Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng
Nội dung
Bài hai trình bày khái niệm và bản chất về rủi ro tín dụng, và mối quan hệ của nó với các
loại rủi ro khác trong ngân hàng thương mại. Phân tích những nguyên nhân gây ra rủi ro
tín dụng, từ đó làm cơ sở để sinh viên nghiên cứu nội dung quản lý rủi ro tín dụng ở bài
tiếp theo.
Mục tiêu
Sau khi học xong bài này, sinh viên cần thực hiện được các việc sau:
Trình bày được các khái niệm rủi ro tín dụng và bản chất của rủi ro tín dụng;
Phân tích được các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng;
Hiểu được mối liên hệ giữa rủi ro tín dụng và các loại rủi ro khác.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng
Bài 2: Rủi ro tín dụng TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 21 BÀI 2 RỦI RO TÍN DỤNG Hướng dẫn học Bài này giới thiệu về loại rủi ro cơ bản và quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại: Rủi ro tín dụng. Sau khi tìm hiểu về khái niệm rủi ro tín dụng ở bài trước, ở bài này, sinh viên cần tìm hiểu sâu hơn về bản chất của rủi ro tín dụng, những nguyên nhân gây ra rủi ro này và hậu quả mà nó gây ra cho bản thân ngân hàng và rộng hơn là nền kinh tế. Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau: Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn. Đọc tài liệu: 1. Phan Thị Thu Hà (2013), Ngân hàng Thương mại, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Chương 9. 2. Peter S. Rose (2003), Quản trị Ngân hàng Thương mại, Sách dịch. Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. 3. Joel Bessis (2012), Quản trị rủi ro trong ngân hàng, Sách dịch. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội. Chương 13, chương 19, chương 20 và chương 21. Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email. Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học. Nội dung Bài hai trình bày khái niệm và bản chất về rủi ro tín dụng, và mối quan hệ của nó với các loại rủi ro khác trong ngân hàng thương mại. Phân tích những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng, từ đó làm cơ sở để sinh viên nghiên cứu nội dung quản lý rủi ro tín dụng ở bài tiếp theo. Mục tiêu Sau khi học xong bài này, sinh viên cần thực hiện được các việc sau: Trình bày được các khái niệm rủi ro tín dụng và bản chất của rủi ro tín dụng; Phân tích được các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng; Hiểu được mối liên hệ giữa rủi ro tín dụng và các loại rủi ro khác. Bài 2: Rủi ro tín dụng 22 TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 Tình huống dẫn nhập Khủng hoảng ngân hàng Hoa Kỳ Khủng hoảng các khoản vay dưới chuẩn là một cuộc khủng hoảng tài chính liên quan đến thị trường bất động sản ở Mỹ và bắt đầu lan rộng ra toàn cầu từ năm 2007. Các khoản vay dưới chuẩn (subprime) là những khoản vay được thế chấp bằng bất động sản với lãi suất thả nổi rất phổ biến ở Hoa Kì. Do giá nhà ở không ngừng tăng lên trong nhiều năm, những khoản vay này được đánh giá là rủi ro nhưng rất sinh lời. Rất nhiều hộ gia đình Mỹ đã bị hấp dẫn bởi các khoản cho vay này do kì hạn trả nợ dài cho phép họ có thể cho thuê căn hộ dễ dàng để trang trải tiền nợ. Các ngân hàng Mỹ thì tin rằng nếu các hộ gia đình không trả được nợ, việc bán lại các tài sản đảm bảo là những căn hộ vẫn chắc chắn đem lại cho họ mức lợi suất cao nên đẩy mạnh việc cho vay với ngay cả những khách hàng dưới chuẩn (những khách hàng được đánh giá có rủi ro tín dụng vượt mức cho phép). Do theo đuổi mức lợi suất cao trong thời gian đầu và vì mục tiêu đảm bảo thanh khoản, các ngân hàng đã tiến hành bán lại các khoản nợ này thông qua các công ty chuyên nghiệp gọi tắt là SPV (Special Purpose Vehicle), từ đó lập ra những chứng khoán để rao bán trên thị trường tài chính. Những tổ chức chấm điểm đã đánh giá các khoản tín dụng này ở mức AAA (điểm cao nhất) khiến việc mua đi bán lại các khoản nợ trở nên rất dễ dàng do công chúng bị thuyết phục bởi rủi ro thấp và mức độ sinh lời cao khi đầu tư vào các giấy tờ này. Tuy nhiên, việc nhiều khách hàng dưới chuẩn mất khả năng thanh toán khi lãi suất tăng cao, làm ngân hàng tiến hành bán tài sản đảm bảo để thu hồi nợ khiến số lượng căn hộ bán ra ở Mỹ tăng vọt và hệ quả là giá nhà lao dốc nhanh chóng. Từ sau tháng 7 năm 2007, 500 tỷ đôla giá trị trên thị trường chứng khoán đã bốc hơi, từ 1 đến 3 triệu hộ gia đình Mỹ đứng trước nguy cơ bị mất nhà, gần 84 tổ chức tín dụng bị phá sản 1. Khủng hoảng bắt nguồn từ đâu? 2. Những tác động của khủng hoảng lên nền kinh tế và các hộ gia đình Mỹ là gì? 3. Khủng hoảng lan rộng ra quy mô thế giới như thế nào? Bài 2: Rủi ro tín dụng TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 23 2.1. Khái quát về rủi ro tín dụng 2.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng Rủi ro thường hàm chứa trong nó là khả năng xảy ra tổn thất và có thể diễn ra đối với tất cả các lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính. Rủi ro có thể xuất hiện bất ngờ và gây tổn thất lớn tới lợi nhuận cũng như sự an toàn của ngân hàng. Vì vậy việc dự đoán, phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất là một trong những nội dung mà ngân hàng cần đặc biệt quan tâm. Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro lâu đời nhất và lớn nhất trong thị trường tài chính, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng vì các khoản tín dụng thường chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 70% - 90% thu nhập cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng cũng là loại rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa khó khăn nhất, đòi hỏi ngân hàng phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để ngăn ngừa, hạn chế và giảm thiểu tối đa những thiệt hại có thể xảy ra. Chính vì vậy, khái niệm rủi ro tín dụng được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra những ý kiến khác nhau, tiêu biểu như: Rủi ro tín dụng là những tổn thất do khách hàng vay không trả được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của khoản vay.1 Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc việc thanh toán gốc và lãi không đúng kì hạn.2 Rủi ro tín dụng là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc không hoàn trả gốc so với thời gian ấn định trong hợp đồng tín dụng.3 Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.4 Những khái niệm trên đều chứa đựng cách hiểu chung nhất về rủi ro tín dụng đối với một khoản tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất khi khách hàng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ theo hợp đồng tín dụng đã kí giữa ngân hàng và ... qua loa hơn. Hơn nữa, nhiều ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận nên đã chấp nhận rủi ro cao, bất chấp những khoản vay không lành mạnh, thiếu an toàn. Bài 2: Rủi ro tín dụng TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 27 Không sẵn có những thông tin cần thiết cho quá trình ra quyết định tín dụng: Chất lượng của thông tin có tác động trực tiếp đến tính chính xác của những quyết định tín dụng được đưa ra. Cơ sở dữ liệu nghèo nàn trong và ngoài ngân hàng về khách hàng và môi trường kinh doanh của khách hàng có thể đưa ngân hàng đến những quyết định sai lầm, tín dụng được cấp cho những khách hàng có khả năng trả nợ kém, chậm phát hiện rủi ro, biện pháp xử lý rủi ro không phù hợp với nguyên nhân gây ra rủi ro. Mở rộng hoạt động tín dụng quá mức: Việc làm này thường tạo điều kiện cho rủi ro tín dụng tăng lên. Mở rộng tín dụng quá mức đồng nghĩa với việc lựa chọn khách hàng kém kỹ càng, khả năng giám sát của cán bộ tín dụng đối với việc sử dụng khoản vay giảm xuống, đồng thời cũng làm cho việc tuân thủ chặt chẽ theo quy trình tín dụng bị lơi lỏng. 2.2.3. Nguyên nhân từ môi trường bên ngoài Môi trường kinh tế không ổn định: Đây là yếu tố chính quyết định tới định hướng kinh doanh, tới thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế xã hội trong một nước biến động chịu ảnh hưởng của những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân làm phát sinh rủi ro trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh vực kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh tiền tệ chứa nhiều nguy cơ rủi ro lớn nhất. Hiện nay, thị trường thế giới biến động quá nhanh và không dự đoán được, hậu quả tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế. Trong nước, sự tấn công của hàng nhập lậu và thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành. Tuy nhiên, sự biến động của thị trường luôn khó có thể dự đoán một cách chính xác, và cần được nghiên cứu kỹ càng trước khi đưa ra quyết định tín dụng. Ngoài ra, sự thay đổi các mối quan hệ quốc tế, các quan hệ ngoại giao của chính phủ cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro lớn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động cấp tín dụng phụ thuộc rất nhiều thói quen, truyền thống, tập quán của ngươi dân. Những yếu tố đó nhiều khi gây khó khăn và hạn chế mở rộng hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Tất cả những nguyên nhân khách quan đến từ môi trường kinh tế kể trên nếu không được dự báo và có biện pháp phòng ngừa kịp thời sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng thu hồi các khoản cho vay của ngân hàng. Môi trường tự nhiên biến đổi nhanh chóng: Thiệt hại do thiên tai (bão lụt, động đất, lốc xoáy) rất khó lường trước và có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Ngày nay, sự biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nhanh chóng và mạnh mẽ có thể làm trầm trọng thêm hậu quả của thiên tai. Ở Việt Nam, do thời tiết diễn biến phức tạp nên môi trường tự nhiên đươc coi là nguyên nhân gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng cho vay khi đầu tư phát triển các thành phần kinh tế. Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên Bài 2: Rủi ro tín dụng 28 TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 là yếu tố khó dự đoán, nó thường xẩy ra bất ngờ với thiệt hại lớn ngoài tầm kiểm soát của con người. Vì vậy, khi có thiên tai địch họa xảy ra khách hàng cùng các ngân hàng cho vay sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án, dự án kinh doanh không có nguồn thu Điều đó đồng nghĩa với các ngân hàng cho vay phải cùng chia sẻ rủi ro với khách hàng của mình. Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và chồng chéo: Chính sách, quy định, luật lệ là những công cụ không thể thiếu để điều hành nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển công bằng, hiệu quả và bền vững. Hệ thống pháp luật của các nước đang phát triển thường được xây dựng dựa trên nhu cầu điều chỉnh của thực tế, nhưng đôi khi lại đi sau và kìm hãm sự phát triển. Đồng thời, sự chồng chéo và tách rời một cách thiếu khoa học của nhiều cơ quan quản lý khiến hệ thống các quy định nhiều khi mâu thuẫn và chồng chéo, gây khó khăn trong quá trình vận dụng. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, mang tính xã hội cao, khi hệ thống pháp luật ổn định và lành mạnh thì môi trường kinh doanh của ngân hàng thương mại sẽ có nhiều thuận lợi. Ngược lại, nếu môi trường pháp lý thiếu đồng bộ, có nhiều khe hở thì rất dễ bị lợi dụng gây ra tình trạng tham ô, chiếm đoạt tài sản Kinh tế xã hội kém ổn định dẫn đến kinh doanh gặp nhiều khó khăn, ngân hàng gặp rủi ro trong việc thu hồi nợ. 2.3. Tác động của rủi ro tín dụng 2.3.1. Tác động đến hoạt động của ngân hàng Các nhà kinh tế thường gọi ngân hàng là “ngành kinh doanh rủi ro”. Thực tế đã chứng minh không một ngành nào mà khả năng dẫn đến rủi ro lại lớn như kinh doanh tiền tệ - tín dụng. Ngân hàng phải gánh chịu những rủi ro không những do nguyên nhân chủ quan của mình, mà còn phải gánh chịu những rủi ro do khách hàng hay môi trường bên ngoài gây ra. Vì vậy, “rủi ro tín dụng của ngân hàng không những là cấp số cộng mà còn là cấp số nhân rủi ro của nền kinh tế”. Khi rủi ro xảy ra, trước hết lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng. Khi các ngân hàng cho vay xuất hiện những khoản nợ quá hạn, việc đầu tiên là các ngân hàng phải tìm cách thu hồi nợ. Việc thu hồi nợ quá hạn vừa làm mất thời gian của cán bộ cho vay, vừa làm tăng khoản chi phí về đi lại để lấy nợ. Nếu các khoản nợ này có liên quan đến nhiều bên thì ngân hàng phải chi phí về cả thời gian lẫn tiền cho công việc thương lượng, gặp gỡ các bên trong quá trình xử lý nợ. Bên cạnh đó các ngân hàng phải bỏ ra chi phí cơ hội rất lớn do các khoản nợ quá hạn làm chậm lại vòng quay vốn tín dụng, làm mất đi các khoản đầu tư khác của mình, đó là chưa kể đến sự ảnh hưởng lớn của nợ quá hạn với tâm lý của cán bộ tín dụng. Nợ quá hạn phát sinh làm cho cán bộ tín dụng phải mất thời gian xử lý nợ, không tiếp cận được những món vay mới đồng thời còn làm cho cán bộ cho vay ngần ngại mở rộng hoạt động cho vay Nếu rủi ro xảy ra ở mức độ nhỏ thì ngân hàng có thể bù đắp bằng khoản dự phòng rủi ro và lợi nhuận thu được trong kỳ. Tuy nhiên, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh lời và mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Tất cả những vấn đề này làm Bài 2: Rủi ro tín dụng TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 29 giảm thu nhập tiềm ẩn và làm tăng chi phí cho các ngân hàng, từ đó làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nghiêm trọng hơn, khi rủi ro tín dụng xảy ra ở mức độ lớn, dự phòng không đủ bù đắp, vốn khả dụng bị thiếu, lòng tin khách hàng giảm tất nhiên sẽ dẫn đến phá sản ngân hàng. Vì vây, việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là một việc làm cần thiết của mọi ngân hàng. 2.3.2. Tác động đến nền kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đến nhiều thành phần kinh tế, từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế cho đến các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, kết quả kinh doanh của ngân hàng phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế và ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống của các khách hàng cá nhân. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, không chỉ ngân hàng không thu hồi được vốn, mà mục tiêu sử dụng vốn của khách hàng cũng khó đảm bảo, đồng thời gây khó khăn cho những lần vay vốn tiếp theo. Nếu rủi ro xảy ra ở quy mô lớn, tốc độ phát triển của nền kinh tế, của ngành hay vùng có thể bị chậm lại và suy giảm. Ngân hàng còn đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ, đến công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nếu có sự thất thoát lớn trong hoạt động tín dụng dù chỉ ở một ngân hàng cho vay trực thuộc, không khắc phục kịp thời thì có thể gây nên “phản ứng dây truyền” đe dọa đến an toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây hậu quả rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. Hiện nay ở Việt Nam, dư nợ cho vay chiếm phần lớn trong dư nợ tín dụng của ngân hàng thương mại và phi ngân hàng, đây sẽ là hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng thương mại, là điều kiện cần phát triển trong nền kinh tế, việc các ngân hàng thương mại gặp rủi ro, bị tổn thất sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng và gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Do vậy, phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng không những là vấn đề sống còn đối với ngân hàng mà còn là yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế góp phần và sự phát triển và ổn định của toàn xã hội. Bài đọc thêm: Thực trạng nợ xấu của các tổ chức tín dụng Đến ngày 31/5/2012, nợ xấu theo các Tổ chức tín dụng báo cáo là hơn 117 ngàn tỷ đồng, chiếm 4,47% so với tổng dư nợ tín dụng. Theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đối với gần 1,01 triệu khách hàng vay được chọn mẫu của 57 Tổ chức tín dụng của Việt Nam chiếm tới 90,1% tổng dư nợ tín dụng của các Tổ chức tín dụng này, đến ngày 31/3/2012 nợ xấu5 của các Tổ chức tín dụng là hơn 202 ngàn tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ cấp tín dụng6. Nguyên nhân nợ xấu theo kết quả giám sát cao hơn nợ xấu theo báo cáo của các Tổ chức tín dụng tại thời điểm tháng 3/2012 là do: 5 Bao gồm nợ xấu hạch toán nội bảng, nợ xấu đã xử lý bằng dự phòng rủi ro đang theo dõi ngoại bảng và nợ xấu cam kết ngoại bảng 6 Bao gồm dư nợ cho vay hạch toán nội bảng, nợ xấu đã xử lý bằng dự phòng rủi ro đang hạch toán ngoại bảng và dư nợ cam kết ngoại bảng Bài 2: Rủi ro tín dụng 30 TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 Thứ nhất, các tiêu chí xác định nợ xấu theo quy định hiện hành có bao gồm tiêu chí định lượng (như: thời gian quá hạn, số lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ) và tiêu chí định tính (chấm điểm, xếp hạng khách hàng, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng). Việc bao gồm các tiêu chí định tính và định lượng trong phân loại nợ là phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, do khoản nợ rủi ro và năng lực quản trị rủi ro của các tổ chức tín dụng là khác nhau, nên việc sử dụng các tiêu chí định tính trong phân loại nợ dễ dẫn đến sự thiếu minh bạch trong xác định và ghi nhận nợ xấu của tổ chức tín dụng. Thứ hai, một số tổ chức tín dụng không thực hiện đúng quy định về phân loại nợ, ghi nhận nợ xấu thấp hơn thực trạng và quy định để giảm chi phí trích lập dự phòng rủi ro. Thứ ba, do thiếu thông tin về phân loại nợ của khách hàng tại các tổ chức tín dụng, nên dẫn đến có sự khác nhau về nhóm nợ của 1 khách hàng quan hệ tại nhiều tổ chức tín dụng. Do các nguyên nhân trên, nợ xấu do tổ chức tín dụng báo cáo thường thấp hơn nợ xấu theo kết quả giám sát tổ chức tín dụng và còn thấp hơn nữa so với nợ xấu theo kết quả thanh tra tại chỗ của ngân hàng nhà nước. Kết quả thanh tra tại chỗ vừa qua đối với một số ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém thuộc diện phải cơ cấu lại, cho thấy nợ xấu thực tế của các tổ chức tín dụng cao hơn nhiều số hiện báo cáo của tổ chức tín dụng. Một số giải pháp xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng Để từng bước xử lý nợ xấu một cách bền vững, hạn chế nợ xấu gia tăng nhằm khơi thông dòng vốn trong hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ vốn tích cực cho nền kinh tế, một số giải pháp sau đây cần được triển khai: Tổ chức tín dụng chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất kinh doanh tích cực, được đánh giá có khả năng trả nợ theo thời gian cơ cấu lại nợ. Tổ chức tín dụng tăng cường trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu theo quy định của pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu để thu hồi vốn. Ngân hàng nhà nước rà soát, hoàn thiện các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, đồng thời nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về cấp tín dụng và an toàn hoạt động ngân hàng. Tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để bảo đảm các Tổ chức tín dụng tuân thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và quy định về an toàn hoạt động tín dụng. Thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển thông qua ban hành và triển khai có hiệu quả các quy định, chính sách về mua bán nợ. (Nguồn: Thực trạng nợ xấu của các tổ chức tín dụng– Ths. Nguyễn Hữu Nghĩa – Ngân hàng nhà nước Việt Nam Bài 2: Rủi ro tín dụng TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 31 Tóm lược cuối bài Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lâu đời và quan trọng nhất của 1 ngân hàng thương mại. Do hiện tượng bất cân xứng thông tin và những sự kiện khách quan bất khả kháng, ngân hàng chỉ có thể hạn chế rủi ro này mà không thể hoàn toàn loại bỏ nó. Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng do sự tham gia của nhiều chủ thể trên thị trường tài chính. Những tác nhân gây ra rủi ro này có thể đến từ ngân hàng, khách hàng (tổ chức hoặc cá nhân) và môi trường bên ngoài. Rủi ro tín dụng một khi xảy ra sẽ tác động xấu đến nền kinh tế, nó thường là khởi nguồn của rủi ro thanh khoản, sau đó là rủi ro thanh toán và nghiêm trọng hơn có thể làm nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái. Bài 2: Rủi ro tín dụng 32 TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 Câu hỏi ôn tập 1. Thế nào là rủi ro tín dụng? Tại sao lại nói đây là rủi ro lâu đời nhất và quan trọng nhất trong hệ thống tài chính? 2. Phân tích các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. 3. Rủi ro tín dụng có thể loại bỏ hoàn toàn được không? 4. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thương mại và nền kinh tế là gì? 5. Quản lý tốt rủi ro tín dụng có thể hạn chế được các loại rủi ro khác không?.
File đính kèm:
- ngan_hang_tin_dung_bai_2_rui_ro_tin_dung.pdf