Nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi bulgakov những năm 1920 qua “những cuộc phiêu lưu của chichikov”
Bài viết đề cập một cách tổng quát vấn đề thể loại, giá trị nội dung và đặc điểm
nghệ thuật của các tác phẩm feuilleton trong văn xuôi trào phúng Bulgakov giai đoạn
những năm 1920 và đi sâu phân tích “Những cuộc phiêu lưu của Chichikov” - một tác
phẩm feuilleton cụ thể, tiêu biểu thuộc thể loại này của ông
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi bulgakov những năm 1920 qua “những cuộc phiêu lưu của chichikov”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ thuật trào phúng trong văn xuôi bulgakov những năm 1920 qua “những cuộc phiêu lưu của chichikov”
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 19 NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG VĂN XUÔI BULGAKOV NHỮNG NĂM 1920 QUA “NHỮNG CUỘC PHIÊU LƯU CỦA CHICHIKOV” Đặng Đức Hiệp1 Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt: Bài viết đề cập một cách tổng quát vấn đề thể loại, giá trị nội dung và đặc điểm nghệ thuật của các tác phẩm feuilleton trong văn xuôi trào phúng Bulgakov giai đoạn những năm 1920 và đi sâu phân tích “Những cuộc phiêu lưu của Chichikov” - một tác phẩm feuilleton cụ thể, tiêu biểu thuộc thể loại này của ông. Từ khóa: văn xuôi Bulgakov, feuilleton, Những cuộc phiêu lưu của Chichikov 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Khi nghiên cứu mảng văn xuôi của Bulgakov những năm 1920, bên cạnh những tác phẩm mà vấn đề thể loại của chúng đã khá rõ ràng, không cần có thêm bất kỳ một sự minh định nào khác nữa (ví dụ các tiểu thuyết Bạch vệ, Nghệ nhân và Margarita; các truyện dài Ổ quỷ, Những quả trứng định mệnh, Trái tim chó hay các truyện ngắn như trong tập Bút ký của một bác sĩ trẻ), các nhà nghiên cứu còn gặp một thể loại khác, khá đặc biệt, một thể loại đã có vai trò lịch sử quan trọng trong đời sống thường ngày những 1920 và trong sự nghiệp văn chương của Bulgakov nói chung, đó là thể loại feuilleton (фельетон). 124 tác phẩm tiêu biểu nhất ông viết những năm 1922 - 1926 thuộc thể loại này được chọn lọc và sắp xếp theo trình tự thời gian trong tập thứ 2 của М.А Bulgakov. Hợp tuyển (tiếng Nga) gồm 5 tập do Nxb Văn học nghệ thuật Моskva ấn hành năm 1992 [1, tr.211- 640]. Có nhiều định nghĩa khác nhau về feuilleton, song chung nhất: “Feuilleton - (nguyên gốc tiếng Pháp feuilleton, bắt nguồn từ feuille - tờ giấy), là một loại thể văn chính luận 1 Nhận bài ngày 04.03.2016, gửi phản biện và duyệt đăng ngày 28.04.2016 Liên hệ tác giả: Đặng Đức Hiệp; Email: dangduchiepcuom@gmail.com TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 20 nghệ thuật, tồn tại chủ yếu trong báo chí. Sự ra đời của feuilleton bắt đầu vào hồi đầu thế kỷ 19, khi trong một tờ báo của Pháp có kèm theo một tờ rời có bài viết mang tính tiêu khiển, giải trí. Khái niệm về feuilleton như một bài báo bất kỳ nào được viết một cách sinh động đã tồn tại trong suốt một thời gian dài. Chỉ đến thời đại chúng ta feuilleton mới được phân lập với những đặc trưng, dấu hiệu loại thể chính xác. Ở nước Nga, feuilleton thịnh hành trong những năm 30 của thế kỷ 19. Với tư cách là một loại thể văn chính luận nghệ thuật, feuilleton mang trong nó tính thời sự cấp thiết, tính hình tượng sâu sắc, tính tài liệu chính xác và tính cảm xúc cao. Feuilleton chủ yếu có khuynh hướng trào phúng” [6, tr.204]. Như thế, với các đặc điểm về nội dung và hình thức khá rõ ràng như trên, feuilleton phù hợp với mọi thể loại sáng tác có thể chuyển tải nhanh nhất các thông điệp và sự kiện cấp thiết như truyện ngắn, tiểu phẩm, tiểu phẩm, kí, hoạt cảnh, tạp văn Thống nhất với cách hiểu đó, dịch giả Đoàn Tử Huyến đã dịch nhan đề một số tác phẩm feuilleton của Bulgakov sang tiếng Việt và định loại như sau: Buổi chiêu hồn (truyện ngắn), 1922; Những cuộc phiêu lưu của Tritricov (truyện ngắn), 1922; Thành phố Kiev (kí), 1923; Thủ đô trong sổ tay (kí), 1923; Chén đời (truyện ngắn), 1923; Thành phố ánh vàng (kí), 1923; Thánh ca (truyện ngắn), 1923; Đảo thắm (truyện ngắn), 1924; Moskva những năm 20 (kí), 1924; Du lịch Krưm (kí), 1925; Tháng Năm (truyện ngắn), 1934 [8, 1145]. 2. NỘI DUNG Thời kỳ những năm 1919 - 1926 là một thời kỳ lịch sử đặc biệt của nước Nga. Nước Nga lúc đó đang trong giai đoạn khắc phục những hậu quả nhiều mặt của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, của cuộc Cách mạng tháng Mười và cuộc Nội chiến. Bulgakov đã từng đi nhiều nơi, làm nhiều ngành nhiều nghề để kiếm sống và tập viết. Tháng Chín năm 1921, từ Kavkaz, ông tới Moskva và từ đó định cư vĩnh viễn tại đây. Từ tháng 11/1921 đến giữa tháng 01/1922, Bugakov cộng tác với tờ Bản tin công thương với tư cách là thông tín viên và sau đó là phóng viên. Mùa xuân 1922, Bulgakov bắt đầu cộng tác với tờ Đêm trước - tờ báo này bắt đầu xuất bản từ 26 tháng Ba 1922. Đến tháng Hai 1923, khi Bulgakov được nhận vào biên chế của tờ Tiếng còi với chức danh là biên tập viên, tức là người chuyên sửa các lỗi ngữ pháp trong các bản tin gửi về tòa soạn của các thông tín viên công nhân, thì ông đã thực sự say mê, toàn tâm toàn ý, hiến hết mình cho công việc làm báo và viết lách. Và đến mùa thu năm 1923 thì Bulgakov đã trở thành cây bút chuyên viết feuilleton, đôi khi có đến 4 - 5 bài được in trong một tháng. Công việc ở hai tòa soạn báo Đêm trước và Tiếng còi có một vị trí quan trọng trong cuộc đời của Bulgakov những năm 1920. Bulgakov viết các tác phẩm này chủ yếu trong các năm 1922 - 26 và phần lớn chúng được đăng tải trên các xuất bản phẩm định kỳ (gồm báo và tạp chí) khác nhau của thời kỳ đó, chủ yếu là trên tờ Đêm trước (gồm 20 bài) và trên tờ Tiếng còi (gồm 87 bài). Về sau, nhiều tác phẩm trong số này được Bulgakov cho in lại trong các tập Người thích đùa xuất bản tại Leningrad năm TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 21 1926; Vấn đề nhà ở xuất bản tại Moskva - Leningrad năm 1926; và trong tập Tổ quỷ - Các truyện ngắn xuất bản tại Moskva năm 1925, 1926. 2.1. Các tác phẩm trào phúng đăng trên các báo Đêm trước và Tiếng còi Đêm trước là tờ báo ngày của giới lưu vong người Nga được xuất bản tại Berlin. Thực tế, những người thuộc nhóm này đã tuyên bố một đường lối xích lại gần với nước Nga xô- viết và họ đã hướng cho tờ Đêm trước đi theo một đường hướng như vậy. Ngay từ tháng Bảy năm 1922, Toà soạn báo Đêm trước đã được khai trương tại Moskva. Nhiệm vụ của tờ báo này là giới thiệu, quảng bá giúp cho các độc giả người Nga ở nước ngoài có được những hiểu biết về cuộc sống và những sinh hoạt khác của nước Nga xô-viết và những triển vọng phát triển của nó. Vì thế, một mặt, tờ báo này đặc biệt chú ý đến các loại thông tin khác nhau, mặt khác lại có những bài viết sâu đề cập đến các hiện tượng mới của đời sống đất nước. Một công việc như thế hấp dẫn, cuốn hút Bulgakov. Giọng ... một số vốn liếng kếch xù, Chichikov liền đệ đơn xin thuê một doanh nghiệp XYZ nào đó mà việc thuê đó hứa hẹn sẽ mang lại cho nhà nước một nguồn lợi lớn. Tiếp đó mọi việc của Chichikov diễn ra với quy mô và tốc độ chóng mặt: Chichikov đã bán đứt cho mụ Korobochka cả khu Quần ngựa nổi tiếng, đã trúng thầu dự án điện khí hoá thành phố, đã thiết lập một tổ hợp sản xuất thép từ mùn cưa. Sau khi mọi việc vỡ lở, người ta mới đọc lại bản lý lịch tự khai của Chichikov và nháo nhào bổ đi tìm kiếm cái doanh nghiệp mà Chichikov xin thuê và đến lúc đó mới tá hoả ra rằng đó chính là tượng đài Pushkin trên phố Tver. Người kể chuyện - tác giả của bài feuilleton này -M.A. Bulgakov - liền đứng ra nhận lãnh trách nhiệm truy lùng và vô hiệu hoá tên đại bịp Chichikov. Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tác giả - M.A. Bulgakov - được yêu cầu: “Hãy nói đi, anh muốn được thưởng những thứ gì”, Bulgakov lúc đầu trả lời: “Một chiếc quần nửa cân đường và một cây đèn 25 nến”, nhưng sau đó “bỗng nhiên chợt nhớ ra rằng một nhà văn đứng đắn thì không được là một người ích kỷ, vậy nên tôi chẳng xin gì cả ngoài một bộ Gogol toàn tập, bìa cứng, bộ sách mà cách đây không lâu tôi đã phải đem ra bán nó ở chợ trời”. Tuy nhiên, vào đúng lúc “trên bàn tôi hiện ra một bộ Gogol toàn tập, bìa cứng, gáy mạ vàng” [1, tr.241], thì “tôi tỉnh giấc. Và chẳng thấy gì cả: chẳng thấy Chichikov, chẳng thấy Nozdryov, và quan trọng nhất là chẳng thấy Gogol nào cả” [1, tr.242]. Chỉ là một giấc mơ. Những cuộc phiêu lưu của Chichikov là một tác phẩm feuilleton, đôi khi được các nhà nghiên cứu (ví dụ, B. Sokolov) định loại là một “truyện vừa trào phúng cỡ nhỏ” - (“маленькая сатирическая повесть”) với phụ đề Trường ca gồm 10 khúc ca, Lời mở đầu và Bạt hậu (Поэма в 10-и пунктах с прологом и эпилогом) được đăng tải trên tờ Đêm trước tại Berlin ngày 24 tháng Chín 1922. Chỉ riêng nhan đề của tác phẩm feuilleton này đã ngay lập tức đưa người đọc trở lại với kiệt tác Những linh hồn chết (Мертвые души - 1840) và của N.V. Gogol (1809 - 1852). Đóng vai trò chính trong tác phẩm feuilleton này là các nhân vật của Những linh hồn chết (trước hết là Chichikov), song ngoài ra cũng còn có sự hiện diện của cả những cốt truyện, những nhân vật và nhiều diễn ngôn trích dẫn từ các tác phẩm khác, chẳng hạn Quan thanh tra (Ревизор - 1835), Những con bạc (Игроки - 1842) và Cái mũi (Нос - 1836). Các nhân vật của Gogol được Bulgakov đưa trở lại nước Nga sau Cách mạng vào đúng thời kỳ НЭП - một đề tài sở trường của Bulgakov - một môi trường mà các nhân vật này cảm thấy cực kỳ thoải mái, cả về mặt thể xác lẫn tâm hồn, như “cá về biển lớn” vậy. Vẫn những con người hủ lậu, phàm tục, vẫn những khuôn mặt thủ cựu, thờ ơ, vô cảm như 100 năm trước đó. Vẫn những tệ nạn tham nhũng, hối lộ, vẫn một TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 26 thái độ thờ ơ vô cảm, cẩu thả, bất tài, dốt nát. Hơn thế nữa, trong một số lĩnh vực, theo nhìn nhận của Bulgakov, sự thể còn tồi tệ hơn cả trăm năm trước đó. Đặt tên cho tác phẩm feuilleton của mình là Những cuộc phiêu lưu của Chichikov, đó là một ứng dụng tài tình thủ pháp liên văn bản của Bulgakov. Bởi đó chính là nhan đề mà kiểm duyệt Sa hoàng đã nghĩ ra và buộc Gogol phải sử dụng để thay thế cho nhan đề nguyên bản tác phẩm của ông - Những linh hồn chết. Bulgakov đã không chỉ giữ nguyên như vậy, mà còn “chua” thêm phụ đề một cách có dụng ý: Trường ca gồm 10 ca khúc với Lời mở đầu và Lời bạt hậu. Ngay Lời giới thiệu đã có những dòng trích dẫn từ kiệt tác Gogol: “- Giữ chặt, giữ chặt lấy dây cương, đồ ngu! Chichikov quát Selifan. - Một nhân viên công vụ, ria mép dài đến cả một arsin (= 0, 71 m) đang phóng từ phía trước lại và thét lác ầm ĩ: - Ta thì phạt cho một nhát kiếm bây giờ! - Quỷ tha ma bắt mày đi! Thấy xe nhà nước mà không tránh sang một bên à?” [3, tr.369]. Tiếp theo trong phần Mở đầu, Bulgakov đã đồng loạt cho các nhân vật “trình diện” theo thứ tự: “Manilov mặc chiếc áo khoác ngoài bằng lông gấu khuyềnh khoàng, Nozdryov trên một chiếc xe khác mới chiếm dụng, Derzhimorda thì trên một chiếc xe cứu hỏa, Selifan, Petrushka, Fetinya Và đi sau chót là y, Pavel Ivanovich Chichikov, trong chiếc xe britchka nổi tiếng” [1, tr.230]. Tiếp đó là sự xuất hiện của hàng loạt nhân vật khác: “tay quý tộc hương thôn là Manilov, một người rất lễ độ, nhã nhặn”; Selifan - “gã xà-ích người thấp bé, mặc áo tulup ngắn và Petrushka, trạc 30, diện chiếc áo đuôi én rộng thùng thình thừa hưởng của chủ, vẻ mặt hơi khắc khổ, mũi to, môi dày”; Fetinya - vốn là một nữ gia nô nấu bếp kiêm hầu phòng của mụ địa chủ Korobochka; Nozdryov - “theo một nghĩa nào đó là một nhân vật lịch sử” được Gogol lần lượt đề cập đến trong chương Một, chương Ba và chương Bốn của Những linh hồn chết. Còn nhân vật Derzhimorda thì lại là một trong hai viên cảnh sát trong Quan thanh tra. Bằng thủ pháp liên văn bản, Bulgakov đã giúp độc giả đã có được một thế giới chân dung phong phú cùng với những tính cách đã được khắc họa của các nhân vật. Ở đây, Bulgakov đã mô phỏng, nhại lại danh từ trường ca, vì chính Gogol đã xác định thể loại của Những linh hồn chết là “trường ca” (Поэма). Bulgakov đã khéo léo sử dụng đoạn văn ám chỉ bóng gió đến một chuyến xe công vụ khẩn cấp trong Những linh hồn chết để tạo ấn tượng rằng tác phẩm feuilleton này của ông lại sẽ nhắm vào việc phê phán một khía cạnh nào đó của hệ thống quan liêu. Nhưng không, trong tác phẩm này ông đã tạo dựng một kịch bản hoàn toàn ngược lại. Thay cho việc cả một hệ thống quan liêu tác oai tác quái, cấu kết với nhau để nghiền nát một cá nhân (như Korotkov trong Ổ quỷ), ông đã dựng một câu chuyện về một cá nhân có tên có tuổi - đó là nhân vật Chichikov, một sáng tạo vĩ đại của Gogol - tấn công trực diện (và đã chiến thắng) vào hệ thống quan liêu của nước Nga Sa hoàng mà tàn dư của nó vẫn còn rơi rớt vào thời sau cách mạng. Ranh mãnh và táo bạo đến liều lĩnh - đó là những phẩm chất mà nhờ vào đó Chichikov đã qua mặt TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 27 được cả một hệ thống - một hệ thống đã khiến Korotkov trong Ổ quỷ của Bulgakov phải chết một cách tức tưởi. Bằng việc sử dụng chính những “thân hữu có liên hệ” và những quy định thành văn chính thức, Chichikov đã chiến thắng ngay từ vòng đầu. Chichikov đã sử dụng một cách có hiệu quả chính những điều kiện rối rắm, chồng chéo (vốn đã tồn tại trong Ổ quỷ) - một khối lượng khổng lồ những giấy tờ các loại, thói vô trách nhiệm phổ biến (mà theo đó một người nào đó, hoặc là vô tình, hoặc là cố ý, vô tư ký hộ các loại giấy tờ không đúng thẩm quyền và trách nhiệm của mình). Chính ngay trong phần Mở đầu (Пролог), Bulgakov thông báo cho độc giả biết rằng tất cả những sự kiện trong câu chuyện của ông chỉ là một giấc mơ. Nhưng ông chỉ đề cập điều đó một cách qua quýt bằng cách viết mỗi một câu: “Một giấc mơ kỳ lạ” [1, tr.230], mà thực chất đây là một tiểu xảo ranh mãnh, theo cách riêng (rất Bulgakov), khiến độc giả chẳng mấy lưu tâm để ý. Và chỉ mãi đến phần Bạt hậu (Эпилог), độc giả mới giật mình nhớ ra rằng đó chỉ là một giấc mơ. Trong tác phẩm feuilleton này, giễu nhại, ngoa dụ, huyễn tưởng và nghịch dị là những thủ pháp trào phúng được sử dụng để nhằm đạt được ý đồ thực sự của nhà văn - đó là đả kích không thương tiếc guồng máy nhà nước và cả những con người của nó trong thời kỳ НЭП bằng cách bóc trần tệ quan liêu, hối lộ, cửa quyền trong nền hành chính mới. Bối cảnh của “giấc mơ kỳ quái” của người kể chuyện (Bulgakov) là Moskva những năm đầu của thập niên 1920, nhưng thủ pháp huyễn tưởng và nghịch dị là sự tiếp nối từ Gogol. Những nhân vật phản diện mà Bulgakov phát hiện trong nước Nga xô-viết không những chỉ đơn giản được kế thừa từ thời đại của Gogol (bởi những tính cách, phẩm chất của những nhân vật tiêu cực này đều mang tính chất đặc trưng Nga hoặc là mang tính phổ quát), mà hơn thế nữa Bulgakov còn khiến sự xuất hiện của những nhân vật này mang một tính chất siêu nhiên, một trò quỷ quái: “Một giấc mơ kỳ quái Dường như là trong vương quốc bóng tối, trên lối vào của nó có một ngọn đèn không tắt và có treo một tấm bảng với dòng chữ “Những linh hồn chết”, một con quỷ nhăn nhở ra mở cửa. Cả vương quốc chết chóc bắt đầu cựa quậy Và rồi cả bầu đoàn tiến vào nước Nga xô-viết, và sau đó đã diễn ra những sự biến kinh ngạc, và như thế nào thì xin theo dõi những đoạn sau đây” [1, tr.230]. Bằng cách gọi nước Nga xô-viết bằng cái tên cổ xưa (“Советскую Русь”), Bulgakov dường như muốn tiếp tục truyền thống Gogol, muốn ám chỉ rằng trước đó rất lâu, trước cả thời của Gogol, nước Nga, do cấu trúc xã hội bảo thủ, lạc hậu của nó, đã là “vương quốc của bóng tối” và của “những linh hồn chết”. Văn học Nga thế kỷ 19 đầy rẫy những nhân vật mà sự tồn tại của họ trong nước Nga cứ như là sự tồn tại trong “vương quốc của bóng tối” (в темном царстве). Điều đó giải thích lý do tại sao những bóng ma trong vương quốc chết chóc hoàn toàn cảm thấy mình như cá về biển lớn trong một nước Nga mới và tại sao mà những nhân vật của Gogol (những địa chủ, những nông nô, những kẻ bịp bợm), cho dù TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 28 theo đòi những nghề nghiệp khác nhau, nhưng độc giả vẫn dễ dàng nhận ra. Mặc dù nhà văn nhấn mạnh rằng đã diễn ra “những sự biến kinh ngạc”, nhưng đối với độc giả, những sự biến này là quá đỗi quen thuộc. Sự “tái xuất” của Chichikov hoàn toàn không mang tính căm ghét hay là châm chọc mà được miêu tả một cách hài hước, thuần túy pha trò thậm chí là thú vị nữa. Ở đây, sự giễu nhại nhân vật, chi tiết, câu chữ của Bulgakov hoàn toàn không nhằm hạ thấp Những linh hồn chết mà thực ra, hơn thế, lại là một sự vinh danh đối với Gogol vì ông đã sáng tạo ra một loạt những nhân vật không chỉ liên quan tới nước Nga nông nô (chế độ nông nô bị bãi bỏ vào năm 1861) mà cả những nhân vật vẫn còn sống với tâm thức, não trạng dân tộc. Chichikov của Bulgakov, thay cho việc đi tìm mua linh hồn những nông nô đã chết (để làm tài sản thế chấp để vay tiền nhà nước và kinh doanh), đã tiến hành hàng loạt những phi vụ làm ăn bất lương mà một trong số đó là bằng cách thuê một “doanh nghiệp ma” mà Chichikov đã dễ dàng vay được tiền số tiền khổng lồ đến nỗi: “Nhìn vào tổng số tiền cho vay, thủ quỷ hoàn toàn nghẹt thở. Chichikov ký nhận và chở nghiến số tiền ấy đi trên ba chiếc xe ngựa” [1, tr.234]. Trong điều kiện НЭП, Chichikov của Bulgakov thậm chí còn thành công hơn cả Chichikov của Gogol. Bulgakov tất nhiên không tha thứ cái môi trường đạo đức đã cho phép Chichikov thành công trên cả mức mong đợi, nhưng ông cũng thích thú trong việc bóc trần hệ thống quan liêu Nga thâm căn cố đế vẫn còn sống sót sau cách mạng. 3. KẾT LUẬN Không thể phủ nhận ảnh hưởng của Gogol đối với văn xuôi Bulgakov những năm 1920, và điều này được thể hiện đặc biệt rõ trong phong cách của tác phẩm feuilleton Những cuộc phiêu lưu của Chichikov (thông qua những mô phỏng, những giễu nhại lộ liễu) hay trong Quan thanh tra phải đấm (“Ревизор” с вышибанием) - một tác phẩm feuilleton khác. Nhưng cũng không thể không nhận ra những đặc điểm rất riêng của Bulgakov, những dấu ấn tác giả không thể trộn lẫn - cụ thể là những yếu tố trùng lặp ngẫu nhiên, những biến chuyển bất ngờ, những xúc cảm mạnh mẽ. Và đây chính là những yếu tố không thể tách rời của nghệ thuật nghịch dị Bulgakov. Chúng hiện diện đậm đặc và được sử dụng như một cấu phần của trật tự tự nhiên. Lý do là vì, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, chúng đều liên quan đến hiện thực khắc nghiệt - cái tạo nên phông nền xã hội, tạo nên căn cốt cho văn xuôi Bulgakov giai đoạn những năm 1920. Điều này cũng giải thích tại sao nhân vật Chichikov của Bulgakov lại ít tế nhị, ít duyên dáng, ít suy tư nhưng lại hỗn láo, xấc xược hơn so với nhân vật Chichikov của Gogol trước đó gần trăm năm. Chất trào phúng của Gogol là chất trào phúng dễ mến, hiền lành, nhã nhặn. Còn trào phúng của Bulgakov thì thô nhám, góc cạnh, tức cười và ít chất thơ hơn. Văn xuôi trào phúng của Bulgakov dựa TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 29 chủ yếu vào phép ngoa dụ để miêu tả các sự kiện và chân dung các nhân vật. Điều này ít thấy trong tác phẩm của Gogol. Có thể coi Những cuộc phiêu lưu của Chichikov là một tác phẩm điển hình cả trên bình diện đề tài và thể loại, thể hiện một cách đầy đủ các đặc điểm về phong cách cấu trúc, bút pháp của văn xuôi trào phúng Bulgakov những năm 1920. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. M.A. Булгаков (1992), Собранение сочинений в пяти томах, (том второй) - Moсквa, Художественная литература. 2. Н.В. Гоголь (1969), Сочинения в двух томах, (том первый) - Издательство Художественная литература. 3. Н.В. Гоголь (1980), Ревизор. Мертвые души. Казань. - Татарское Книжное Издательство. 4. M.C. Кривошейкина (2004), Жанр фельетона в журналистком творчестве M.A. Булгакова: Период работы в газетах Гудок и Накануне. - Тверь. 5. Большой Российский Энциклопедический Словарь (2003). - Научное Издательство “Большая Российская Энциклопедия”. - Москва. 6. Литература. Справочные материалы (1988). - Москва, Просвешение. 7. N.V. Gogol (1965), Những linh hồn chết (hai tập), Hoàng Thiếu Sơn dịch, Nxb Văn học, Hà Nội. 8. Mikhail Bulgakov (1998), Tuyển tập văn xuôi (Đoàn Tử Huyến dịch, giới thiệu và chú giải), Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Lỗ Tấn (1956), Tuyển tập tạp văn (Phan Khôi dịch), Nxb Văn nghệ, Hà Nội. 10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. THE SATIRICAL ART OF BULGAKO’S PROSE IN THE 1920S THROUGH THE WORK NAMED "THE ADVENTURES OF CHICHIKOV" Abstract: This article covered generally the issues of genre, content’s values and artistic features of the “feuilleton” in Bulgakov’s satirical prose in the 1920s and provided in- depth analysis regarding the work named The adventures of Chichikov, which is one typical and concrete work of his feuillleton genre. Key words: Bulgakov’s prose, feuilleton, The adventures of Chichikov
File đính kèm:
- nghe_thuat_trao_phung_trong_van_xuoi_bulgakov_nhung_nam_1920.pdf