Nghiên cứu cấu trúc, tính chất và khả năng ức chế ăn mòn Fe (110) của pyrazine và dẫn xuất bằng tính toán hóa lượng tử
Cấu trúc, tính chất và khả năng ức chế ăn mòn Fe (110) của hợp chất pyrazine (PY)
và các dẫn xuất 2-(2-oxohydrazinyl)pyrazine (OHPY), 2-isopropyl-3-
methoxypyrazine (IPPY), và 2-isobutyl-3-methoxypyrazine (IBPY) được nghiên
cứu bằng tính toán hóa lượng tử. Cấu trúc tối ưu của các hợp chất nghiên cứu cho
thấy không có sự khác biệt nhiều về độ dài và góc của các liên kết trong các phân
tử PY, OHPY, IPPY và IBPY. Phân tích orbital liên kết tự nhiên khẳng định các dẫn
xuất pyrazine đồng thời có khả năng cho các electron vào orbital trống của kim loại
và có khả năng nhận electron tự do từ kim loại và chúng là các chất tiềm năng
trong ức chế ăn mòn kim loại. Kết quả mô phỏng Monte Carlo cho thấy năng
lượng hấp phụ cao giữa tương tác của chất ức chế và mặt Fe (110). Hợp chất PY và
các dẫn xuất OHPY, IPPY, IBPY được khảo sát đều được hấp thụ song song định
hướng trên bề mặt Fe (110) chứng tỏ có khả năng ức chế ăn mòn kim loại tốt.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu cấu trúc, tính chất và khả năng ức chế ăn mòn Fe (110) của pyrazine và dẫn xuất bằng tính toán hóa lượng tử
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020) 37 NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC, TÍNH CHẤT VÀ KHẢ NĂNG ỨC CHẾ ĂN MÒN Fe (110) CỦA PYRAZINE VÀ DẪN XUẤT BẰNG TÍNH TOÁN HÓA LƯỢNG TỬ Nguyễn Thị Hà Giang1, Huỳnh Thị Phương Loan1, Phan Tứ Quý2, Nguyễn Thị Ái Nhung1,* 1Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế 2Khoa Tự nhiên và Công nghệ, Trường Đại học Tây Nguyên *Email: ntanhung@hueuni.edu.vn Ngày nhận bài: 9/9/2020; ngày hoàn thành phản biện: 22/9/2020; ngày duyệt đăng: 02/10/2020 TÓM TẮT Cấu trúc, tính chất và khả năng ức chế ăn mòn Fe (110) của hợp chất pyrazine (PY) và các dẫn xuất 2-(2-oxohydrazinyl)pyrazine (OHPY), 2-isopropyl-3- methoxypyrazine (IPPY), và 2-isobutyl-3-methoxypyrazine (IBPY) được nghiên cứu bằng tính toán hóa lượng tử. Cấu trúc tối ưu của các hợp chất nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt nhiều về độ dài và góc của các liên kết trong các phân tử PY, OHPY, IPPY và IBPY. Phân tích orbital liên kết tự nhiên khẳng định các dẫn xuất pyrazine đồng thời có khả năng cho các electron vào orbital trống của kim loại và có khả năng nhận electron tự do từ kim loại và chúng là các chất tiềm năng trong ức chế ăn mòn kim loại. Kết quả mô phỏng Monte Carlo cho thấy năng lượng hấp phụ cao giữa tương tác của chất ức chế và mặt Fe (110). Hợp chất PY và các dẫn xuất OHPY, IPPY, IBPY được khảo sát đều được hấp thụ song song định hướng trên bề mặt Fe (110) chứng tỏ có khả năng ức chế ăn mòn kim loại tốt. Từ khóa: pyrazine, ức chế ăn mòn, lý thuyết phiếm hàm mật độ, mô phỏng Monte Carlo. 1. MỞ ĐẦU Trước đây, đã có rất nhiều các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về hợp chất pyrazine và dẫn xuất [1, 2]. Với cấu trúc khá đặc biệt, hợp chất này đã mở ra những nghiên cứu rất thú vị cho các tính toán bằng thực nghiệm cũng như lý thuyết [2]. Cấu trúc phân tử pyrazine đã được nghiên cứu sử dụng phương pháp nhiễu xạ điện tử pha khí [3] và phân tích X-ray [4]. Năm 1964, Califano và cộng sự đã báo cáo quang phổ dao động của pyrazine [5]. Một điều quan trọng là những công bố gần đây cho thấy các hợp chất pyrazine và dẫn xuất có ứng dụng trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là trong Nghiên cứu cấu trúc, tính chất và khả năng ức chế ăn mòn Fe (110) của pyrazine và dẫn xuất 38 công nghệ sơn phủ, chống ăn mòn kim loại và ứng dụng trong nghiên cứu về dược phẩm [6-8]. Thực tế, công nghệ sơn phủ lên bề mặt kim loại để ức chế ăn mòn thường phải phủ nhiều lớp, đồng thời quá trình xử lý bề mặt trước khi sơn phủ bằng phương pháp photphat hóa lại phải diễn ra trong nhiều giai đoạn và đòi hỏi sự có mặt của một số hợp chất độc hại như CrO42-, MoO42− trong môi trường nước dẫn đến nhiều lo ngại cho vấn đề xử lý nước thải công nghiệp [9, 10]. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy pyrazine và các dẫn xuất của nó như 2-methylpyrazine, 2-aminopyrazine, 2-amino-5- brompyrazine là những chất hữu cơ không độc hại [10, 11] đã được đề nghị làm lớp phủ chống ăn mòn trên bề mặt thép [2, 6]. Ngoài ra, Hadi Behzadi và cộng sự đã nghiên cứu lý thuyết về các dẫn xuất pyrazine trong quá trình ức chế ăn mòn kim loại [6]. Nhóm tác giả tính toán bốn loại tương tác giữa sắt và các phân tử pyrazine là Fe-π, Fe-N1, Fe-N4 và Fe-NH2. Năm 2015, nghiên cứu về khả năng chống ung thư của pyrazine và các dẫn xuất được đề xuất bởi Peng-Hui Li và các cộng sự chỉ ra rằng một số chất ức chế topoisomerase II (Topo II) có hiệu quả trong quá trình phát triển của tác nhân chống ung thư [7]. Năm 2018, Kang Fang và cộng sự đã tổng hợp 26 dẫn xuất hederagenin (He)–pyrazine, nghiên cứu nêu bật tầm quan trọng của các dẫn xuất He- pyrazine trong việc khám phá và phát triển thuốc chống khối u mới [12]. Sau đó, Lakshmaiah Gingipalli và cộng sự tổng hợp được một loạt các dẫn xuất thế 2, 6 của pyrazine có tiềm năng đóng vai trò là chất ức chế cả hai hợp chất protein gây ung thư là kinase CK2 và PIM kinase [13]. Bảng 1. Tên IUPAC, công thức phân tử và khối lượng mol của pyrazine và các dẫn xuất Chất nghiên cứu Công thức phân tử Viết tắt Khối lượng mol (g.mol-1) pyrazine C4H4N2 PY 80,1 2-(2-oxohydrazinyl)pyrazine C4H4N4O OHPY 124,1 2-isopropyl-3-methoxypyrazine C8H12N2O IPPY 152,2 2-isobutyl-3-methoxypyrazine C9H14N2O IBPY 166,2 Hình 1. Cấu trúc Lewis của PY và các dẫn xuất OHPY, IPPY, IBPY Mặc dù trên thế giới đã có một số nghiên cứu về tính chất và cấu trúc của pyrazine và dẫn xuất [2, 6, 10, 11]. Tuy nhiên thực tế đòi hỏi cần có một nghiên cứu TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020) 39 khảo sát tính chất và cấu trúc của pyrazine và dẫn xuất một cách chi tiết và bài bản. Đặc biệt, tại Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu tính toán về pyrazine và các dẫn xuất của nó. Vì thế, các đối tượng nghiên cứu của bài báo này sẽ được tính toán bằng những phương pháp lý thuyết hiện đại với sự hỗ trợ lý thuyết lượng tử. Trong khuôn khổ của bài báo này, chúng tôi trình bày mô hình nghiên cứu lý thuyết về cấu trúc, tính chất, và khả năng ức chế ăn mòn mặt Fe (110) của pyrazine (PY) và các dẫn xuất 2-(2-oxohydrazinyl)pyrazine (OHPY), 2-isopropyl-3-methoxypyrazine (IPPY), và 2-isobutyl-3-methoxypyrazine (IBPY) sử dụng lý thuyết phiếm hàm mật độ (DFT) và phương pháp mô phỏng Monte Carlo. Thật vậy, các hợp chất hữu cơ có chứa dị tố như PY, OHPY, IPPY, IBPY được biết đến là các chất ức chế ăn mòn hiệu quả [10, 11]. Đặc biệt, chúng là những chất ức chế axit tốt hiện nay bao gồm cả cấu trúc có hoặc không có proton [13]. Chúng tôi hy vọng những kết quả lý thuyết đạt được trong nghiên cứu này sẽ mở ra những hướng nghiên cứu mới trong tính toán lượng tử cũng như mang lại những đóng góp hữu ích cho các nghiên cứu thực nghiệm trong tương lai. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Tính toán hóa lượng tử qua lý thuyết phiếm hàm mật độ Các hợp chất nghiên cứu được tối ưu hình học bằng chương trình Gaussian 09 [14] kết hợp với Turbomole 6.0.1 [15], với ... bề mặt [25]. Năng lượng hấp phụ là tổng của năng lượng hấp phụ cứng và năng lượng biến dạng cho thành phần chất hấp phụ. Năng lượng hấp phụ cứng cho biết năng lượng giải phóng (hoặc thu vào) khi thành phần hấp phụ không liên kết đã được Nghiên cứu cấu trúc, tính chất và khả năng ức chế ăn mòn Fe (110) của pyrazine và dẫn xuất 44 hấp phụ trên chất nền. Năng lượng biến dạng cho biết năng lượng giải phóng khi thành phần chất hấp phụ bị hấp phụ đã giãn ra trên bề mặt chất nền [25, 27]. Bảng 4. Năng lượng tương tác, hấp phụ và liên kết từ đầu ra và bộ mô tả được tính toán bằng mô phỏng Monte Carlo để hấp phụ PY, OHPY, IPPY và IBPY trên bề mặt Fe (110) trong pha khí. Năng lượng tính bằng kcal.mol-1 Hệ nghiên cứu Tổng năng lượng Năng lượng hấp phụ Năng lượng hấp phụ cứng Năng lượng biến dạng Fe (110) - PY -1,196 -47,552 -47,776 0,224 Fe (110) - OHPY -48,659 -67,615 -68,622 1,007 Fe (110) - IPPY -26,655 -87,633 -89,274 1,642 Fe (110) - IBPY -51,041 -96,648 -99,629 2,982 Từ kết quả ở Bảng 4 nhận thấy giá trị tổng năng lượng của hệ Fe (110)-PY, Fe (110)-OHPY, Fe (110)-IPPY và Fe (110)-IBPY nằm trong khoảng -1,196 đến -51,041 kcal.mol-1. Trong đó tổng năng lượng của hệ Fe (110)-PY (-1,196 kcal.mol-1) là thấp nhất, kế tiếp là tổng năng lượng của hệ Fe (110)-IPPY (-26,655 kcal.mol-1) và chênh lệch khá lớn với tổng năng lượng của hệ Fe (110)-PY. Tổng năng lượng của hệ Fe (110)- IPPY, Fe (110)-OHPY, Fe (110)-IBPY lần lượt là -26,655 kcal.mol-1 , -48,659 kcal.mol-1, và -51,041 kcal.mol-1 và biến đổi theo thứ tự Fe (110)-IPPY > Fe (110)-OHPY > Fe (110)- IBPY. Giá trị năng lượng hấp phụ cứng nằm trong khoảng -47,776 đến -99,629 kcal.mol-1. Trong đó năng lượng hấp phụ cứng của Fe (110)-PY (-47,776 kcal.mol-1) là thấp nhất. Năng lượng hấp phụ cứng của Fe (110)-OHPY (-68,622 kcal.mol-1) chênh lệch nhiều so với năng lượng hấp phụ cứng của Fe (110)-PY. Năng lượng hấp phụ cứng của Fe (110)-IPPY (-89,274 kcal.mol-1) và Fe (110)-IBPY (-99,629 kcal.mol-1) cao hơn hẳn so với các hệ còn lại. Năng lượng hấp phụ cứng của Fe (110)-IBPY (-99,629 kcal.mol-1) gần gấp đôi so với Fe (110)-PY (-47,776 kcal.mol-1). Giá trị năng lượng biến dạng nằm trong khoảng 0,224-2,982 kcal.mol-1. Trong đó năng lượng biến dạng của Fe (110)-PY (0,224 kcal.mol-1) là nhỏ nhất và của Fe (110)- IBPY (-2,982 kcal.mol-1) là lớn nhất. Giá trị năng lượng hấp phụ nằm trong khoảng -47,552 đến -96,648 kcal.mol-1. Năng lượng hấp phụ cũng như năng lượng hấp phụ cứng của mỗi hệ là xấp xỉ nhau và biến đổi tương đồng với nhau. Cụ thế năng lượng hấp phụ của Fe (110)-PY (-47,552 kcal.mol-1) là thấp nhất, năng lượng hấp phụ của Fe (110)-IBPY (-96,648 kcal.mol-1) là lớn nhất và gần gấp đôi so với Fe (110)-PY (-47,552 kcal.mol-1). Năng lượng hấp phụ của PY và ba dẫn xuất của nó được khảo sát theo thứ tự: IBPY > IPPY > OHPY > PY. Thứ tự này tương tự với kết quả thu được bằng các tính toán hóa học lượng tử. Giá trị năng lượng hấp phụ âm cao hơn cho thấy sự tương tác ổn định hơn và mạnh hơn giữa kim loại và một phân tử chất ức chế còn năng lượng hấp phụ âm cao nhất cho biết hệ thống ổn định nhất và mạnh hơn sự hấp phụ [26, 27]. Từ phân tích trên cho thấy IBPY thể hiện sự tương tác mạnh nhất và ổn định nhất với bề mặt Fe TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020) 45 (110). Khả năng tương tác và tính ổn định của PY, OHPY, IPPY yếu hơn IBPY và theo tuân theo trật tự IBPY > OHPY > PY. Từ kết quả này cho thấy trong 3 dẫn xuất của pyrazine (IBPY, IPPY, OHPY) thì 2 dẫn xuất IBPY, OHPY đều có tính ức chế tốt Fe (110). Tất cả các phân tử được mô phỏng hấp phụ hoàn toàn song song trên Fe (110), giúp tăng cường độ phủ bề mặt khi nó tương tác với bề mặt thép được đưa ra trong Hình 4 và Hình 5. Hình 4. Các cấu hình hấp phụ cân bằng của chất ức chế PY (a) và (b) trên bề mặt Fe (110) thu được bằng mô phỏng Monte Carlo trong pha khí. Trái: nhìn từ trên xuống; bên phải: hình chiếu bên Hình 5. Hình chiếu từ trên xuống của cấu hình hấp phụ cân bằng của chất ức chế: OHPY (a) và (d); IPPY (c) và (d); IBPY (e) và (f) trên bề mặt Fe (110) thu được bằng mô phỏng Monte Carlo trong pha khí Nghiên cứu cấu trúc, tính chất và khả năng ức chế ăn mòn Fe (110) của pyrazine và dẫn xuất 46 4. KẾT LUẬN Kết quả tối ưu hình học của các hợp chất nghiên cứu trong bài báo này cho thấy có khác biệt nhỏ về độ dài và góc của các liên kết tropng các phân tử PY, OHPY, IPPY và IBPY. Phân tích orbital liên kết tự nhiên cho thấy các dẫn xuất pyrazine OHPY, IPPY, IBPY có khả năng cho các electron vào orbital trống của kim loại và cũng có khả năng nhận electron tự do từ kim loại, do đó các dẫn xuất của pyrazine có thể được coi là các chất có khả năng ức chế ăn mòn tốt. Mô phỏng Monte Carlo chỉ ra năng lượng hấp phụ âm cao của tương tác giữa chất ức chế và Fe (110). PY và các dẫn xuất của PY được khảo sát đều được hấp thụ song song định hướng trên bề mặt Fe (110) chứng tỏ có tương tác mạnh. Xếp hạng của sự hấp phụ năng lượng của bảy phân tử sử dụng phương pháp tính toán này tương tự như kết quả năng lượng thu được khi sử dụng các phép tính hóa học lượng tử. Các kết quả của nghiên cứu này đã chỉ ra rằng về cơ sở lý thuyết mô hình phân tử tối ưu của hệ nghiên cứu là hoàn toàn phù hợp, các kết quả lý thuyết giúp tiết kiệm thời gian và giảm chi phí trong việc định hướng thực nghiệm và ứng dụng tìm kiếm các hợp chất hữu cơ có khả năng chống ăn mòn kim loại, góp phần định hướng cho các nghiên cứu thực nghiệm trong tương lai. LỜI CẢM ƠN Các số liệu và kết quả trong bài báo này được chạy trên cluster Annemarie điều hành bởi Reuti tại Trung tâm tính toán, Đại học tổng hợp Philipps, Marburg, CHLB Đức dưới sự cho phép của Giáo sư Gernot Frenking. Kết quả tính toán mô phỏng được sự giúp đỡ của TS. Nguyễn Minh Thông, Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. X. Li, S. Deng, H. Fu (2011). Three pyrazine derivatives as corrosion inhibitors for steel in 1.0 M H2SO4 solution, Corrosion science, Vol.53, pp.3241-3247. [2]. M. Bouklah, A. Attayibat, S. Kertit, A. Ramdani, B. Hammouti (2005). A pyrazine derivative as corrosion inhibitor for steel in sulphuric acid solution, Applied Surface Science, Vol.242, pp.399-406. [3]. V.t. Schomaker, L. Pauling (1939). The electron diffraction investigation of the structure of benzene, pyridine, pyrazine, butadiene-1, 3, cyclopentadiene, furan, pyrrole, and thiophene, Journal of the American Chemical Society, Vol.61, pp.1769-1780. [4]. P. Wheatley (1957). The crystal and molecular structure of pyrazine, Acta Crystallographica, Vol.10, pp.182-187. [5]. S. Califano, G. Adembri, G. Sbrana (1964). Vapour and crystal spectra in polarized light of pyrazine-d0, cis pyrazine-d2 and pyrazine-d4, Spectrochimica Acta, Vol.20, pp.385-396. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020) 47 [6]. H. Behzadi, P. Roonasi, M.J. Momeni, S. Manzetti, M.D. Esrafili, I. Obot, M. Yousefvand, S.M. Mousavi-Khoshdel (2015). A DFT study of pyrazine derivatives and their Fe complexes in corrosion inhibition process, Journal of Molecular Structure, Vol.1086, pp.64- 72. [7]. P.-H. Li, P. Zeng, S.-B. Chen, P.-F. Yao, Y.-W. Mai, J.-H. Tan, T.-M. Ou, S.-L. Huang, D. Li, L.-Q. Gu (2016). Synthesis and mechanism studies of 1, 3-benzoazolyl substituted pyrrolo [2, 3-b] pyrazine derivatives as nonintercalative topoisomerase II catalytic inhibitors, Journal of Medicinal Chemistry, Vol.59, pp.238-252. [8]. J. Kim, M. Park, J. Choi, D.K. Singh, H.J. Kwon, S.H. Kim, I. Kim (2019). Design, synthesis, and biological evaluation of novel pyrrolo [1, 2-a] pyrazine derivatives, Bioorganic & medicinal chemistry letters, Vol.29, pp.1350-1356. [9]. N. Sato (1989). 1989 Whitney Award Lecture: toward a more fundamental understanding of corrosion processes, Corrosion, Vol.45, pp.354-368. [10]. T. Yu, L. Li, C. Lin (1995). Chemical affinity of in-situ phosphatizing reagents on cold- rolled steel, The Journal of Physical Chemistry, Vol.99, pp.7613-7620. [11]. L. Racané, S.K. Pavelić, I. Ratkaj, V. Stepanić, K. Pavelić, V. Tralić-Kulenović, G. Karminski- Zamola (2012). Synthesis and antiproliferative evaluation of some new amidino- substituted bis-benzothiazolyl-pyridines and pyrazine, European journal of medicinal chemistry, Vol.55, pp.108-116. [12]. K. Fang, X.-H. Zhang, Y.-T. Han, G.-R. Wu, D.-S. Cai, N.-N. Xue, W.-B. Guo, Y.-Q. Yang, M. Chen, X.-Y. Zhang (2018). Design, Synthesis, and Cytotoxic Analysis of Novel Hederagenin–Pyrazine Derivatives Based on Partial Least Squares Discriminant Analysis, International journal of molecular sciences, Vol.19, pp.2994. [13]. L. Gingipalli, M.H. Block, L. Bao, E. Cooke, L.A. Dakin, C.R. Denz, A.D. Ferguson, J.W. Johannes, N.A. Larsen, P.D. Lyne (2018). Discovery of 2, 6-disubstituted pyrazine derivatives as inhibitors of CK2 and PIM kinases, Bioorganic & medicinal chemistry letters, Vol.28, pp.1336-1341. [14]. Frisch M. J., et al. Gaussian 09, Gaussian Inc, Wallingford CT., 2009. [15]. R. Ahlrichs, M. Bär, M. Häser, H. Horn, C. Kölmel (1989). Electronic structure calculations on workstation computers: The program system turbomole, Chemical Physics Letters, Vol.162, pp.165-169. [16]. A. Schäfer, H. Horn, R. Ahlrichs (1992). Fully optimized contracted Gaussian basis sets for atoms Li to Kr, The Journal of Chemical Physics, Vol.97, pp.2571-2577. [17]. F. Weigend, R. Ahlrichs (2005). Balanced basis sets of split valence, triple zeta valence and quadruple zeta valence quality for H to Rn: Design and assessment of accuracy, Physical Chemistry Chemical Physics, Vol.7, pp.3297-3305. [18]. B. Metz, H. Stoll, M. Dolg (2000). Small-core multiconfiguration-Dirac–Hartree–Fock- adjusted pseudopotentials for post-d main group elements: Application to PbH and PbO, The Journal of Chemical Physics, Vol.113, pp.2563-2569. [19]. T. Koopmans (1934). Über die Zuordnung von Wellenfunktionen und Eigenwerten zu den einzelnen Elektronen eines Atoms, physica, Vol.1, pp.104-113. Nghiên cứu cấu trúc, tính chất và khả năng ức chế ăn mòn Fe (110) của pyrazine và dẫn xuất 48 [20]. H. Chermette (1999). Chemical reactivity indexes in density functional theory, Journal of Computational Chemistry, Vol.20, pp.129-154. [21]. I. Obot, D. Macdonald, Z. Gasem (2015). Density functional theory (DFT) as a powerful tool for designing new organic corrosion inhibitors. Part 1: an overview, Corrosion Science, Vol.99, pp.1-30. [22]. R.G. Parr, P.K. Chattaraj (1991). Principle of maximum hardness, Journal of the American Chemical Society, Vol.113, pp.1854-1855. [23]. R.P. Iczkowski, J.L. Margrave (1961). Electronegativity, Journal of the American Chemical Society, Vol.83, pp.3547-3551. [24]. W. Yang, R.G. Parr (1985). Hardness, softness, and the fukui function in the electronic theory of metals and catalysis, Proceedings of the National Academy of Sciences, Vol.82, pp.6723-6726. [25]. I. Obot, N. Obi-Egbedi, S. Umoren (2009). Antifungal drugs as corrosion inhibitors for aluminium in 0.1 M HCl, Corrosion Science, Vol.51, pp.1868-1875. [26]. K. Ansari, M. Quraishi, A. Singh, S. Ramkumar, I.B. Obote (2016). Corrosion inhibition of N80 steel in 15% HCl by pyrazolone derivatives: electrochemical, surface and quantum chemical studies, RSC advances, Vol.6, pp.24130-24141. [27]. I. Obot, S. Kaya, C. Kaya, B. Tüzün (2016). Density Functional Theory (DFT) modeling and Monte Carlo simulation assessment of inhibition performance of some carbohydrazide Schiff bases for steel corrosion, Physica E: Low-dimensional Systems and Nanostructures, Vol.80, pp.82-90. TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020) 49 QUANTUM CHEMICAL INVESTIGATIONS OF STRUCTURE, PROPERTY, AND CORROSION INHIBITION Fe (110) OF PYRAZINE AND ITS DERIVATIVES Nguyen Thi Ha Giang1, Huynh Thi Phuong Loan1, Phan Tu Quy2, Nguyen Thi Ai Nhung1,* 1 Faculty of Chemistry, University of Sciences, Hue University 2 Tay Nguyen University *Email: ntanhung@hueuni.edu.vn ABSTRACT We theoretically investigate structure, property and inhibitory ability of pyrazine (PY) and its derivatives: 2-(2-oxohydrazinyl)pyrazine (OHPY), 2-isopropyl-3- methoxypyrazine (IPPY), and 2-isobutyl-3-methoxypyrazine (IBPY) using density functional theory (DFT) and Monte Carlo simulations. The optimization of equilibrium geometries of PY, OHPY, IPPY and IBPY shows that there are some minor differences in the bond length and bond angles between pyrazine rings of PY and the three derivatives studied. The analysis of natural bond orbitals shows that the three substituted pyrazine derivatives OHPY, IPPY, IBPY may have the capability in donating electrons to unoccupied orbitals of metal and exhibit equal possibility to accept free electrons from metal which might be considered as good corrosion inhibitors. All the molecules PY and its derivatives adsorbed totally in a parallel at manner on Fe (110), which enhances its surface coverage as good interaction with the steel surface Fe (110). Keywords: pyrazine, corrosion inhibitor, density functional theory, Monte Carlo simulation. Nguyễn Thị Ái Nhung sinh năm 1980. Bà tốt nghiệp cử nhân Hóa học tại trường Đại học Khoa học, Đại học Huế; nhận bằng thạc sĩ chuyên ngành Hóa lý thuyết và Hóa lý tại trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế; nhận bằng tiến sĩ ngành Hóa lý thuyết tại trường Đại học tổng hợp Philipps, Marburg, Cộng Hòa Liên Bang Đức. Bà được phong học hàm phó giáo sư năm 2018. Hiện nay, bà giảng dạy và nghiên cứu tại trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Lĩnh vực nghiên cứu: Hóa lượng tử và hóa lý thuyết. Nghiên cứu cấu trúc, tính chất và khả năng ức chế ăn mòn Fe (110) của pyrazine và dẫn xuất 50
File đính kèm:
- nghien_cuu_cau_truc_tinh_chat_va_kha_nang_uc_che_an_mon_fe_1.pdf