
9. Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
báo cáo tài chính của công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán – bằng
chứng thực nghiệm tại Việt Nam, Luận
án tiến sỹ, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh.
10. Nguyễn Thị Phương Loan,
Nguyễn Minh Thao, 2016. Nhận diện
việc quản trị lợi nhuận thực tế của các
DN niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam, Tạp chí Phát triển
Khoa học và công nghệ, 19 (Q4), 81-93.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020
174
11. Nguyễn Thị Toàn, 2016. Các
nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị
lợi nhuận – Nghiên cứu tại các công ty
niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán
Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Đại học Kinh
tế TP. Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Trần Nguyên Trân,
2014. Nghiên cứu về sai sót BCTC của
các DN niêm yết trên TTCK Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ, Đại học Đà Nẵng.
13. Phạm Thị Bích Vân, 2012. Mô
hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi
nhuận của các DN niêm yết trên sàn
chứng khoán Hà Nội, Tạp chí Ngân
hàng (số 9) tháng (5/2012).
14. Phạm Thị Bích Vân, 2017. Điều
chỉnh lợi nhuận khi phát hành thêm cổ
phiếu của các công ty niêm yết trên
TTCK Việt Nam, Luận án tiến sĩ kế
toán, Đại học Đà Nẵng.
15. Phạm Thị Bích Vân, 2011.
Nghiên cứu ảnh hưởng của thuế TNDN
đến sự lựa chọn chính sách kế toán của
các DN trên địa bàn TP Đà Nẵng, Luận
văn thạc sĩ. Đại học Đà Nẵng.
16. Phạm Thị Bích Vân, 2013. Các
cách đo lường sự trung thực của chỉ tiêu
lợi nhuận, DN với ngân hàng số 01-
2013.
17. Phan Nguyễn Thùy Uyên, 2015.
Các nhân tố quản trị công ty ảnh hưởng
đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của
các công ty niêm yết trong trường hợp
có phát hành thêm cổ phiếu, Luận văn
thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đại học Đà
Nẵng.
18. Phan Thị Thùy Dương, 2013. Sử
dụng mô hình Jones để nhận diện điều
chỉnh lợi nhuận: Trường hợp các DN
niêm yết ở HOSE phát hành thêm cổ
phiếu năm 2013, Luận văn thạc sĩ. Đại
học Đà Nẵng.
19. Ronen J., Yaari V., 2008,
Earning management Emerging
insights in theory, practices and
research. Springer.
20. Schipper K, P,1989.
Commentary on Earnings Management,
Accounting Horizons, 3, 91-102.
21. Trần Thị Mỹ Tú, 2014. Phân tích
các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản
trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính tại
các công ty niêm yết trên HOSE, Luận
văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế TP. Hồ
Chí Minh.
22. Võ Văn Nhị, Hoàng Cẩm Trang,
2013. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận và
nguy cơ phá sản của các công ty niêm
yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.
Hồ Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu Kinh
tế và Kinh doanh Châu Á, 276, 48-57.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020
175
STUDYING PROFIT MANAGEMENT BEHAVIOR BASED ON
FINANCIAL REPORTS OF ENTERPRISES LISTED
ON THE VIETNAM STOCK MARKET
Dinh Cong Hien*, Tran Kieu Nga, Nguyen Thien Phong,
Vo Hong Hanh and Nguyen Phuong Tam
Faculty of Accounting – Finance and Banking, Tay Do University
(*Email: dchien@tdu.edu.vn)
ABSTRACT
The study was conducted to provide empirical evidence on management behavior in the financial
statements of enterprises in the Fisheries sector listed on the Vietnam Stock Exchange. Data were
collected from the financial statements of 15 businesses listed on the Ho Chi Minh Stock
Exchange and the Hanoi Stock Exchange belong to the Fisheries sector in the period from 2012
to 2018. Tabular data estimation and mean value testing were used, to answer the question:
“Whether or not the profit adjustment behavior of the are enterprises listed on Vietnam's stock
market? ". Through the implementation of appropriate testing, it could be concluded: Fisheries
enterprises listed on the Vietnam Stock Market all had behavior of profit adjustment with a
statistical significance of 5%.
Keywords: Cumulative basis, fisheries sector, profit management
File đính kèm:
nghien_cuu_hanh_vi_quan_tri_loi_nhuan_tren_bao_cao_tai_chinh.pdf

