Nghiên cứu độ nhạy của sơ đồ tham số hóa vật lý trong mô hình khí hậu khu vực đối với mô phỏng hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới trên Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông
Nghiên cứu này khảo độ nhạy của các sơ đồ tham số hóa vật lý trong hai mô hình động
lực khu vực clWRF (the climate Weather Research and Forecast) và RegCM (the Regional Climate
Model) cho việc mô phỏng xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương
và Biển Đông. Với 12 thí nghiệm cho mô hình clWRF và 6 thí nghiệm cho mô hình RegCM đã được
tiến hành chạy mô phỏng, với cùng các thông số về miền tính, phân giải 25 km. Kết quả chỉ ra mô
hình clWRF cho mô phỏng XTNĐ tốt với sơ đồ tham số hóa đối lưu Betts-Miller-Janjic và vi vật lý
WSM6, trong đó sơ đồ đối lưu có ảnh hưởng nhiều hơn, còn đối với mô hình RegCM thì là với sơ
đồ đối lưu Kain-Fritsch và thông lượng đại dương Zeng. Về số lượng XTNĐ mô phỏng, hầu hết cho
cao hơn quan trắc và số liệu phân tích CFSnl (Climate Forecast System analysis), trong đó mô hình
RegCM cho cao hơn clWRF.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu độ nhạy của sơ đồ tham số hóa vật lý trong mô hình khí hậu khu vực đối với mô phỏng hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới trên Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 25-36 25 Original Article A study on the Sensitivity of Parameterizations for Regional Climate models in the Simulation of Tropical Cyclones over Western Pacific Ocean and East Sea Pham Quang Nam1, Tran Quang Duc1, , Le Lan Phuong2, Hoang Danh Huy1, Pham Thanh Ha1, Phan Van Tan1 1VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 2National Central University, 300 Zhongda Road, Taoyuan, Taiwan Received 20 February 2020 Revised 02 May 2020; Accepted 07 May 2020 Abstract: This study investigates the sensitivity of physical parameterization schemes in two regional dynamic models clWRF (the climate Weather Research and Forecasting) and RegCM (the Regional Climate Model) in the simulation of tropical cyclones (TCs) over Western Pacific Ocean and East Sea. The experiments include 12-cases for clWRF model and 6-cases for RegCM model were conducted to run the simulation, with the same domain parameters, resolution 25 km. Results show that the clWRF can simulate TCs well with the Betts-Miller-Janjic convection scheme and WSM6 microphysics, in which convection schemes are more influential, and the RegCM is with the Kain-Fritsch convection scheme and Zeng oceanic flux. Regarding the number of TCs simulation, most of them are higher than observed and CFSnl (Climate Forecast System analysis) data, therein the RegCM is higher than the clWRF. Keywords: parameterizations, regional models, tropical cyclones, Western Pacific Ocean, East Sea. ________ Corresponding author. E-mail address: tranquangduc@hus.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4568 P.Q. Nam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 25-36 26 Nghiên cứu độ nhạy của sơ đồ tham số hóa vật lý trong mô hình khí hậu khu vực đối với mô phỏng hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới trên Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông Phạm Quang Nam1, Trần Quang Đức1, , Lê Lan Phương2, Hoàng Danh Huy1, Phạm Thanh Hà1, Phan Văn Tân1 1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 2Trường Đại học Quốc gia Trung ương, 300 Trung Đại, Trung Lịch, Đào Viên, Đài Loan Nhận ngày 20 tháng 02 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 02 tháng 5 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 07 tháng 5 năm 2020 Tóm tắt: Nghiên cứu này khảo độ nhạy của các sơ đồ tham số hóa vật lý trong hai mô hình động lực khu vực clWRF (the climate Weather Research and Forecast) và RegCM (the Regional Climate Model) cho việc mô phỏng xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông. Với 12 thí nghiệm cho mô hình clWRF và 6 thí nghiệm cho mô hình RegCM đã được tiến hành chạy mô phỏng, với cùng các thông số về miền tính, phân giải 25 km. Kết quả chỉ ra mô hình clWRF cho mô phỏng XTNĐ tốt với sơ đồ tham số hóa đối lưu Betts-Miller-Janjic và vi vật lý WSM6, trong đó sơ đồ đối lưu có ảnh hưởng nhiều hơn, còn đối với mô hình RegCM thì là với sơ đồ đối lưu Kain-Fritsch và thông lượng đại dương Zeng. Về số lượng XTNĐ mô phỏng, hầu hết cho cao hơn quan trắc và số liệu phân tích CFSnl (Climate Forecast System analysis), trong đó mô hình RegCM cho cao hơn clWRF. Từ khoá: tham số hóa, mô hình khu vực, xoáy thuận nhiệt đới, Tây Bắc Thái Bình Dương, Biển Đông. 1. Mở đầu Việt Nam với đường bờ biển dài trên 3000 km, chạy dọc theo hướng Bắc-Nam, hàng năm phải chịu ảnh hưởng của trung bình khoảng 11 xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) trên Biển Đông (BĐ), với thời gian hoạt động là từ tháng 6 đến tháng 11 (Ngữ và Hiệu, 2013) [1]. Sự xuất hiện của XTNĐ thường kèm theo các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như gió giật, mưa lớn, và gây ra những thiệt hại lớn đối với nền kinh tế-xã hội ở những nơi mà nó đi qua. Với các hoạt động kinh tế-xã hội diễn ra nhiều ngày, thậm chí hàng tháng, trên biển, như đánh bắt hải sản, tuần tra, tìm kiếm cứu nạn, thì hạn dự báo của các bản ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: tranquangduc@hus.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4568 tin thời tiết không còn khả năng đáp ứng. Do đó, việc dự báo được số lượng, thời gian và quỹ đạo XTNĐ hoạt động trước từ một vài tháng, hoặc trước khi mùa bão bắt đầu, mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng và thiết thực. Thập kỷ gần đây, việc sử dụng các mô hình khí hậu toàn cầu (GCM) để dự báo sự hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) hạn mùa đã được thực hiện khá thành công (LaRow và ccs, 2010; Zhao và ccs, 2010; Chen và Lin, 2011, 2013; Murakami và ccs, 2016) [2-6]. Không giống như các phương pháp thống kê truyền thống, là đi tìm mối quan hệ tuyến tính trong quá khứ rồi đem áp dụng nó cho các dự báo ở hiện tại, với phương pháp động lực sử dụng mô hình P.Q. Nam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 25-36 27 toàn cầu, các XTNĐ có cường độ và kích thước khác nhau có thể xuất hiện một cách tự nhiên ở những nơi mà có môi trường quy mô lớn thuận lợi cho việc hình thành (Chen và Lin, 2013) [5]. Mặc dù có thể sử dụng trực tiếp các thông tin dự báo toàn cầu cho quy mô khu vực, tuy nhiên hoặc độ phân giải GCM vẫn còn thô (phổ biển khoảng 100 km) hoặc chạy GCM với phân giải cao nhưng sẽ tốn rất nhiều tài nguyên máy tính – không thực tế khi đưa vào nghiệp vụ. Vì vậy, các mô hình khí hậu khu vực (RCM) sẽ được sử dụng để làm chi tiết hóa các dự báo từ GCM (Zhan và ccs, 2012; Warner, 2011) [7, 8], và nó như là một bước trung gian cần thực hiện trước khi tiến hành các bước tiếp theo để dự báo XTNĐ. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, năng lực tính toán của hệ thống máy tính được nâng lên rất nhiều, việc chạy các RCM cho bài toán dự báo thời tiết thông thường có thể được thực hiện với phân giải ngang cao cỡ nhỏ h ... ra trường hợp RegCM_exp6 với sơ đồ Kain-Fritsch và Zeng đã cho mô phỏng tốt nhất. Bảng 4. Tổng số lượng XTNĐ từ tháng 6 đến tháng 11 của các năm 2010 và 2013, của quan trắc, số liệu CFSnl, và của các trường hợp mô phỏng Năm Mô hình Thí nghiệm Obs CFSnl 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 2010 clWRF 37 6 29 17 27 5 23 24 38 5 39 20 16 16 RegCM 6 6 39 2 0 19 2013 clWRF 43 16 44 38 40 14 40 34 45 15 49 33 31 31 RegCM 16 11 48 4 2 37 Quỹ đạo XTNĐ hoạt động của số liệu CFSnl trong năm 2013 nhìn chung khá tương đồng so với quan trắc về đường đi và thời điểm bắt đầu hình thành bão, ví dụ như cơn bão Haiyan bắt đầu từ ngày 3/11, vị trí hình thành khoảng 155o Đ và 6o B với quan trắc, còn với CFSnl là khoảng 153o Đ và 6o B (Hình 2, thứ tự 1 và 2 từ trên xuống). Đối với năm 2010 thì số liệu CFSnl có quỹ đạo bắt kém hơn, và chỉ được vài cơn là có quỹ đạo tựa giống bão quan trắc, v.d. cơn bão bắt đầu ngày 19/3 của quan trắc và ngày 22/3 của số liệu CFSnl. Các trường hợp mô phỏng XTNĐ của các mô hình thì nhìn chung là quỹ đạo còn bị “rối”, và đường đi khá dày trong khoảng vĩ độ từ 16o B đến 24o B. Với clWRF thì có thể nhận thấy là các trường clWRF_exp4 và clWRF_exp12 chạy với sơ đồ đối lưu Betts-Miller-Janjic đã cho quỹ đạo mô phỏng tốt hơn trường hợp clWRF_exp7, và XTNĐ tìm thấy thường tập trung ở khoảng vĩ độ từ 16o B đến 24o B trong cả hai năm 2010 và 2013. Với trường hợp RegCM_exp6 thì mặc dù các XTNĐ được tìm thấy vẫn còn khá sát nhau về phân bố không gian, nhưng nhìn chung là có sự hợp lý hơn so với các mô phỏng của clWRF. Để có thêm cơ sở khách quan trong việc đánh giá, nghiên cứu đã tiến hành tính toán giá trị khí áp mực biển cực tiểu theo thời gian cho các năm 2010 và 2013, của số liệu CFSnl, và các trường hợp mô phỏng, kết quả được thể hiện trên hình 3. Ở đây, có thể thấy rằng vùng hoạt động của XTNĐ sẽ tương ứng với vùng có giá trị khí áp thấp nhất trên bản đồ. Trường hợp clWRF_exp7 trong cả hai năm đều cho giá trị khí áp thấp hơn và phân tán hơn so với số liệu CFSnl, trong khi các trường hợp clWRF_exp4 và clWRF_exp12 thì có sự tương đồng và đều cho khí áp cao hơn CFSnl, nhưng có thể nhận thấy là trường hợp clWRF_exp4 đã cho mô phỏng tốt hơn cả, cụ thể: giá trị khí áp năm 2010 cao hơn và năm 2013 thấp hơn trường hợp clWRF_exp12, điều này hoàn toàn hợp lý vì năm 2010 là năm ít bão nên giá trị khí áp sẽ lớn hơn 2013. Với trường hợp RegCM_exp6, mô phỏng cũng đã thể hiện được phần nào vùng có XTNĐ hoạt động, về giá trị vùng khí áp cực tiểu thì vẫn cho cao hơn so với CFSnl. Tiếp theo, số lượng bão hoạt động theo tháng của hai mùa bão năm 2010 và 2013 của quan trắc, và số lượng XTNĐ của số liệu CFSnl, và của các trường hợp cho mô phỏng tốt nhất clWRF_exp4 và RegCM_exp6 được thể hiện trên hình 4. Nhìn chung số lượng XTNĐ của các trường hợp mô phỏng thì đều cho cao hơn quan trắc và CFSnl, trong đó mô hình RegCM cho cao hơn clWRF. P.Q. Nam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 25-36 32 Q u an t rắ c C F S n l cl W R F _ ex p 4 cl W R F _ ex p 7 cl W R F _ ex p 1 2 R eg C M _ ex p 6 Hình 2. Quỹ đạo XTNĐ hoạt động trong các năm 2010 (bên trái) và 2013 (bên phải), của quan trắc, của số liệu CFSnl, và của các trường hợp mô phỏng. P.Q. Nam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 25-36 33 C F S n l cl W R F _ ex p 4 cl W R F _ ex p 7 cl W R F _ ex p 1 2 R eg C M _ ex p 6 Hình 3. Khí áp cực tiểu theo thời gian của các năm 2010 (bên trái) và 2013 (bên phải), của số liệu CFSnl, và của các trường hợp mô phỏng. P.Q. Nam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 25-36 34 Hình 4. Biến trình số lượng XTNĐ trong các năm 2010 (bên trái) và 2013 (bên phải), của quan trắc, số liệu CFSnl, và của các trường hợp cho mô phỏng tốt nhất clWRF_exp4 và RegCM_exp6. 4. Kết luận Với mục đích khảo sát về độ nhạy vật lý mô hình, nghiên cứu đã tiến hành chạy thử nghiệm hai mô hình khu vực clWRF và RegCM, với các sơ đồ tham số hóa khác nhau, phân giải 25 km, để mô phỏng sự hoạt động của XTNĐ trên TBTBD và BĐ, cho các năm ít bão 2010 và nhiều bão 2013. Số liệu tái phân tích/phân tích CFS được sử dụng làm điều kiện ban đầu và điều kiện biên xung quanh cho các mô hình. XTNĐ của các trường hợp mô phỏng được dò tìm bằng bộ chương trình TCs_detect với các ngưỡng chỉ tiêu thích hợp. Qua việc phân tích đánh giá cho phép rút ra được các nhận xét sau đây: i) Mô hình clWRF chạy với sơ đồ tham số hóa đối lưu Betts-Miller-Janjic và vi vật lý WSM6 đã cho mô phỏng tốt về số lượng và quỹ đạo XTNĐ hoạt động, trong đó sơ đồ đối lưu có ảnh hưởng nhiều hơn. Đối với mô hình RegCM thì là trường hợp kếp hợp của sơ đồ đối lưu Kain- Fritsch và thông lượng đại dương Zeng, kết luận này cũng giống với nghiên cứu của Fuentes- Franco và ccs [22]. ii) Số lượng XTNĐ của các trường hợp mô phỏng hầu hết cho cao hơn quan trắc và CFSnl, trong đó mô hình RegCM cho cao hơn clWRF. Những kết quả thu được về cấu hình, tham số hóa mô hình này sẽ là căn cứ tham khảo quan trọng cho việc chạy các mô hình với đầu vào là số liệu dự báo CFS, để dự báo sự hoạt động của XTNĐ trong tương lai trước một vài tháng. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được thực hiện và hoàn thành dưới sự hỗ trợ của Đề tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống dự báo số lượng và vùng hoạt động của bão trên Biển Đông hạn 3-6 tháng phục vụ hoạt động kinh tế biển và an ninh quốc phòng”, mã số: KC.09.15/16-20. Các tác giả xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo [1] N.D. Ngu, N.T. Hieu, Climate and Climate Resources of Vietnam, Hanoi Science and Technology publisher, 2013. [2] T.E. LaRow, L. Stefanova, D.W. Shin, S. Cocke, Seasonal Atlantic tropical cyclone hindcasting/ forecasting using two sea surface temperature datasets, Geophys. Res. Lett., 37 (2010). https:// doi.org/10.1029/2009GL041459. [3] M. Zhao, I.M. Held, G.A. Vecchi, Retrospective forecasts of the hurricane season using a global atmospheric model assuming persistence of SST anomalies, Mon. Wea. Rev., 138 (2010) 3858- 3868. https://doi.org/10.1175/2010MWR3366.1. [4] J.H. Chen, S.J. Lin, The remarkable predictability of inter‐annual variability of Atlantic hurricanes during the past decade, Geophys. Res. Lett., 38 (2011). https://doi.org/10.1029/2011GL047629. P.Q. Nam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 25-36 35 [5] J.H. Chen, S.J. Lin, Seasonal predictions of tropical cyclones using a 25-km-resolution general circulation model, J. Climate, 26 (2013) 380-398. https://doi.org/10.1175/JCLI-D-12-00061.1. [6] H. Murakami, G.A. Vecchi, G. Villarini, T.L. Delworth, R. Gudgel, S. Underwood, X. Yang, W. Zhang, S. Lin, Seasonal forecasts of major hurricanes and landfalling tropical cyclones using a high-resolution GFDL coupled climate model, J. Climate, 29 (2016) 7977-7989. https://doi.org/10. 1175/JCLI-D-16-0233.1. [7] R. Zhan, Y. Wang, and M. Ying, Seasonal forecasts of tropical cyclone activity over the western North Pacific: A review, Tropical Cyclone Research and Review, 1 (2012) 307-324. [8] T.T. Warner, Numerical weather and climate prediction, Cambridge University Press, 2011. [9] R.K. Smith, The role of cumulus convection in hurricanes and its representation in hurricane models, Rev, Geophys., 38 (2000) 465-489. https:// doi.org/10.1029/1999RG000080. [10] B.M. Sanderson, C. Piani, W. Ingram, D. Stone, and M. Allen, Towards constraining climate sensitivity by linear analysis of feedback patterns in thousands of perturbed-physics GCM simulations, Clim. Dyn., 30 (2008) 175-190. https: //doi.org/10.1007/s00382-007-0280-7. [11] M. Zhao, I.M. Held, S.J. Lin, Some counterintuitive dependencies of tropical cyclone frequency on parameters in a GCM. J. Atmos. Sci., 69 (2012) 2272-2283. https://doi.org/10.1175/JAS- D-11-0238.1. [12] T. LaRow, Y.K. Lim, D. Shin, E. Chassignet, S. Cocke, Atlantic basin seasonal hurricane simulations, J. Clim., 21 (2008) 3191-3206. https://doi.org/10.11 75/2007JCLI2036.1. [13] L.M. Ma, Z.M. Tan, Improving the behavior of the cumulus parameterization for tropical cyclone prediction: Convection trigger, Atmospheric Research, 92 (2009) 190-211. https://doi.org/10.10 16/j.atmosres.2008.09.022. [14] K.A. Reed, C. Jablonowski, Impact of physical parameterizations on idealized tropical cyclones in the Community Atmosphere Model, Geophys Res Lett, 38 (2011). https://doi.org/10.1029/2010GL0 46297. [15] J.S. Kain, J.M. Fritsch, Convective parameterization for mesoscale models: the Kain-Fritsch scheme. In: The representation of cumulus convection in numerical models, American Meteorological Society, (1993) 165-170. [16] G. Grell, Prognostic evaluation of assumptions used by cumulus parameterizations, Mon. Wea. Rev., 121 (1993) 764-787. [17] G.T. Diro, F. Giorgi, R. Fuentes-Franco, K.J.E. Walsh, G. Giuliani, E. Coppola, Tropical cyclones in a regional climate change projection with RegCM4 over the CORDEX Central America domain, Clim. Change, 125 (2014) 79-94. [18] K. Emanuel, A scheme for representing cumulus convection in large scale models, J. Atmos. Sci., 48 (1991) 2313-2335. [19] Y. Sun, Z. Zhong, W. Lu, Y. Hu, Why are tropical cyclone tracks over the Western North Pacific sensitive to the cumulus parameterization scheme in Regional Climate Modeling? A case study for Megi (2010), Mon. Wea. Rev., 142 (2014) 1240- 1249.https://doi.org/10.1175/MWR-D-13-00232.1. [20] R.D. Kanase, P.S. Salvekar, Effect of physical parameterization schemes on track and intensity of cyclone LAILA using WRF model, Asia-Pacific Journal of Atmospheric Sciences, 51 (2015) 205- 227. [21] Z.H. Zeng, Y. Wang, Y.H. Duan, L.S. Chen, Z. Gao, On sea surface roughness parameterization and its effect on tropical cyclone structure and intensity, Adv. Atmos. Sci., 27 (2010) 337-355. [22] R. Fuentes-Franco, F. Giorgi, E. Coppola, K. Zimmermann, Sensitivity of tropical cyclones to resolution, convection scheme and ocean flux parameterization over Eastern Tropical Pacific and Tropical North Atlantic Oceans in the RegCM4 model, Climate dynamics, 49 (2017) 547-561. https://doi.org/10.1007/s00382-016-3357-3. [23] X. Zeng, M. Zhao, R.E. Dickinson, Intercomparison of bulk aerodynamic algorithms for the computation of sea surface fluxes using TOGA COARE and TAO data, J. Clim., 11 (1998) 2628- 2644. [24] B.H. Hai, P.V. Tan, Developing a tropical cyclone- like vortex scheme for RegCM model to simulate tropical cyclone activity over the West North Pacific and Vietnam East Sea, Journal of Hydro- meteorology 8 (584) (2009) 1-8. [25] V.T. Phan, T.T. Long, B.H. Hai, C. Kieu, Seasonal forecasting of tropical cyclone activity in the coastal region of Vietnam using RegCM4.2, Clim. Res., 62 (2015) 115-129. https://doi.org/10.3354/ cr01267. [26] W.C. Skamarock, J.B. Klemp, J. Dudhia, D.O. Gill, D.M. Barker, M.G. Duda, X.Y. Huang, W. Wang, and J.G. Powers, A description of the advanced research WRF version 3, NCAR Technical Note NCAR/TN-475CSTR, (2008). P.Q. Nam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 25-36 36 [27] Y. Sun, Z. Zhong, H. Dong, J. Shi, Y. Hu, Sensitivity of tropical cyclone track simulation over the western North Pacific to different heating/drying rates in the Betts–Miller–Janjic scheme, Mon. Wea. Rev., 143 (2015) 3478-3494. https://doi.org/10.1175/MWR-D-14-00340.1. [28] T. Islam, P.K. Srivastava, M.A. Rico-Ramirez, Q. Dai, M. Gupta, and S. K. Singh, Tracking a tropical cyclone through WRF-ARW simulation and sensitivity of model physics, Natural Hazards, 76 (2015) 1473-1495. https://doi.org/10.1007/s11069 -014-1494-8. [29] K.T. Chan, J.C. Chan, Sensitivity of the simulation of tropical cyclone size to microphysics schemes, Advances in Atmospheric Sciences, 33 (2016) 1024-1035. https://doi.org/10.1007/s00376-016- 5183-2. [30] F. Giorgi, F. Solmon, G. Giuliani, Regional Climatic Model RegCM, User’s Guide v4.6, ICTP, (2016). [31] E. Nellie, B. Xunqiang, G. Filippo, N. Badrinath, P. Jeremy, S. Fabien, R. Sara, Z. Ashraf, O. Travis, N. Rita, and G. Graziano, Regional Climate Model RegCM reference manual v4.6, ICTP, (2014). [32] C.C.F. Lok., J.C.L. Chan, Simulating seasonal tropical cyclone intensities at landfall along the South China coast. Climate dynamics, 50 (2018) 2661-2672. https://doi.org/10.1007/s00382-017- 3762-2. [33] S. Vishnu, J. Sanjay, and R. Krishnan, Assessment of climatological tropical cyclone activity over the north Indian Ocean in the CORDEX-South Asia regional climate models, Climate Dynamics, 53 (2019) 5101-5118. https://doi. org/10.1007/s00382 -019-04852-8. [34] S. Saha, S. Moorthi, H. Pan, X. Wu, J. Wang, S. Nadiga, P. Tripp, R. Kistler, J. Woollen, D. Behringer, H. Liu, D. Stokes, R. Grumbine, G. Gayno, J. Wang, Y. Hou, H. Chuang, H.H. Juang, J. Sela, M. Iredell, R. Treadon, D. Kleist, P. Van Delst, D. Keyser, J. Derber, M. Ek, J. Meng, H. Wei, R. Yang, S. Lord, H. van den Dool, A. Kumar, W. Wang, C. Long, M. Chelliah, Y. Xue, B. Huang, J. Schemm, W. Ebisuzaki, R. Lin, P. Xie, M. Chen, S. Zhou, W. Higgins, C. Zou, Q. Liu, Y. Chen, Y. Han, L. Cucurull, R.W. Reynolds, G. Rutledge, M. Goldberg, The NCEP Climate Forecast System Reanalysis, Bull. Amer. Meteor. Soc., 91 (2010) 1015-1058. https://doi.org/10. 1175/2010BAMS3001.1.
File đính kèm:
- nghien_cuu_do_nhay_cua_so_do_tham_so_hoa_vat_ly_trong_mo_hin.pdf