Nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ phun phân bón lá sinh học từ rong biển và bèo tây đến cây rau xà lách tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
Thí nghiệm 2 nhân tố gồm có 8 công thức với 2 dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và
bèo tây và 4 tỷ lệ phun, bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD), 3 lần nhắc lại, được tiến hành
trong năm 2020 tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, nhằm mục đích xác định được dạng và tỷ lệ phân
bón lá phù hợp cho cây rau xà lách. Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng suất và chất lượng rau xà lách phụ
thuộc vào dạng phânbón lá sinh học và tỷ lệ phun từ dịch chiết của rong biển, bèo tây với nước lã. Năng
suất, chất lượng rau và hiệu quả kinh tế đạt cao nhất tại tỷ lệ phun 1:10 ở cả hai dạng phân bón lá sinh học
chiết rút từ rong biển và bèo tây, đặc biệt tại dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển (năng suất
kinh tế của xà lách đạt 40,23 g/chậu, lãi 600 đ/chậu, hàm lượng nitratee trong phạm vi tiêu chuẩn cho phép <1000 mg/kg, độ giòn đạt điểm 4–5, độ Brix từ 2–2,5%). Do đó, đề xuất dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển tại lượng phun 1:10 trên nền bón 500 kg vôi +15 tấn phân chuồngtrên 1 ha để đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao nhất.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ phun phân bón lá sinh học từ rong biển và bèo tây đến cây rau xà lách tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn pISSN: 2588-1191; eISSN: 2615-9708 Tập 130, Số 3A, 2021, Tr. 113–127; DOI: 10.26459/hueunijard.v130i3A.5943 * Liên hệ: hoangthithaihoa@huaf.edu.vn Nhận bài: 17–7–2020; Hoàn thành phản biện: 10–9–2020; Ngày nhận đăng: 11–9–2020 NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ LỆ PHUN PHÂN BÓN LÁ SINH HỌC TỪ RONG BIỂN VÀ BÈO TÂY ĐẾN CÂY RAU XÀ LÁCH TẠI THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Hoàng Thị Thái Hòa1, *, Đỗ Đình Thục1, Trần Thị Thu Giang1, Huỳnh Yến Nhi1, 2 1 Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế, 102 Phùng Hưng, Huế, Việt Nam 2 Trung tâm Khuyến Nông Phú Yên, Trần Hào, Tuy Hòa, Phú Yên, Việt Nam Tóm tắt: Thí nghiệm 2 nhân tố gồm có 8 công thức với 2 dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và bèo tây và 4 tỷ lệ phun, bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD), 3 lần nhắc lại, được tiến hành trong năm 2020 tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, nhằm mục đích xác định được dạng và tỷ lệ phân bón lá phù hợp cho cây rau xà lách. Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng suất và chất lượng rau xà lách phụ thuộc vào dạng phânbón lá sinh học và tỷ lệ phun từ dịch chiết của rong biển, bèo tây với nước lã. Năng suất, chất lượng rau và hiệu quả kinh tế đạt cao nhất tại tỷ lệ phun 1:10 ở cả hai dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và bèo tây, đặc biệt tại dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển (năng suất kinh tế của xà lách đạt 40,23 g/chậu, lãi 600 đ/chậu, hàm lượng nitratee trong phạm vi tiêu chuẩn cho phép <1000 mg/kg, độ giòn đạt điểm 4–5, độ Brix từ 2–2,5%). Do đó, đề xuất dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển tại lượng phun 1:10 trên nền bón 500 kg vôi +15 tấn phân chuồngtrên 1 ha để đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao nhất. Từ khóa: Bèo tây, dạng và tỷ lệ phun, phân bón lá, rau xà lách, rong biển Effects of biofoliar fertilizer ratio extracted from seaweed and water hyacinth on lettuce in Hue city, Thua Thien Hue province Hoang Thi Thai Hoa1*, Đo Đinh Thuc1, Tran Thi Thu Giang1, Huynh Yen Nhi1,2 1 University of Agriculture and Forestry, Hue University, 102 Phung Hung St., Hue, Vietnam 2 Phu Yen Centre for Agricultural Extension, Tran Hao St., Tuy Hoa, Phu Yen, Vietnam Abstract: The experiment consisted of 2 factors with 8 fertilizer applications including 2 types of biofoliar fertilizer extracted from seaweed and hyacinth and 4 spraying ratio whichwere arranged in a randomized completed block design (RCBD) with 3 replicates and conducted in 2020 in Hue City, Thua Thien Hue prov- ince. Aim of the study was determined the best type and ratio of biofoliar fertilizer for lettuce. The research results show that the yield and quality of lettuce depended on the types of biofoliar fertilizer and the ratio of spraying. Yield, quality and economic efficiency are the highest at 1:10 spraying ratio in both biofoliar Hoàng Thị Thái Hòa và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 114 fertilizers extracted from seaweed and hyacinth, especially in the type of biofoliar fertilizer extracted from seaweed (yield of 40.23 g/pot and profit of 600 VND/pot, nitrate content in lettuce leaf within the permissible standard < 1000 mg/kg, brittleness of 4–5 points, Brix degree from 2–2.5%). Therefore, it is proposed to use biofoliar fertilizer extracted from seaweed at the spraying ratio of 1:10 and 500 kg of lime +15 tons of manure per hectare to achieve high yield, quality and economic efficiency. Keywords: Biofertilizer, hyacinth, lettuce, ratio and type of biofoliar, seaweed 1 Đặt vấn đề Tỉnh Thừa Thiên Huế có hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai với diện tích trên 22.000 ha và nhiều diện tích sông ngòi, ao hồ với nhiều loại hình thủy vực. Theo nghiên cứu của một số tác giả cho thấy có nhiều loài thực vật thủy sinh phổ biến được tìm thấy ở khu vực đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế [1, 2]. Thực vật thủy sinh, trong đó có rong biển và bèo tây được nghiên cứu sử dụng khá rộng rãi trên thế giới để sản xuất thực phẩm dinh dưỡng cho con người, sản xuất nguyên liệu cho thực phẩm và mới đây được sử dụng để sản xuất phân bón lá và phân bón rễ. Trong thực vật thủy sinh và dung dịch thủy phân thực vật thủy sinh chứa rất nhiều đạm, axít amin và các chất kích thích sinh trưởng quan trong cho sự phát triển của cây trồng. Thực vật thủy sinh cũng đã được nghiên cứu ở Việt nam, nhưng mục tiêu chủ yếu của các nghiên cứu này là đánh giá sự đa dạng, sử dụng làm thức ăn chăn nuôi, che phủ đất. Tuy nhiên, các nghiên cứu về thực vật thủy sinh làm phân bón lá sinh học để cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng hầu như còn chưa nhiều, chủ yếu mới sản xuất ở dạng phân bón qua rễ [7, 9]. Nền sản xuất nông nghiệp hiện đại, sử dụng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật đóng một vai trò quan trọng trong sản xuất, chúng có khả năng ngăn chặn dịch bệnh, làm tăng năng suất cây trồng, đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Tuy nhiên, việc lạm dụng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam đã đưa tới những hậu quả không mong muốn. Hàng năm, lượng phân hóa học được sử dụng ngày càng tăng cao. Trong vòng 10 năm qua, lượng phân urê tăng 58,6%, DAP tăng 354,6%, NPK tăng 6 lần. Mặc dù việc sử dụng phân bón NPK và các loại phân bón gốc là rất cần thiết để nâng cao năng suất cây trồng, nhưng việc sử dụng quá nhiều và không cân đối sẽ gây tác hại không nhỏ đến môi trường đất, nước ngầm, nước tưới cũng như chất lượng nông sản [3, 6]. Theo số liệu điều tra, hệ số sử dụng phân bón hóa học còn thấp, hàng năm có trên 50% lượng đạm, 50% lượng kali và xấp xỉ 80% lượng lân đã trực tiếp hay gián tiếp gia tăng áp lực ô nhiễm môi trường nói chung và môi trường đất nói riêng [4]. Ngoài việc sử dụng phân khoáng không hợp lý, hiệu lực phân bón thấp, gây lãng phí và ô nhiễm đến môi trường thì vấn đề sử dụng phân hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp cũng là vấn đề bức xúc. Ở nhi ... eo là tỷ lệ phun 1:20 (37,03 g/chậu và 30,25 g/chậu), theo thứ tự. Tương tự ở vụ 2, dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ bèo tây và rong biển cũngở tỷ lệ phun 1:10 cho giá trị cao nhất (36,84 g/chậu và 40,12 g/chậu), tiếp theo là tỷ lệ phun 1:20 (33,45 g/chậu và 34,38 g/chậu). Như vậy ở cả hai dạng phân bón lá Hoàng Thị Thái Hòa và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 122 sinh học đều có tỷ lệ phun 1:10 cho năng suất kinh tế cao nhất, trong đó dạng phân chiết rút từ rong biển cho kết quả tốt hơn và có mức chênh lệch so với dạng phân bón lá chiết rút từ bèo tây (3,28 g/chậu). Điều này có thể do tính chất hóa học của phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển tốt hơn so với bèo tây, nên làm tăng chiều cao cây và số lá rau xà lách [9]. Về năng suất sinh vật: Ở cả hai vụ, dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ bèo tây và rong biển ở tỷ lệ phun 1:10 đều cho năng suất sinh vật cao nhất, dao động từ 37,97 – 42,11 g/chậu (bèo tây) và 41,19 – 42,48 g/chậu (rong biển), tiếp theo ở tỷ lệ phun với tỷ lệ 1:20 dao động từ 34,35 – 40,22 g/chậu (bèo tây) và 32,27 - 35,41 g/chậu (rong biển). Như vậy ở cả hai dạng phân bón lá sinh học khác nhau với tỷ lệphun1:10 đều cho giá trị năng suất sinh vật cao nhất, trong đó dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển cho kết quả tốt hơn dạng phân chiết rút từ bèo tây và mức chênh lệch (1,79 g/chậu). Về hệ số kinh tế: Ở vụ 1, đối với dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ bèo tây thì tất cả tỷ lệ phun đều có giá trị là 0,92. Đối với dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển thì tỷ lệ phun 1:10 có giá trị cao nhất (0,95), tiếp theo là tỷ lệ phun 1:20 và 1:30 (0,94). Ở vụ 2, đối với dạng phân bón lá sinh học được chiết rút từ bèo tây ở tỷ lệ phun 1:10 và 1:20 đều cho giá trị (0,97). Đối với dạng phân bón lá sinh học được chiết rút từ rong biển thì tỷ lệ phun 1:10 và 1:20 đều có giá trị cao nhất (0,97). Như vậy ở cả hai vụ tại dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển cho hiệu quả kinh tế tốt hơn dạng phân chiết rút từ bèo tây ở các tỷ lệ khác nhau. 3.3 Ảnh hưởng của tỷ lệ phun phân bón lá sinh học từ rong biển và bèo tây đến hợp chất khô của cây rau xà lách Tích lũy vật chất khô là biểu hiện cuối cùng của mọi hoạt động sinh lý, sinh hóa của cây trồng. Hàm lượng chất khô trong cây phụ thuộc rất lớn vào giống, điều kiện môi trường và biện pháp canh tác. Cây sinh trưởng mạnh sẽ tăng hiệu suất quang hợp, tăng quá trình vận chuyển sản phẩm đồng hóa về bộ phận kinh tế. Diện tích lá tối ưu của một quần thể sẽ cho khả năng tích lũy cao nhất hay nói cách khác là hiệu suất quang hợp lớn nhất. Kết quả bảng 6 cho thấy: Về khối lượng tươi: Dạng phân bón lá và tỷ lệ phun có ảnh hưởng đến khối lượng tươi của cây rau xà lách. Ở cả hai dạng phân bón lá sinh học, tỷ lệ phun tỷ lệ 1:10 có khối lượng tươi cao nhất, dao động từ 37,97–42,11 g/cây (bèo tây) và 41,19–42,48 g/cây (rong biển). Khối lượng tươi của cây rau xà lách tại vụ 1 cao hơn so với vụ 2, do điều kiện thời tiết vụ 1 thuận lợi hơn, nhiệt độ thấp hơn so với vụ 2. Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 123 Về khối lượng khô: Tương tự như khối lượng tươi, ở cả hai dạng phân bón lá sinh học khác nhau với tỷ lệ phun 1:10 đều cho giá trị cao nhất (2,19–2,20 g/cây, bèo tây và 2,11–2,18 g/cây, rong biển) và mức chênh lệch (0,09 g/cây). Các công thức có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê. Về tỷ lệ vật chất khô: Ở vụ 1, ở cả hai dạng phân bón lá sinh học với tỷ lệ phun 1:10 đều cho tỷ lệ vật chất khô cao nhất so với các tỷ lệ phun phân còn lại, trong đó dạng phân bón lá được chiết rút từ bèo tây (5,28%) cho kết quả cao hơn dạng phân bón chiết rút từ rong biển (4,94%). Ở vụ 2, với tỷ lệ phun 1:10 thì ở dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ bèo tây cho kết quả cao (5,82%). Tuy nhiên không có sự sai khác có ý nghĩa giữa các công thức. Tóm lại, tỷ lệ vật khô của dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ bèo tây với tỷ lệ 1:10 dao động 5,28–5,82% và đối với dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển là 4,94–5,43%. Hầu hết tỷ lệ vật chất khô đều giảm dần theo tỷ lệ phân bón pha loãng, do hàm lượng dinh dưỡng cung cấp giảm [8]. Bảng 6. Ảnh hưởng của tỷ lệ phun phân bón lá sinh học từ rong biển và bèo tây đến hợp chất khô của cây rau xà lách Công thức Dạng phân bón lá Tỷ lệ (v/v) (phân: nước) Khối lượng cây tươi (g/cây) Khối lượng cây sau sấy (g/cây) Tỷ lệ vật chất khô (%) 1 Vụ 1 I Bèo tây 0:1 33,72 ab 1,71 abcd 5,10 a II 1:10 42,11 a 2,20 a 5,28 a III 1:20 40,22 a 1,94 abc 5,14 a IV 1:30 38,54 a 1,75 abcd 4,68 a V Rong biển 0:1 26,03 b 1,25 d 4,75 a VI 1:10 42,48 a 2,11 ab 4,94 a VII 1:20 32,27 ab 1,51 bcd 4,78 a VIII 1:30 31,36 ab 1,38 cd 4,58 a LSD0,05 11,28 0,66 1,21 2 Vụ 2 I Bèo tây 0:1 29,59cd 1,32 cd 4,59 a II 1:10 37,97 ab 2,19 a 5,82 a III 1:20 34,35 abc 1,66 abcd 4,84 a IV 1:30 31,46 bc 1,50 bcd 4,75 a V Rong biển 0:1 21,54 d 1,10 d 5,09 a VI 1:10 41,19 a 2,18 a 5,43 a VII 1:20 35,41 abc 2,14 ab 6,50 a VIII 1:30 33,48 abc 1,90 abc 5,95 a LSD0,05 8,09 0,67 1,95 * Ghi chú: a, b, c, d chỉ ra các ký tự giống nhau trong cùng một cột không sai khác có ý nghĩa về thống kê tại mức có ý nghĩa 0,05 Hoàng Thị Thái Hòa và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 124 3.4 Ảnh hưởng của tỷ lệ phun phân bón lá sinh học từ rong biển và bèo tây đến chất lượng của rau xà lách Chất lượng là một trong những chỉ tiêu quan trọng luôn được chú ý trong việc tiêu thụ rau trên thị trường, nên nó cũng là một trong những nhân tố hàng đầu thúc đẩy sản xuất rau phát triển. Xà lách là loại rau ăn lá nên chất lượng rau đòi hỏi phải được đảm bảo. Kết quả bảng 7 cho thấy: Độ Brix thịt lá: Qua hai vụ, độ Brix thịt lá của các công thức dao động từ 1,5–2,5%. Ở cả hai dạng phân bón lá sinh học với tỷ lệ phun 1:10 cho kết quả dao động từ 2–2,5%. Khi sử dụng hai loại phân bón lá này với tỷ lệ khác nhau cho hiệu quả tốt và đặc biệt là dạng phân chiết rút từ rong biển. Độ giòn: Độ giòn ở các công thức đạt điểm dao động từ 4–5điểm ở cả hai vụ. Như vậy khi sử dụng hai loại phân bón lá sinh học này với tỷ lệ khác nhau đều cho độ giòn cao. Hàm lượng nitrate: hàm lượng nitrate trong các công thức dao động 0–250 mg/kg. Đối với dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ bèo tây có hàm lượng nitrate trong lá rau cao hơn so với dạng phân chiết rút từ rong biển, đặc biệt là ở tỷ lệ phun 1:10 đều có hàm lượng nitrate trong lá rau rất thấp (200 mg/kg). Tất cả các kết quả trên đều rất thấp so với ngưỡng tiêu chuẩn đưa ra về hàm lượng nitrate quy định với rau xà lách [5]. Bảng 7. Ảnh hưởng của tỷ lệ phun phân bón lá sinh học từ rong biển và bèo tây đến chất lượng của rau xà lách Công thức Dạng phân bón lá Tỷ lệ (v/v) (phân: nước) Độ Brix thịt lá (%) Độ dòn (điểm) Hàm lượng ni- trate (mg/kg) 1 Vụ 1 I Bèo tây 0:1 1,7 4 0 II 1:10 2,2 5 200 III 1:20 1,8 5 100 IV 1:30 1,8 5 50 V Rong biển 0:1 1,8 4 0 VI 1:10 2,3 5 200 VII 1:20 2,0 5 200 VIII 1:30 2,2 4 0 2 Vụ 2 I Bèo tây 0:1 1,5 4 0 II 1:10 2,0 5 250 III 1:20 2,0 5 200 IV 1:30 2,0 5 150 V Rong biển 0:1 1,7 4 0 VI 1:10 2,5 5 200 VII 1:20 2,0 5 200 VIII 1:30 2,0 5 200 Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 125 3.5 Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế luôn là điều kiện hàng đầu để người nông dân xem xét có nên ứng dụng các sản phẩm phân bón lá chiết rút từ rong biển và bèo tây vào sản xuất. Đánh giá hiệu quả kinh tế của bón phân cho rau xà lách chúng tôi thu được kết quả ở bảng 8. Kết quả ở bảng 8 cho thấy với các tỷ lệ và dạng phân bón lá sinh học khác nhau thì cho năng suất khác nhau nên tổng chi, tổng thu và lãi ròng cũng khác nhau. Qua nghiên cứu trên cả hai vụ, dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển với tỷ lệ phun 1:10 cho năng suất cao nhất (40,12–40,23 g/chậu), cho mức lợi nhuân là 597,72–204,55 đ/chậu, hệ số VCR dao động 9,24–11,49. Khi quy về diện tích 1 ha với tỷ lệ phun 1:10 cho kết Bảng 8. Hiệu quả kinh tế khi sử dụng phân bón lá sinh học từ rong biển và bèo tây đến cây xà lách CT Dạng phân bón lá Tỷ lệ (v/v) (phân: nước) Chỉ tiêu NSKT (g/chậu) Tổng thu (đ/chậu) Tổng chi (đ/chậu) Lợi nhuận (đ/chậu) VCR 1 Vụ 1 I Bèo tây 0:1 30,83 616,82 170,45 446,37 - II 1:10 38,67 773,18 193,18 580,00 6,88 III 1:20 37,03 740,45 190,91 549,54 6,04 IV 1:30 35,78 715,45 190,91 525,54 4,82 V Rong biển 0:1 24,47 489,55 170,45 319,10 - VI 1:10 40,23 804,55 204,55 600,00 9,24 VII 1:20 30,25 605,00 202,27 402,73 3,63 VIII 1:30 29,40 588,18 197,73 390,45 3,62 2 Vụ 2 I Bèo tây 0:1 27,96 559,09 170,45 388,64 - II 1:10 36,84 736,82 193,18 543,64 7,82 III 1:20 33,45 669,09 190,91 478,18 5,38 IV 1:30 30,18 603,64 190,91 412,73 2,18 V Rong biển 0:1 20,53 410,45 170,45 240,00 - VI 1:10 40,12 802,27 204,55 597,72 11,49 VII 1:20 32,08 687,73 202,27 485,46 8,71 VIII 1:30 34,38 641,82 197,73 444,09 8,48 * Ghi chú: Giá bán là 20.000 đ/kg, tổng chi gồm có chi phí mua chậu, đất, phân chuồng, vôi, cây giống và công lao động Hoàng Thị Thái Hòa và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 126 quả cao nhất (năng suất tương ứng 17,65–17,70 tấn/ha), với giá bán trên thị trường ở thời điểm hiện tại là 20.000 đ/kg thì cho lợi nhuận trong sản xuất rau xà lách dao động 353.000.000– 354.000.000đ/ha. Mức chênh lệch hiệu quả kinh tế ở cùng tỷ lệ phun 1:10 giữa hai dạng phân bón lá rong biển và bèo tây từ 13–28 triệu đồng/ha. Đa các công thức đều cho hệ số VCR > 3 điều này chứng tỏ rằng việc đầu tư bổ sung phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và bèo tây sẽ làm cho cây xà lách sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế. 4 Kết luận và đề nghị Phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và bèo tây có ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây rau xà lách. Số lá trên cây rau xà lách đạt cao nhất tại tỷ lệ phun 1:10 ở cả hai dạng phân bón lá sinh học. Dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển với tỷ lệ phun 1:10 cho kết quả cao nhất ở cả hai vụ lần lượt là 42,48 g/chậu và 41,19 g/chậu đối với năng suất sinh vật; 40,23 g/chậu và 40,12 g/chậu đối với năng suất kinh tế. Cả hai dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và bèo tây với tỷ lệ phun 1:10 đều cho lợi nhuận và hiệu quả kinh tế cao, trong đó dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển cho hiệu quả tốt hơn. Sử dụng dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển cho độ Brix trong lá cao hơn (2,5%). Độ giòn của lá khi sử dụng cả hai dạng phân bón lá sinh học được đánh giá điểm từ 4–5, đạt yêu cầu về khẩu vị. Hàm lượng đạm nitrate tồn dư ở rau khi sử dụng dạng phân bón lá sinh học từ bèo tây là 200–250 mg/kg, từ dạng phân bón lá sinh học từ rong biển là 200 mg/kg tại các tỷ lệ phun khác nhau. Bước đầu đã xác định được dạng phân bón lá sinh học chiết rút từ rong biển và bèo tây với tỷ lệ phun 1:10 cho cây xà lách mang lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao trên nền 15 tấn phân chuồng và 500 kg vôi. Lời cám ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Huế trong đề tài mã số DHH2020-02-135. Tài liệu tham khảo 1. Ancion PV., Hoang Thi Thai Hoa, Ton That Phap, Pham Quang Tu, Chiang C, Dufey JE, (2009), Utilisation agricole de plantes aquatiques, notamment en tant qu’amendement des sols, dans la province de Thua Thien Hue, Centre Vietnam. I. Inventaire, abondance et carac- térisation chimique des plantes aquatiques disponibles localement, Tropicultura, 27(3), 144– 151. 2. Trần Nguyễn Quỳnh Anh, Lương Quang Đốc, (2012), Hiện trạng cỏ thủy sinh ở khu bảo vệ thủy sản CồnChìm, phá Tam Giang – Cầu Hai, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, 73(4), 9–17. Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 127 3. Nguyễn Văn Bộ, (2000), Nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam - thách thức và cơ hội, Báo cáo hội thảo “Hướng tới các cơ hội mở rộng xuất khẩu sản phẩm Nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam”, Hà Nội, 6–8/9/2000. 4. Nguyễn Văn Bộ, (2014), Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón ở Việt Nam, Hội thảo Quốc gia về Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón tại Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp. 5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, (2007), Qui định về quản lý sản xuất và chứng nhận rau an toàn, Quyết định số 04/2007/QĐ-BNN ngày 19/01/2007. 6. Phạm Anh Cường, (2004), Điều tra tình hình sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật của nông dân ấp Đình, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi - thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo tổng kết, Sở NN và PTNT Tp. Hồ Chí Minh. 7. Hoàng Thị Thái Hòa, Nguyễn Văn Long, Đỗ Đình Thục, N. Cl. Chiang và J. E. Dufey, (2007), Ảnh hưởng của các dạng phân hữu cơ đến năng suất lạc và khả năng khoáng hóa đạm trên đất cát biển Thừa Thiên Huế, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 4, 87–90. 8. Hoàng Thị Thái Hòa, Đỗ Đình Thục, (2010), Đặc tính hóa học của một số loại phân hữu cơ và phụ phẩm cây trồng sử dụng trong nông nghiệp trên vùng đất cát biển tỉnh Thừa Thiên Huế Tạp chí Khoa học Đại học Huế, 57, 59–68. 9. Lê Quốc Phong, Phạm Anh Cường, Mai Văn Quyền, (2011), Ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất phân hữu cơ. 10. Trần Nguyễn An Sa, Trương Bách Chiến, Đỗ Bích Thủy, Phùng Thị Huyền Trân, Lê Thị Thanh Thương, Nguyễn Thị Thủy Tiên, (2018), Nghiên cứu chiết xuất các duỡng chất từ rong mơ (Sargassum sp.) định hướng sử dụng làm phân bón lá hữu cơ, Tạp chí Khoa học Công nghệ và Thực phẩm, Số 17(1), 76–89. 11. Nguyễn Đình Thi, Lê Kim Nam, Trần Thị Nhi, (2013), Nghiên cứu sử dụng phân bón lá hữu cơ Maya-T1 cho các loại rau ăn lá phổ biến trong vụ hè thu tại thành phố Huế, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, Số 79(1). 12. TCVN 8160-7-2010, Thực phẩm - Xác định hàm lượng nitrate và/hoặc nitrite - Phần 7: Xác định hàm lượng nitrate trong rau và sản phẩm rau bằng phương pháp phân tích dòng liên tục sau khi khử bằng cadimi, Bộ Khoa học Công nghệ.
File đính kèm:
- nghien_cuu_anh_huong_cua_ty_le_phun_phan_bon_la_sinh_hoc_tu.pdf