Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Mục tiêu chính của nghiên cứu nhằm xem xét hành vi quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích

và thông qua các quyết định kinh tế tại các công ty có hoạt động phát hành thêm cổ phiếu trên thị

trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 824 trường hợp phát hành

thêm cổ phiếu trong giai đoạn từ 2008 đến 2018. Các biến đại diện cho hành vi quản trị lợi nhuận

được đo lường từ mô hình Dechow và cộng sự (1995); Roychowdhury (2006); Gunny (2010). Phù

hợp với kết quả nghiên cứu trước đây, các công ty có xu hướng điều chỉnh tăng lợi nhuận từ trước

một năm tính từ thời điểm ra thông báo về hoạt động phát hành thêm cổ phiếu. Người quản trị tại

các công ty này lựa chọn việc điều chỉnh lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích và thông qua việc đưa

ra các chính sách kinh tế nhằm tăng doanh thu như nới lỏng đánh giá về nợ cho khách hàng hoặc

giảm giá bán hàng hóa trong kỳ

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 1

Trang 1

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 2

Trang 2

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 3

Trang 3

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 4

Trang 4

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 5

Trang 5

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 6

Trang 6

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 7

Trang 7

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 8

Trang 8

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 9

Trang 9

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang viethung 3220
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Quản trị lợi nhuận tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 56, 04/2020
1
QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN TẠI CÁC CÔNG TY 
PHÁT HÀNH THÊM CỔ PHIẾU TRÊN 
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
EARNINGS MANAGEMENT AROUND SEASONED EQUITY 
OFFERINGS: THE CASE OF VIETNAM
Phạm Nguyễn Đình Tuấn, Trần Thị Bích Duyên1
Ngày nhận bài: 26/10/2019 Ngày chấp nhận đăng: 10/12/2019 Ngày đăng: 05/04/2020
Tóm tắt
Mục tiêu chính của nghiên cứu nhằm xem xét hành vi quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích 
và thông qua các quyết định kinh tế tại các công ty có hoạt động phát hành thêm cổ phiếu trên thị 
trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 824 trường hợp phát hành 
thêm cổ phiếu trong giai đoạn từ 2008 đến 2018. Các biến đại diện cho hành vi quản trị lợi nhuận 
được đo lường từ mô hình Dechow và cộng sự (1995); Roychowdhury (2006); Gunny (2010). Phù 
hợp với kết quả nghiên cứu trước đây, các công ty có xu hướng điều chỉnh tăng lợi nhuận từ trước 
một năm tính từ thời điểm ra thông báo về hoạt động phát hành thêm cổ phiếu. Người quản trị tại 
các công ty này lựa chọn việc điều chỉnh lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích và thông qua việc đưa 
ra các chính sách kinh tế nhằm tăng doanh thu như nới lỏng đánh giá về nợ cho khách hàng hoặc 
giảm giá bán hàng hóa trong kỳ.
Từ khóa: Quản trị lợi nhuận dựa vào cơ sở dồn tích; quản trị lợi nhuận thông qua quyết định kinh 
tế; phát hành thêm cổ phiếu.
Abstract
The primary of this study is to examine the accrual-based earnings management and real activities 
manipulation in the company that has seasoned equity offerings on the Vietnam exchange. We use 
four models from Dechow et al. (1995); Roychowdhury (2006); Gunny (2010) to measure earnings 
management in 824 cases from 2008 to 2018. Consistent with the previous research, seasoned 
equity issuers can raise reported earnings prior to the offering by altering discretionary accounting 
accruals and engage in real activities manipulation, such as acceleration of the timing of sales 
through increased price discounts or more lenient credit terms.
Keywords: Accrual-based earnings management; real activities manipulation; seasoned equity 
offering (SEO).
____________________________________________________
1 Trường Đại học Quy Nhơn
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 56, 04/2020
2
cho thấy người quản trị có động cơ lớn về lợi 
ích và do đó quản trị lợi nhuận được coi là một 
biện pháp để họ đạt được các lợi ích này. Điều 
này xuất phát bởi vì sự bất cân xứng thông tin 
giữa các công ty phát hành thêm cổ phiếu và thị 
trường dẫn đến chỉ tiêu lợi nhuận trên Báo cáo 
tài chính được xem là thước đo quan trọng để 
đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. Và như 
vậy, người quản trị với việc thực hiện quản trị 
lợi nhuận có thể điều chỉnh chỉ tiêu lợi nhuận 
tăng hoặc giảm theo ý muốn.
Trong bối cảnh phát hành thêm cổ phiếu 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nghiên 
cứu trước đây của Phạm Thị Bích Vân (2017) 
đã cho thấy người quản trị lựa chọn hành vi 
quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích để 
điều chỉnh tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, kết quả 
nghiên cứu còn nhiều hạn chế khi chỉ xét đối 
tượng nghiên cứu tại năm 2010 và tác giả chỉ 
đo lường quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn 
tích. Điều này để lại khoảng trống lớn trong 
nghiên cứu và cần thiết phải có nghiên cứu bổ 
sung một cách toàn diện và có xét đến quản trị 
lợi nhuận thông qua các quyết định kinh tế. Các 
nội dung sau của nghiên cứu được trình bày 
gồm: tổng quan nghiên cứu; cơ sở lý thuyết và 
xây dựng giả thuyết nghiên cứu; phương pháp 
nghiên cứu; kết quả nghiên cứu và bàn luận.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Quản trị lợi nhuận dựa vào cơ sở dồn 
tích và thông qua các quyết định kinh tế
Hiện nay, quản trị lợi nhuận được xem 
là một trong những cách thức điều chỉnh lợi 
nhuận được người quản trị lựa chọn thường 
xuyên vì nhiều mục đích. Mặc dù, hành vi quản 
trị lợi nhuận thường được xem xét trong giới 
hạn và vẫn chịu ảnh hưởng bởi quy định về kế 
toán hiện hành, tác động của nó vẫn là điều cần 
thiết phải có những đánh giá phù hợp. Theo Xu 
và cộng sự (2007), quản trị lợi nhuận dựa trên 
cơ sở dồn tích thực chất chỉ là sự chuyển dịch 
lợi nhuận kế toán giữa các kỳ. Người quản trị 
mong muốn điều chỉnh tăng lợi nhuận trong kỳ 
hiện tại, thì đòi hỏi phải có biện pháp dự trữ lợi 
1. Lời mở đầu
Quản trị lợi nhuận có thể được hiểu là việc 
người quản trị thay đổi chỉ tiêu lợi nhuận kế 
toán (tăng hoặc giảm) so với mức lợi nhuận 
đạt được ở mức hoạt động thông thường của 
doanh nghiệp. Điều này có thể được thực hiện 
thông qua việc vận dụng linh hoạt chính sách 
kế toán, phương pháp hoặc ước tính kế toán để 
điều chỉnh lợi nhuận. Bên cạnh đó, việc đưa 
ra các chính sách như nới lỏng nợ, giảm giá 
mạnh để gia tăng khách hàng, sản xuất thái quá 
sản phẩm nhằm giảm giá vốn hàng bán hoặc 
cắt giảm quá mức các chi phí tùy ý của doanh 
nghiệp cũng có tác động làm tăng lợi nhuận 
trong kỳ. Mặc dù, hành vi quản trị lợi nhuận 
vẫn được xem là nằm trong khuôn khổ chính 
sách, quy định kế toán và chưa đạt đến mức độ 
“gian lận kế toán” (Dechow và Skinner, 2000). 
Tuy nhiên, quản trị lợi nhuận dễ dẫn đến việc 
hiểu sai về tình hình hoạt động kinh doanh của 
doanh nghiệp. Và dù ban đầu, người quản trị 
lựa chọn quản trị lợi nhuận vì lợi ích cá nhân 
hay vì doanh nghiệp, xấu hay tốt (Jiraporn và 
cộng sự, 2008) thì kết quả vẫn có thể dẫn đến 
những thiệt hại cho bên sử dụng thông tin Báo 
cáo tài chính của doanh nghiệp. Chính vì lý do 
đó, hành vi quản trị lợi nhuận luôn là mục tiêu 
theo đuổi bởi nhiều nhà nghiên cứu cả trên thế 
giới và tại Việt Nam.
Hoạt động phát hành cổ phiếu là một sự 
kiện quan trọng của các công ty trên thị trường 
chứng khoán. Thứ nhất, nó giúp các công ty 
phát triển nhanh về vốn nhằm đáp ứng các 
yêu cầu về mở rộng sản xuất hoặc đầu tư,
Thứ hai, nó giúp công ty tránh các chi phí vốn 
phát sinh như chi phí lãi vay. Đứng về phía cá 
nhân người q ... 0888 0,7284
Năm t-1 735 0,0224 0,0004 0,1815 -0,9520 -0,0519 0,0167 0,0001 0,1001 0,6649
Năm t0 817 0,0449 0,0000 0,2010 -0,8759 -0,0505 0,0271 0,0000 0,1281 0,8279
Năm t1 773 0,0411 0,0000 0,1703 -0,5239 -0,0385 0,0304 0,0000 0,1071 0,8279
Năm t2 683 0,0140 0,0051 0,1423 -0,5296 -0,0514 0,0054 0,0540 0,0758 0,6481
Năm t3 594 0,0132 0,0079 0,1326 -0,5000 -0,0455 0,0134 0,0048 0,0723 0,5838
Năm t4 514 -0,0022 0,6575 0,1242 -0,5232 -0,0608 -0,0023 0,7733 0,0550 0,5500
Roychowdhury (2006) - Ab_CFO
Năm t-4 409 -0,0131 0,0674 0,1764 -0,7481 -0,0924 -0,0130 0,3834 0,0731 0,7431
Năm t-3 473 -0,0091 0,1259 0,1731 -0,7481 -0,0836 -0,0110 0,5000 0,0738 0,6847
Năm t-2 599 -0,0079 0,1205 0,1647 -0,6868 -0,0922 -0,0111 0,4351 0,0783 0,7026
Năm t-1 734 -0,0127 0,0351 0,1896 -0,6901 -0,0960 -0,0135 0,2416 0,0706 1,1907
Năm t0 824 -0,0272 0,0001 0,2081 -0,7481 -0,1158 -0,0186 0,0439 0,0721 0,8387
Năm t1 779 -0,0347 0,0000 0,1797 -0,7481 -0,1124 -0,0290 0,0013 0,0536 0,6378
Năm t2 689 -0,0118 0,0165 0,1452 -0,6380 -0,0803 -0,0091 0,6484 0,0551 0,6378
Năm t3 598 -0,0193 0,0002 0,1321 -0,5314 -0,0785 -0,0203 0,0151 0,0452 0,4696
Năm t4 518 -0,0099 0,0378 0,1266 -0,5698 -0,0691 -0,0142 0,3145 0,0564 0,4635
Gunny (2010) - Ab_PROD
Năm t-4 389 0,0098 0,3645 0,1620 -0,6902 -0,0685 0,0129 0,2893 0,0932 0,8577
Năm t-3 439 -0,0033 0,5866 0,1555 -0,6369 -0,0793 -0,0025 0,7318 0,0889 0,5276
Năm t-2 517 0,0047 0,3897 0,2112 -0,6563 -0,0825 0,0001 0,9319 0,0873 3,3051
Năm t-1 660 0,0128 0,0117 0,1909 -0,5728 -0,0759 0,0024 0,3931 0,0972 1,4779
Năm t0 779 0,0113 0,0154 0,2350 -1,2480 -0,0836 0,0027 0,5707 0,0934 3,3051
Năm t1 770 0,0164 0,0012 0,1569 -0,6902 -0,0578 0,0166 0,0287 0,0934 0,8430
Năm t2 682 0,0109 0,0273 0,1660 -1,4700 -0,0576 0,0114 0,0053 0,0837 1,2198
Năm t3 592 0,0137 0,0007 0,1459 -0,7755 -0,0498 0,0098 0,1178 0,0740 1,0164
Năm t4 513 0,0144 0,0006 0,1270 -0,4408 -0,0492 0,0159 0,0520 0,0770 0,7670
Gunny (2010) - Ab_SGA
Năm t-4 416 -0,0069 0,6171 0,0755 -0,2392 -0,0444 -0,0117 0,9828 0,0184 0,3441
Năm t-3 477 -0,0039 0,7061 0,0787 -0,2659 -0,0434 -0,0125 0,9965 0,0235 0,3243
Năm t-2 608 -0,0022 0,8368 0,0821 -0,3393 -0,0438 -0,0147 0,9597 0,0258 0,5039
Năm t-1 732 -0,0040 0,7342 0,0822 -0,3393 -0,0462 -0,0149 0,9705 0,0234 0,4240
Năm t0 818 -0,0079 0,6880 0,0822 -0,3204 -0,0493 -0,0153 0,9862 0,0193 0,4240
Năm t1 773 -0,0106 0,0215 0,0741 -0,3540 -0,0486 -0,0160 0,8245 0,0152 0,4067
Năm t2 684 -0,0122 0,0001 0,0662 -0,2817 -0,0477 -0,0167 0,2969 0,0129 0,3095
Năm t3 594 -0,0090 0,0023 0,0636 -0,1993 -0,0407 -0,0154 0,4513 0,0132 0,2949
Năm t4 515 -0,0036 0,0650 0,0682 -0,1993 -0,0401 -0,0110 0,8731 0,0167 0,4844
Giá trị p được trình bày cho kiểm định t (t test) một phía và kiểm định dấu hạng (sign test) một phía.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 56, 04/2020
10
t
-4
 đến t
-1
 và từ năm t
2
 trở đi hầu như chỉ duy trì 
ở mức 0% - 2% tổng tài sản, cho thấy đây là 
giai đoạn công ty không thực hiện quản trị lợi 
nhuận gắn với bối cảnh nghiên cứu. Kết quả 
này phù hợp với các nghiên cứu trước đây trên 
thế giới như Teoh và cộng sự (1998b); Cohen 
và Zarowin (2010)@ và trong bối cảnh Việt 
Nam của Phạm Thị Bích Vân (2017). Do đó, 
nghiên cứu chấp nhận giả thuyết H1 đã đặt ra 
cho thấy người quản trị các công ty phát hành 
thêm cổ phiếu đã thực hiện quản trị lợi nhuận 
dựa vào cơ sở dồn tích.
Bàn luận kết quả nghiên cứu
Dựa trên kết quả tại Bảng 3, giá trị DA tại 
các công ty phát hành thêm cổ phiếu có sự biến 
động lớn từ năm t
0
 đến hết t1. Với mức ý nghĩa 
1%, giá trị trung bình và trung vị của DA trong 
khoảng này cao bất thường so với các công ty 
khác trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 
Đặc biệt, giá trị DA trung bình cao nhất tại t
0
cho thấy lợi nhuận được điều chỉnh tăng trung 
bình gần 4,5% tổng tài sản và kéo dài hết năm t1 
với mức tăng trung bình đạt 4,1% tổng tài sản. 
Bên cạnh đó, giá trị DA đo lường tại các năm 
-1%
0%
1%
2%
3%
4%
5%
N ă m t -4 N ă m t -3 N ă m t -2 N ă m t -1 N ă m t 0 N ă m t 1 N ă m t 2 N ă m t 3 N ă m t 4
DA-trung bình DA-trung vị
Hình 2. Phân tích biến động DA tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu
Các chính sách bán hàng được người quản 
trị thực hiện có tác động đến lợi nhuận kế toán 
bao gồm việc nới lỏng đánh giá tín dụng (nợ) 
của khách hàng và đưa ra giá bán giảm mạnh 
so với kỳ trước. Kết quả này dẫn đến doanh thu 
tăng mạnh trong kỳ song về dòng tiền lại ít có 
sự tăng trưởng tương ứng. Do đó, biến Ab_CFO 
đại diện cho việc người quản trị áp dụng chính 
sách này có dấu âm (-) thể hiện sự ngược chiều 
cho hành vi quản trị lợi nhuận. Dựa trên kết quả 
đã trình bày ở Bảng 3, giá trị Ab_CFO suy giảm 
mạnh mẽ tại năm t
0
 và năm t1 cho thấy đây là 
thời điểm người quản trị đã thực hiện quản trị 
lợi nhuận với dòng tiền bất thường suy giảm 
trung bình gần 2,7% và 3,5% tổng tài sản lần 
lượt tại t
0
 và t1. Bên cạnh đó, giá trị Ab_CFO 
nhìn chung không có sự khác biệt trong các thời 
điểm xung quanh hai năm này cho thấy người 
quản trị chỉ thực hiện quản trị lợi nhuận gắn với 
bối cảnh phát hành thêm cổ phiếu. Và do đó, 
nghiên cứu chấp nhận giả thuyết H2A đã đặt 
ra cho thấy có người quản trị đã thực hiện các 
chính sách bán hàng nhằm điều chỉnh tăng lợi 
nhuận trong thời điểm phát hành thêm cổ phiếu. 
Kết quả này tương tự Cohen và Zarowin (2010) 
khi nghiên cứu tại Mỹ và có sự đóng góp lớn 
về bằng chứng thực chứng trong bối cảnh thị 
trường chứng khoán Việt Nam.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 56, 04/2020
11
tăng cao bất thường từ năm t
-1
 đến hết thời gian 
nghiên cứu tại năm t
4
 với mức ý nghĩa 1%. 
Trái ngược lại, giá trị trung vị bắt đầu tăng cao 
bất thường từ năm t1 và cũng kéo dài hết năm 
t
4
. Các kết quả này dường như cho thấy việc 
người quản trị đưa ra quyết định tăng sản xuất 
bất thường diễn ra sau thời điểm phát hành cổ 
phiếu (bắt đầu từ năm t1). Do đó, nghiên cứu 
bác bỏ giả thuyết H2B, cho thấy không có bằng 
chứng về mối liên hệ giữa quản trị lợi nhuận 
thông qua việc đưa ra chính sách sản xuất bất 
thường với sự kiện phát hành thêm cổ phiếu 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dù 
vậy, kết quả này trái ngược với nghiên cứu của 
Cohen và Zarowin (2010) tại Mỹ khi chỉ ra 
người quản trị điều chỉnh tăng cao Ab_PROD 
trong năm t
0
.
Nhằm đạt mục tiêu tăng lợi nhuận, bên cạnh 
việc tăng doanh thu người quản trị có thể lựa 
chọn cách thức nhằm giảm giá vốn hàng bán 
được ghi nhận trong kỳ. Theo đó, biến Ab_
PROD đại diện cho chi phí sản xuất tăng cao 
bất thường gắn với việc người quản trị ra quyết 
định tăng sản xuất một cách thái quá vượt quá 
nhu cầu tiêu thụ thực tế của doanh nghiệp. 
Theo đó, biến phí đơn vị sản xuất không đổi 
nhưng định phí đơn vị sản xuất sẽ giảm dẫn 
đến giá thành đơn vị sản phẩm giảm. Bởi vì 
số lượng hàng đã bán trong kỳ tương ứng với 
doanh thu được ghi nhận không thay đổi, việc 
giá thành sản xuất giảm sẽ giúp giá vốn hàng 
bán được ghi nhận giảm đi và từ đó lợi nhuận 
tăng lên. Dựa vào kết quả đo lường ở Bảng 3, 
giá trị trung bình của Ab_PROD có xu hướng 
-4,0%
-3,5%
-3,0%
-2,5%
-2,0%
-1,5%
-1,0%
-0,5%
0,0%
N ă m t -4 N ă m t -3 N ă m t -2 N ă m t -1 N ă m t 0 N ă m t 1 N ă m t 2 N ă m t 3 N ă m t 4
Ab_CFO-trung bình Ab_CFO-trung vị
Hình 3. Phân tích biến động Ab_CFO tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu
-0,5%
0,0%
0,5%
1,0%
1,5%
2,0%
N ă m t -4 N ă m t -3 N ă m t -2 N ă m t -1 N ă m t 0 N ă m t 1 N ă m t 2 N ă m t 3 N ă m t 4
Ab_PROD-trung bình Ab_PROD-trung vị
Hình 4. Phân tích biến động Ab_PROD tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 56, 04/2020
12
thấy sự khác biệt về chênh lệch giá trị trung vị. 
Điều này cho thấy hầu như các công ty phát 
hành thêm cổ phiếu không áp dụng chính sách 
cắt giảm chi phí bán hàng và quản lý doanh 
nghiệp nhằm tăng lợi nhuận. Vì không đủ bằng 
chứng thực chứng cho rằng có hành vi quản 
trị lợi nhuận thông qua việc cắt giảm chi phí, 
nhóm tác giả bác bỏ giả thuyết H2C đã đặt 
ra. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng không 
được ủng hộ so với kết quả từ thị trường chứng 
khoán Mỹ của Cohen và Zarowin (2010).
Việc cắt giảm chi phí trong doanh nghiệp 
mà ở đây là chi phí bán hàng và chi phí quản lý 
doanh nghiệp có thể giúp tăng lợi nhuận trong 
kỳ. Theo đó, khi người quản trị áp dụng chính 
sách cắt giảm chi phí để quản trị lợi nhuận thì 
giá trị biến Ab_SGA - chi phí tùy ý bất thường 
sẽ ghi nhận giá trị âm. Dựa trên kết quả đo 
lường đã trình bày ở Bảng 3, dường như giá 
trị trung bình của biến Ab_SGA chỉ thật sự suy 
giảm mạnh kể từ sau năm t1 với mức ý nghĩa 
1% và kết quả kiểm định kiểm hạng không cho 
-1,8%
-1,6%
-1,4%
-1,2%
-1,0%
-0,8%
-0,6%
-0,4%
-0,2%
0,0%
N ă m t -4 N ă m t -3 N ă m t -2 N ă m t -1 N ă m t 0 N ă m t 1 N ă m t 2 N ă m t 3 N ă m t 4
Ab_SGA-trung bình Ab_SGA-trung vị
Hình 5. Phân tích biến động Ab_SGA tại các công ty phát hành thêm cổ phiếu
6. Kết luận
Vấn đề quản trị lợi nhuận trong bối cảnh các 
công ty phát hành thêm cổ phiếu dù đã được 
đề cập đến trong nghiên cứu trước đây tại Việt 
Nam. Tuy nhiên, hạn chế về số lượng quan sát 
cùng quãng thời gian và mô hình nghiên cứu 
khiến cho các kết luận chưa thể bao quát hết 
cách thức người quản trị thực hiện quản trị lợi 
nhuận. Bằng cách mở rộng thời gian nghiên cứu 
từ 2008 đến 2018 với 824 trường hợp phát hành 
thêm cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt 
Nam kết hợp với việc đo lường đồng thời hành 
vi quản trị lợi nhuận dựa trên cơ sở dồn tích 
và thông qua các quyết định kinh tế. Kết quả 
nghiên cứu đã cung cấp các bằng chứng thực 
chứng quan trọng cho thấy người quản trị có xu 
hướng điều chỉnh tăng lợi nhuận từ trước một 
năm tính từ thời điểm công bố thông tin về hoạt 
động phát hành. Theo đó, lợi nhuận được điều 
chỉnh thông qua việc lựa chọn các chính sách kế 
toán, ước tính kế toán hoặc tăng doanh thu do 
các quyết định về đánh giá nợ cho khách hàng 
hay giảm giá bán trong kỳ.
Tài liệu tham khảo
Baber, W. R., Fairfield, P. M., & Haggard, J. A. (1991). The effect of concern about reported income on 
discretionary spending decisions: The case of research and development. The Accounting Review, 818-
829.
Ball, R., & Shivakumar, L. (2008). Earnings quality at initial public offerings. Journal of Accounting and 
Economics, 45(2), 324-349.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 56, 04/2020
13
Beyer, A. (2009). Capital market prices, management forecasts, and earnings management. The Accounting 
Review, 84(6), 1713-1747.
Bushee, B. J. (1998). The influence of institutional investors on myopic R&D investment behavior. The 
Accounting Review, 305-333.
Cheng, S. (2004). R&D expenditures and CEO compensation. The Accounting Review, 79(2), 305-328.
Cheung, C. S., & Krinsky, I. (1994). Information asymmetry and the underpricing of initial public offerings: 
Further empirical evidence. Journal of Business Finance & Accounting, 21(5), 739-747.
Chi, W., Lisic, L. L., & Pevzner, M. (2011). Is enhanced audit quality associated with greater real earnings 
management? Accounting horizons, 25(2), 315-335.
Cohen, D. A., & Zarowin, P. (2010). Accrual-based and real earnings management activities around seasoned 
equity offerings. Journal of Accounting and Economics, 50(1), 2-19.
Dechow, P. M., & Skinner, D. J. (2000). Earnings management: Reconciling the views of accounting 
academics, practitioners, and regulators. Accounting horizons, 14(2), 235-250.
Dechow, P. M., Sloan, R. G., & Sweeney, A. P. (1995). Detecting earnings management. The Accounting 
Review, 193-225.
Fan, Q. (2007). Earnings management and ownership retention for initial public offering firms: Theory and 
evidence. The Accounting Review, 82(1), 27-64.
Graham, J. R., Harvey, C. R., & Rajgopal, S. (2005). The economic implications of corporate financial 
reporting. Journal of Accounting and Economics, 40(1), 3-73.
Gunny, K. A. (2010). The relation between earnings management using real activities manipulation and 
future performance: Evidence from meeting earnings benchmarks. Contemporary Accounting Research, 
27(3), 855-888.
Healy, P. M. (1985). The effect of bonus schemes on accounting decisions. Journal of Accounting and 
Economics, 7(1-3), 85-107.
Jensen, M. C. (1986). Agency costs of free cash flow, corporate finance, and takeovers. The American 
economic review, 76(2), 323-329.
Jiraporn, P., Miller, G. A., Yoon, S. S., & Kim, Y. S. (2008). Is earnings management opportunistic or 
beneficial? An agency theory perspective. International Review of Financial Analysis, 17(3), 622-634.
Jones, J. J. (1991). Earnings management during import relief investigations. Journal of Accounting 
Research, 29, 193-228.
Kothari, S. P., Leone, A. J., & Wasley, C. E. (2005). Performance matched discretionary accrual measures. 
Journal of Accounting and Economics, 39(1), 163-197.
Phạm Thị Bích Vân. (2017). Quản trị lợi nhuận khi phát hành thêm cổ phiếu của các công ty niêm yết trên 
thị trường chứng khoán Việt Nam. (Luận án Tiến sĩ), Trường Đại học Đà Nẵng, 
Roychowdhury, S. (2006). Earnings management through real activities manipulation. Journal of Accounting 
and Economics, 42(3), 335-370.
Teoh, S. H., Welch, I., & Wong, T. J. (1998a). Earnings management and the long-run market performance 
of initial public offerings. The Journal of Finance, 53(6), 1935-1974.
Teoh, S. H., Welch, I., & Wong, T. J. (1998b). Earnings management and the underperformance of seasoned 
equity offerings. Journal of financial economics, 50(1), 63-99.
Xu, R. Z., Taylor, G. K., & Dugan, M. T. (2007). Review of real earnings management literature. Journal of 
Accounting Literature, 26, 195-228.
Zang, A. Y. (2012). Evidence on the trade-off between real activities manipulation and accrual-based 
earnings management. The Accounting Review, 87(2), 675-703.

File đính kèm:

  • pdfquan_tri_loi_nhuan_tai_cac_cong_ty_phat_hanh_them_co_phieu_t.pdf