Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về hành vi quản trị lợi

nhuận trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành Thuỷ sản được niêm yết

trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Dựa trên số liệu thu thập từ báo cáo tài chính của 15

doanh nghiệp đang niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Sở giao dịch

Chứng khoán Hà Nội thuộc nhóm ngành Thủy sản trong giai đoạn từ 2012 đến 2018, sử dụng

phương pháp ước lượng dữ liệu bảng và kiểm định trị trung bình để trả lời câu hỏi:“Có hay

không hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết

trên thị trường chứng khoán Việt Nam?”. Thông qua việc thực hiện kiểm định phù hợp, có thể

kết luận rằng các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường Chứng khoán Việt Nam trong nhóm

ngành Thủy sản đều có hành vi điều chỉnh lợi nhuận với mức ý nghĩa thống kê 5%.

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 1

Trang 1

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 2

Trang 2

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 3

Trang 3

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 4

Trang 4

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 5

Trang 5

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 6

Trang 6

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 7

Trang 7

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 8

Trang 8

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 9

Trang 9

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 17 trang viethung 4520
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020 
159 
NGHIÊN CỨU HÀNH VI QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN TRÊN BÁO CÁO 
TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC NHÓM NGÀNH 
THỦY SẢN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 
VIỆT NAM 
Đinh Công Hiển*, Trần Kiều Nga**, Nguyễn Thiện Phong, 
Võ Hồng Hạnh và Nguyễn Phương Tâm 
Khoa Kế toán – TCNH, Trường Đại học Tây Đô 
(*Email: dchien@tdu.edu.vn) 
Ngày nhận: 15/6/2020 
Ngày phản biện: 09/8/2020 
Ngày duyệt đăng: 17/9/2020 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về hành vi quản trị lợi 
nhuận trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành Thuỷ sản được niêm yết 
trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Dựa trên số liệu thu thập từ báo cáo tài chính của 15 
doanh nghiệp đang niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh và Sở giao dịch 
Chứng khoán Hà Nội thuộc nhóm ngành Thủy sản trong giai đoạn từ 2012 đến 2018, sử dụng 
phương pháp ước lượng dữ liệu bảng và kiểm định trị trung bình để trả lời câu hỏi:“Có hay 
không hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành thủy sản niêm yết 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam?”. Thông qua việc thực hiện kiểm định phù hợp, có thể 
kết luận rằng các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường Chứng khoán Việt Nam trong nhóm 
ngành Thủy sản đều có hành vi điều chỉnh lợi nhuận với mức ý nghĩa thống kê 5%. 
Từ khóa: Cơ sở dồn tích, ngành thủy sản, quản trị lợi nhuận 
Trích dẫn: Đinh Công Hiển, Trần Kiều Nga, Nguyễn Thiện Phong, Võ Hồng Hạnh, Nguyễn 
Phương Tâm, 2020. Nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính của 
các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành Thủy sản niêm yết trên thị trường chứng khoán 
Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây 
Đô. 09: 159-175. 
**TS. Trần Kiều Nga – Trưởng Khoa Kế toán - TCNH, Trường Đại học Tây Đô
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020 
160 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thông tin lợi nhuận trên báo cáo tài 
chính (BCTC) luôn được các nhà đầu tư 
quan tâm nhiều nhất và cũng là thông tin 
mà nhà các nhà quản trị doanh nghiệp 
(DN) có xu hướng tác động vào nhiều 
nhất. Tuy nhiên, hành động quản trị lợi 
nhuận tuân thủ khuôn khổ pháp lý và vận 
dụng khéo léo, linh hoạt các “khoảng 
không tự do” mà chuẩn mực kế toán để lại 
để “sắp xếp” BCTC theo cách thuận lợi 
nhất cho DN hay cho chính nhà quản trị 
nên không được xem là hành động phi 
pháp. 
Mặt khác, gần đây đã có rất nhiều 
nghiên cứu đưa ra các bằng chứng thực 
nghiệm trong bối cảnh thị trường chứng 
khoán (TTCK) Việt Nam cho thấy sự xuất 
hiện của hành vi quản trị lợi nhuận. Trong 
đó, lợi nhuận có thể được điều chỉnh tăng 
nhằm tăng giá trị doanh nghiệp khi phát 
hành cổ phiếu hoặc thu hút nhà đầu tư 
trong năm niêm yết đầu tiên hoặc lợi 
nhuận cũng có thể được điều chỉnh giảm 
nhằm giảm số thuế Thu nhập doanh 
nghiệp (TNDN) phải nộp khi có sự thay 
đổi thuế suất... Dù vậy, hạn chế chung của 
các nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung 
với nhóm đối tượng là các DN niêm yết 
trên Sở giao dịch Chứng khoán TP. Hồ 
Chí Minh (HOSE) và Sở giao dịch Chứng 
khoán Hà Nội (HNX) mà bỏ qua nghiên 
cứu ảnh hưởng của hành vi quản trị lợi 
nhuận đối với một nhóm ngành cụ thể với 
những đặc thù riêng của ngành nghề đó. 
Ngoài ra, trong những năm gần đây, 
một loạt sai lệch thông tin về lợi nhuận 
được công bố trên BCTC trước và sau 
kiểm toán của các DN thuộc nhóm ngành 
Thủy sản niêm yết trên TTCK Việt Nam 
đã gây nhiều lo lắng cho các nhà đầu tư và 
các bên liên quan. Điều này đặt ra câu hỏi 
“Có hay không hành vi quản trị lợi nhuận 
của các DN ngành Thủy sản niêm yết trên 
TTCK tại Việt Nam?” Hiện nay, có rất 
nhiều mô hình nhận diện quản trị lợi 
nhuận, tuy nhiên mô hình được cho là hiệu 
quả trong việc nhận diện quản lợi nhuận 
trên thế giới là mô hình Jones điều chỉnh 
năm 1995, nhóm tác giả sử dụng mô hình 
này cho nghiên cứu nhằm giúp các đối 
tượng sử dụng thông tin có được luồng 
thông tin chính xác hơn về kết quả hoạt 
động kinh doanh của DN có thể đưa ra 
quyết định đúng đắn hơn. 
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 
2.1. Quản trị lợi nhuận và mục 
đích quản trị lợi nhuận 
2.1.1. Khái niệm quản trị lợi nhuận 
Trong bài nghiên cứu của mình, 
Schipper (1989) đã đưa ra khái niệm về 
việc quản trị lợi nhuận: “Quản trị lợi nhuận 
là một sự can thiệp có cân nhắc trong quá 
trình cung cấp thông tin tài chính nhằm đạt 
được những mục đích cá nhân”. Trong khi 
đó, Ronen và Yaari (2008) cho rằng: 
“Quản trị lợi nhuận là hành vi của Ban 
giám đốc sử dụng việc ghi nhận trên cơ sở 
dồn tích thông qua một số tài khoản để làm 
thay đổi lợi nhuận sau thuế theo các mục 
tiêu công bố thông tin của họ”. Như vậy, 
quản trị lợi nhuận có thể hiểu là hành động 
làm thay đổi số liệu lợi nhuận trong quá 
trình cung cấp thông tin ra bên ngoài có 
chủ đích của nhà quản trị nhằm đạt được 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020 
161 
mục tiêu lợi nhuận mục tiêu thông qua 
công cụ kế toán. 
2.1.2. Mục đích quản trị lợi nhuận 
Mục đích mà nhà quản trị thực hiện 
hành vi điều chỉnh lợi nhuận có thể là: 
- Chế độ trả công cho nhà quản trị: Các 
nhà quản trị sẽ tìm cách thay đổi lợi nhuận 
thực tế để có thể nhận được thưởng và chia 
lợi nhuận tại một thời điểm nào đó, hoặc 
trường hợp, trong hợp đồng thù lao giữa 
nhà quản trị và DN có điều khoản, nếu lợi 
nhuận đạt tối thiểu đến mức X đồng thì 
nhà quản trị sẽ được Y đồng tiền lương 
(thưởng). 
- Đảm bảo xu hướng lợi nhuận bền 
vững trong các kỳ kế toán: Các DN niêm 
yết có chiều hướng quản trị lợi nhuận theo 
hướng sang bằng lợi nhuận nhằm đạt được 
sự ổn định về lợi nhuận giữa các kỳ kế 
toán. 
- Để được chấm điểm tín dụng tốt: Các 
ngân hàng hay các tổ chức tín dụng thường 
căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận để đánh giá 
hiệu quả sử dụng vốn trong quá khứ của 
DN để xem xét xem liệu có ... ) 0,3216 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2016 NGC (0,0813) (0,4005) 0,3192 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2017 NGC 0,0117 (0,4286) 0,4404 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2018 NGC 0,0028 (0,4097) 0,4125 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2012 SJ1 0,2579 (0,2956) 0,5535 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2013 SJ1 0,1458 (0,2917) 0,4375 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2014 SJ1 0,1703 (0,2846) 0,4549 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2015 SJ1 0,0241 (0,2612) 0,2853 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2016 SJ1 0,1809 (0,5871) 0,7680 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2017 SJ1 0,0958 (0,3578) 0,4536 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2018 SJ1 0,0669 (0,3427) 0,4096 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2012 TS4 0,0227 (0,3187) 0,3414 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2013 TS4 (0,0549) (0,3034) 0,2486 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2014 TS4 0,0069 (0,2425) 0,2494 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2015 TS4 0,0388 (0,2510) 0,2898 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2016 TS4 (0,0903) (0,1984) 0,1082 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2017 TS4 (0,0231) (0,2608) 0,2376 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2018 TS4 (0,0495) (0,1813) 0,1317 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2012 VHC 0,0343 (0,3218) 0,3562 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2013 VHC 0,2765 (0,4887) 0,7652 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2014 VHC 0,1566 (0,4606) 0,6172 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2015 VHC 0,0390 (0,3688) 0,4078 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2016 VHC 2,8954 2,6900 0,2054 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
2017 VHC (2,3303) (1,0140) (1,3163) DN điều chỉnh giảm lợi nhuận 
2018 VHC 0,1077 (0,3758) 0,4835 DN điều chỉnh tăng lợi nhuận 
(Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu, 2020) 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020 
171 
5.3. Kiểm định giả thuyết 
Sau khi có được kết quả, để đánh giá độ 
chính xác của nhận định mà đề tài nghiên 
cứu đã đề cập phía trên, nhóm tác giả thực 
hiện kiểm định giả thuyết với 105 quan sát 
(15 DN trong giai đoạn từ 2012 đến 2018) 
với trung bình mẫu là 0,2351 và độ lệch 
chuẩn là 0,2757 để kiểm định giả thuyết: 
Các DN Thủy sản niêm yết trên TTCK 
Việt Nam có điều chỉnh lợi nhuận với mức 
ý nghĩa thống kê 5%. 
Giả thuyết 1: {
𝐻0: 𝜇 = 𝜇0 = 0
𝐻1: 𝜇 ≠ 0
Kiểm định: 
𝑡 = 
(�̅� − 𝜇0)√𝑛
𝑠
=
(0,2351 − 0)√105
0,2757
= 8,7379 
Tra bảng t1-α/2 = t0,025 =1,96 
Ta có: t = 8,7379 > 1,96 = t1-α/2 
Kết luận: Chấp nhận giả thuyết hay nói 
cách khác các DN Thủy sản niêm yết trên 
TTCK Việt Nam có điều chỉnh lợi nhuận 
với mức ý nghĩa thống kê 5%. 
Giải thích cho điều này, có thể dotrong 
bối cảnh TTCK Việt Nam còn nhiều quy 
định chưa chặt chẽ và còn nhiều chuẩn 
mực, văn bản hướng dẫn chưa rõ ràng, để 
lại nhiều khoản trống thì khả năng DN 
thực hiện báo cáo lợi nhuận linh hoạt là 
điều tất yếu xảy ra, vì ban điều hành DN 
với tư cách là người làm thuê chịu áp lực 
về lợi nhuận với chủ DN. Thêm nữa, ý 
thức tuân thủ pháp luật về kế toán - kiểm 
toán của các DN niêm yết chưa cao, các 
DN công bố các BCTC còn nặng về hình 
thức, không đầy đủ, thiếu chi tiết điều này 
gây cản trở sự đánh giá thực trạng tài chính 
DN của các NĐT. Ngoài ra, phải nói đến 
năng lực và trách nhiệm của các tổ chức, 
cơ quan quản lý được giao nhiệm vụ kiểm 
tra, kiểm soát. Không ít trường hợp BCTC 
của DN chậm nộp, chậm công bố, công bố 
thông tin không đầy đủ, không chính xác 
theo quy định của pháp luật vẫn không bị 
phát hiện và xử lý đúng mức. 
6. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
6.1. Kết luận 
Chất lượng thông tin trên BCTC của 
các DN niêm yết đang là một vấn đề thu 
hút nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý, 
NĐT,... Một trong những nguyên nhân 
quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng 
BCTC của các DN niêm yết là hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý. 
Để nhận diện được hành vi điều chỉnh 
lợi nhuận phương pháp tối ưu là kiểm tra, 
đối chiếu trực tiếp giữa BCTC với các 
chứng từ sổ sách có liên quan của DN nghi 
ngờ có điều chỉnh lợi nhuận. Tuy nhiên, 
phương pháp này thường chỉ được thực 
hiện thông qua các cơ quan có thẩm quyền 
như kiểm toán, thanh tra,... Các đối tượng 
sử dụng thông tin khác như các nhà nghiên 
cứu, NĐT khó sử dụng phần vì DN không 
muốn người bên ngoài DN biết những 
thông tin chi tiết những chứng từ, các loại 
sổ sách liên quan cũng như những hoạt 
động tại DN họ, phần vì số mẫu quá lớn 
nhà nghiên cứu không thể đi phỏng vấn 
trực tiếp hay đi khảo sát thực tế tại từng 
DN được. Do đó, các nhà nghiên cứu 
thường đưa ra các mô hình để nhận diện 
các hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Trên thế 
giới đã có mô hình được xây dựng để nhận 
diện hành vi quản trị lợi nhuận của nhà 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020 
172 
quản lý, trong đó mô hình Jones điều chỉnh 
1995 được cho là hiệu quả trong việc phát 
hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các 
nước phát triển như: Anh, Mỹ và một số 
nước như Malaysia, Taiwan 
Sau khi nghiên cứu 15 DN thuộc nhóm 
ngành thủy sản đang niêm yết trên Thị 
trường Chứng khoán Việt Nam trong giai 
đoạn từ 2012 - 2018 bằng mô hình Jones 
điều chỉnh 1995, có thể kết luận: Các DN 
được nghiên cứu đều có hành vi điều chỉnh 
lợi nhuận trong năm 2018. Tùy theo đặc 
điểm của quy mô của từng DN mà họ có 
thể đều chỉnh tăng hoặc điều chỉnh giảm. 
Nghiên cứu này cung cấp thông tin tham 
khảo cho các nhà đầu tư, nhà đầu tư tiềm 
năng căn cứ xác định rủi ro khi DN quan 
tâm có dấu hiệu sử dụng hành vi điều 
chỉnh lợi nhuận nhằm làm ảnh hưởng 
thông tin trên BCTC. 
6.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu 
quả sử dụng thông tin cho các thành 
phần tham gia thị trường chứng 
khoán 
Thứ nhất, để đảm bảo lợi ích lâu dài 
tránh sự hấp dẫn của lợi ích ngắn hạn trước 
mắt, các DN niêm yết cần nâng cao nhận 
thức hơn nữa về vai trò cung cấp thông tin 
kế toán minh bạch, trung thực cho NĐT. 
DN cần siết chặt hệ thống kiểm soát nội bộ 
nhằm phát hiện những điểm sai sót và bất 
hợp lí trong BCTC. Ngoài ra, những người 
trực tiếp kí BCTC như Kế toán trưởng, 
giám đốc phải có đủ trình độ và đạo đức 
nghề nghiệp. 
Thứ hai, để có được quyết định đầu tư 
đúng đắn, nhằm giảm thiểu rủi ro, bản thân 
NĐT cần trang bị đầy đủ những kiến thức 
về kinh tế, tài chính và kế toán, đặc biệt là 
về BCTC, phân tích logic các yếu tố cấu 
thành nên BCTC để đánh giá chính xác 
hơn về chỉ tiêu lợi nhuận. Tiếp theo đó là 
NĐT cần được trang bị kiến thức cơ bản 
về hành vi cũng như động cơ quản trị lợi 
nhuận của nhà quản trị hay phương pháp 
điều chỉnh, việc này cần NĐT phải theo 
dõi BCTC của DN trong nhiều kỳ kế toán 
liên tiếp để có thể đánh giá đúng đắn về giá 
trị thực của DN, cần chú trọng các yếu tố 
như sự thay đổi chính sách kế toán ảnh 
hưởng như thế nào đến các khoản mục 
doanh thu, chi phí, lợi nhuận để tránh khả 
năng nhà quản trị lợi dụng việc thay đổi 
chính sách kế toán nhằm thao túng lợi 
nhuận, xem xét các chi phí mang tính chất 
ước tính như chi phí trả trước, chi phí trích 
trước, cơ sở lựa chọn số kỳ phân bổ, số kỳ 
trích trước cũng hết sức quan trọng, NĐT 
cần tìm hiểu kỹ. Bên cạnh đó NĐT cá nhân 
cũng cần tránh tâm lý bầy đàn chạy theo 
số đông mà bỏ qua các nguy cơ có thể có 
trong các BCTC, hay kỳ vọng sai vào một 
chứng khoán nhất định. 
Thứ ba, đối với kiểm toán viên và các 
công ty kiểm toán độc lập, việc kiểm toán 
BCTC cần chú trọng đến tính trung thực 
của thông tin trên BCTC đặc biệt là chỉ 
tiêu liên quan đến lợi nhuận bên cạnh việc 
xem xét tính tuân thủ chuẩn mực kế toán 
của các DN, đi sâu xem xét đến các ước 
tính kế toán. Áp dụng kết hợp nhiều biện 
pháp trong quá trình kiểm tra các ước tính 
kế toán. 
Thứ tư, Bộ Tài Chính cần tiếp tục hoàn 
thiện hệ thống chuẩn mực kế toán Việt 
Nam theo hướng coi trọng các ước tính kế 
toán để lập BCTC vì tuy nguy cơ vận dụng 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020 
173 
các ước tính kế toán để thực hiện hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận là hiện hữu nhưng 
không vì thế mà bỏ qua những lợi ích mà 
ước tính kế toán mang lại. Mà theo đó, cần 
có nhưng hướng dẫn sử dụng các ước tính 
kế toán, phải có cơ sở tính toán và xác định 
phù hợp để tránh NQT có thể vận dụng để 
điều chỉnh lợi nhuận theo ư muốn chủ 
quan của họ. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính 
cũng cần thường xuyên bổ sung, cập nhập 
những chuẩn mực phù hợp với tình hình 
thực tế phù với với đặc điểm thị trường 
Việt Nam cần có những quy định, hướng 
dẫn chi tiết, rõ ràng.Phát triển công tác đào 
tạo kế toán, kiểm toán, thành lập các tổ 
chức độc lập, chuyên nghiệp về kế toán, 
kiểm toán, tương tác hỗ trợ với nhà nước 
phát hiện sai phạm trong lĩnh vực kế toán, 
kiểm toán. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ajinkya, B., Bhojraj, S., & 
Sengupta, P, 2005. The association 
between outside director, institutional 
investors and the properties of earnings 
forecasts. Journal of Accounting 
Research, 43, 343- 376. 
2. Dechow, R., Sloan, G., and 
Sweeney, A., P, 1995. Detecting 
earnings management, The Accounting 
Review,70 (2), 193-225. 
3. Hoàng Khánh, Trần Thị Thu 
Hiền, 2015. Phát hiện sai phạm BCTC 
của các DN xây dựng niêm yết, Tạp chí 
Kinh tế Phát triển, 218, 42-29. 
4. Huỳnh Thị Vân, 2012. Nghiên 
cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các 
DN cổ phần trong năm đầu niêm yết 
trên TTCK Việt Nam, Luận văn thạc sĩ. 
Đại học Đà Nẵng. 
5. Jones, J,1991. Earnings 
Management During Import Relief 
Investigations, Journal of Accounting 
Research, 29, 193-228. 
6. Kothari, Leone, Wasley, 2005. 
Performance matched discretionary 
accual measure, Journal of accounting 
and economics, 39, 163-197. 
7. Nguyễn Anh Hiền, Phạm Thanh 
Trung, 2015. Kiểm định và nhận diện 
mô hình nghiên cứu hành vi điều chỉnh 
lợi nhuận của các DN niêm yết tại Việt 
Nam. Tạp chí Phát triển KH và CN, 18 
(Q3), 7-13. 
8. Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016. 
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng 
báo cáo tài chính của công ty niêm yết 
trên thị trường chứng khoán – bằng 
chứng thực nghiệm tại Việt Nam, Luận 
án tiến sỹ, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí 
Minh. 
9. Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016. 
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng 
báo cáo tài chính của công ty niêm yết 
trên thị trường chứng khoán – bằng 
chứng thực nghiệm tại Việt Nam, Luận 
án tiến sỹ, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí 
Minh. 
10. Nguyễn Thị Phương Loan, 
Nguyễn Minh Thao, 2016. Nhận diện 
việc quản trị lợi nhuận thực tế của các 
DN niêm yết trên thị trường chứng 
khoán Việt Nam, Tạp chí Phát triển 
Khoa học và công nghệ, 19 (Q4), 81-93. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020 
174 
11. Nguyễn Thị Toàn, 2016. Các 
nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị 
lợi nhuận – Nghiên cứu tại các công ty 
niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán 
Hà Nội, Luận văn Thạc sỹ Đại học Kinh 
tế TP. Hồ Chí Minh. 
12. Nguyễn Trần Nguyên Trân, 
2014. Nghiên cứu về sai sót BCTC của 
các DN niêm yết trên TTCK Việt Nam, 
Luận án Tiến sĩ, Đại học Đà Nẵng. 
13. Phạm Thị Bích Vân, 2012. Mô 
hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi 
nhuận của các DN niêm yết trên sàn 
chứng khoán Hà Nội, Tạp chí Ngân 
hàng (số 9) tháng (5/2012). 
14. Phạm Thị Bích Vân, 2017. Điều 
chỉnh lợi nhuận khi phát hành thêm cổ 
phiếu của các công ty niêm yết trên 
TTCK Việt Nam, Luận án tiến sĩ kế 
toán, Đại học Đà Nẵng. 
15. Phạm Thị Bích Vân, 2011. 
Nghiên cứu ảnh hưởng của thuế TNDN 
đến sự lựa chọn chính sách kế toán của 
các DN trên địa bàn TP Đà Nẵng, Luận 
văn thạc sĩ. Đại học Đà Nẵng. 
16. Phạm Thị Bích Vân, 2013. Các 
cách đo lường sự trung thực của chỉ tiêu 
lợi nhuận, DN với ngân hàng số 01-
2013. 
17. Phan Nguyễn Thùy Uyên, 2015. 
Các nhân tố quản trị công ty ảnh hưởng 
đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của 
các công ty niêm yết trong trường hợp 
có phát hành thêm cổ phiếu, Luận văn 
thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đại học Đà 
Nẵng. 
18. Phan Thị Thùy Dương, 2013. Sử 
dụng mô hình Jones để nhận diện điều 
chỉnh lợi nhuận: Trường hợp các DN 
niêm yết ở HOSE phát hành thêm cổ 
phiếu năm 2013, Luận văn thạc sĩ. Đại 
học Đà Nẵng. 
19. Ronen J., Yaari V., 2008, 
Earning management Emerging 
insights in theory, practices and 
research. Springer. 
20. Schipper K, P,1989. 
Commentary on Earnings Management, 
Accounting Horizons, 3, 91-102. 
21. Trần Thị Mỹ Tú, 2014. Phân tích 
các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản 
trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính tại 
các công ty niêm yết trên HOSE, Luận 
văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế TP. Hồ 
Chí Minh. 
22. Võ Văn Nhị, Hoàng Cẩm Trang, 
2013. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận và 
nguy cơ phá sản của các công ty niêm 
yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP. 
Hồ Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu Kinh 
tế và Kinh doanh Châu Á, 276, 48-57. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 09 - 2020 
175 
STUDYING PROFIT MANAGEMENT BEHAVIOR BASED ON 
FINANCIAL REPORTS OF ENTERPRISES LISTED 
ON THE VIETNAM STOCK MARKET 
Dinh Cong Hien*, Tran Kieu Nga, Nguyen Thien Phong, 
Vo Hong Hanh and Nguyen Phuong Tam 
Faculty of Accounting – Finance and Banking, Tay Do University 
(*Email: dchien@tdu.edu.vn) 
ABSTRACT 
The study was conducted to provide empirical evidence on management behavior in the financial 
statements of enterprises in the Fisheries sector listed on the Vietnam Stock Exchange. Data were 
collected from the financial statements of 15 businesses listed on the Ho Chi Minh Stock 
Exchange and the Hanoi Stock Exchange belong to the Fisheries sector in the period from 2012 
to 2018. Tabular data estimation and mean value testing were used, to answer the question: 
“Whether or not the profit adjustment behavior of the are enterprises listed on Vietnam's stock 
market? ". Through the implementation of appropriate testing, it could be concluded: Fisheries 
enterprises listed on the Vietnam Stock Market all had behavior of profit adjustment with a 
statistical significance of 5%. 
Keywords: Cumulative basis, fisheries sector, profit management 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_hanh_vi_quan_tri_loi_nhuan_tren_bao_cao_tai_chinh.pdf