Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng

Nội dung

Bài hai trình bày khái niệm và bản chất về rủi ro tín dụng, và mối quan hệ của nó với các

loại rủi ro khác trong ngân hàng thương mại. Phân tích những nguyên nhân gây ra rủi ro

tín dụng, từ đó làm cơ sở để sinh viên nghiên cứu nội dung quản lý rủi ro tín dụng ở bài

tiếp theo.

Mục tiêu

Sau khi học xong bài này, sinh viên cần thực hiện được các việc sau:

 Trình bày được các khái niệm rủi ro tín dụng và bản chất của rủi ro tín dụng;

 Phân tích được các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng;

 Hiểu được mối liên hệ giữa rủi ro tín dụng và các loại rủi ro khác.

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng trang 1

Trang 1

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng trang 2

Trang 2

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng trang 3

Trang 3

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng trang 4

Trang 4

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng trang 5

Trang 5

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng trang 6

Trang 6

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng trang 7

Trang 7

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng trang 8

Trang 8

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng trang 9

Trang 9

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang minhkhanh 6400
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng

Ngân hàng, tín dụng - Bài 2: Rủi ro tín dụng
Bài 2: Rủi ro tín dụng 
TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 21 
BÀI 2 RỦI RO TÍN DỤNG 
Hướng dẫn học 
Bài này giới thiệu về loại rủi ro cơ bản và quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại: Rủi ro tín dụng. Sau khi tìm hiểu về khái niệm rủi ro tín dụng ở 
bài trước, ở bài này, sinh viên cần tìm hiểu sâu hơn về bản chất của rủi ro tín dụng, những 
nguyên nhân gây ra rủi ro này và hậu quả mà nó gây ra cho bản thân ngân hàng và rộng 
hơn là nền kinh tế. 
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau: 
 Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia 
thảo luận trên diễn đàn. 
 Đọc tài liệu: 
1. Phan Thị Thu Hà (2013), Ngân hàng Thương mại, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế 
Quốc dân, Hà Nội. Chương 9. 
2. Peter S. Rose (2003), Quản trị Ngân hàng Thương mại, Sách dịch. Nhà xuất bản 
Tài chính, Hà Nội. 
3. Joel Bessis (2012), Quản trị rủi ro trong ngân hàng, Sách dịch. Nhà xuất bản Lao 
động – Xã hội, Hà Nội. Chương 13, chương 19, chương 20 và chương 21. 
 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc 
qua email. 
 Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học. 
Nội dung 
Bài hai trình bày khái niệm và bản chất về rủi ro tín dụng, và mối quan hệ của nó với các 
loại rủi ro khác trong ngân hàng thương mại. Phân tích những nguyên nhân gây ra rủi ro 
tín dụng, từ đó làm cơ sở để sinh viên nghiên cứu nội dung quản lý rủi ro tín dụng ở bài 
tiếp theo. 
Mục tiêu 
Sau khi học xong bài này, sinh viên cần thực hiện được các việc sau: 
 Trình bày được các khái niệm rủi ro tín dụng và bản chất của rủi ro tín dụng; 
 Phân tích được các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng; 
 Hiểu được mối liên hệ giữa rủi ro tín dụng và các loại rủi ro khác. 
Bài 2: Rủi ro tín dụng 
22 TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 
Tình huống dẫn nhập 
Khủng hoảng ngân hàng Hoa Kỳ 
Khủng hoảng các khoản vay dưới chuẩn là một cuộc khủng hoảng tài chính liên quan đến thị 
trường bất động sản ở Mỹ và bắt đầu lan rộng ra toàn cầu từ năm 2007. Các khoản vay dưới 
chuẩn (subprime) là những khoản vay được thế chấp bằng bất động sản với lãi suất thả nổi rất 
phổ biến ở Hoa Kì. Do giá nhà ở không ngừng tăng lên trong nhiều năm, những khoản vay này 
được đánh giá là rủi ro nhưng rất sinh lời. Rất nhiều hộ gia đình Mỹ đã bị hấp dẫn bởi các 
khoản cho vay này do kì hạn trả nợ dài cho phép họ có thể cho thuê căn hộ dễ dàng để trang 
trải tiền nợ. Các ngân hàng Mỹ thì tin rằng nếu các hộ gia đình không trả được nợ, việc bán lại 
các tài sản đảm bảo là những căn hộ vẫn chắc chắn đem lại cho họ mức lợi suất cao nên đẩy 
mạnh việc cho vay với ngay cả những khách hàng dưới chuẩn (những khách hàng được đánh 
giá có rủi ro tín dụng vượt mức cho phép). Do theo đuổi mức lợi suất cao trong thời gian đầu 
và vì mục tiêu đảm bảo thanh khoản, các ngân hàng đã tiến hành bán lại các khoản nợ này 
thông qua các công ty chuyên nghiệp gọi tắt là SPV (Special Purpose Vehicle), từ đó lập ra 
những chứng khoán để rao bán trên thị trường tài chính. Những tổ chức chấm điểm đã đánh 
giá các khoản tín dụng này ở mức AAA (điểm cao nhất) khiến việc mua đi bán lại các khoản 
nợ trở nên rất dễ dàng do công chúng bị thuyết phục bởi rủi ro thấp và mức độ sinh lời cao khi 
đầu tư vào các giấy tờ này. Tuy nhiên, việc nhiều khách hàng dưới chuẩn mất khả năng thanh 
toán khi lãi suất tăng cao, làm ngân hàng tiến hành bán tài sản đảm bảo để thu hồi nợ khiến số 
lượng căn hộ bán ra ở Mỹ tăng vọt và hệ quả là giá nhà lao dốc nhanh chóng. Từ sau tháng 7 
năm 2007, 500 tỷ đôla giá trị trên thị trường chứng khoán đã bốc hơi, từ 1 đến 3 triệu hộ gia 
đình Mỹ đứng trước nguy cơ bị mất nhà, gần 84 tổ chức tín dụng bị phá sản 
1. Khủng hoảng bắt nguồn từ đâu? 
2. Những tác động của khủng hoảng lên nền kinh tế và các hộ gia đình Mỹ 
là gì? 
3. Khủng hoảng lan rộng ra quy mô thế giới như thế nào? 
Bài 2: Rủi ro tín dụng 
TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 23 
2.1. Khái quát về rủi ro tín dụng 
2.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng 
Rủi ro thường hàm chứa trong nó là khả năng xảy ra 
tổn thất và có thể diễn ra đối với tất cả các lĩnh vực 
trong đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực 
tài chính. Rủi ro có thể xuất hiện bất ngờ và gây tổn 
thất lớn tới lợi nhuận cũng như sự an toàn của ngân 
hàng. Vì vậy việc dự đoán, phòng ngừa rủi ro và hạn 
chế tổn thất là một trong những nội dung mà ngân 
hàng cần đặc biệt quan tâm. 
Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro lâu đời nhất và lớn nhất trong thị trường 
tài chính, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề đối với hoạt động kinh doanh 
ngân hàng vì các khoản tín dụng thường chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 
70% - 90% thu nhập cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng cũng là loại rủi ro phức tạp nhất, 
quản lý và phòng ngừa khó khăn nhất, đòi hỏi ngân hàng phải có những giải pháp 
đồng bộ, hữu hiệu để ngăn ngừa, hạn chế và giảm thiểu tối đa những thiệt hại có thể 
xảy ra. 
Chính vì vậy, khái niệm rủi ro tín dụng được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu và 
đưa ra những ý kiến khác nhau, tiêu biểu như: 
 Rủi ro tín dụng là những tổn thất do khách hàng vay không trả được nợ hoặc sự 
giảm sút chất lượng tín dụng của khoản vay.1 
 Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy 
đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc việc thanh toán gốc và lãi không đúng kì hạn.2 
 Rủi ro tín dụng là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc không 
hoàn trả gốc so với thời gian ấn định trong hợp đồng tín dụng.3 
 Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức 
tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa 
vụ của mình theo cam kết.4 
Những khái niệm trên đều chứa đựng cách hiểu chung nhất về rủi ro tín dụng đối với 
một khoản tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất khi khách hàng không hoàn trả hoặc 
hoàn trả không đầy đủ theo hợp đồng tín dụng đã kí giữa ngân hàng và ... qua loa 
hơn. Hơn nữa, nhiều ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận nên đã chấp nhận rủi 
ro cao, bất chấp những khoản vay không lành mạnh, thiếu an toàn. 
Bài 2: Rủi ro tín dụng 
TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 27 
 Không sẵn có những thông tin cần thiết cho quá trình ra quyết định tín dụng: 
Chất lượng của thông tin có tác động trực tiếp đến tính chính xác của những quyết 
định tín dụng được đưa ra. Cơ sở dữ liệu nghèo nàn trong và ngoài ngân hàng về 
khách hàng và môi trường kinh doanh của khách hàng có thể đưa ngân hàng đến 
những quyết định sai lầm, tín dụng được cấp cho những khách hàng có khả năng 
trả nợ kém, chậm phát hiện rủi ro, biện pháp xử lý rủi ro không phù hợp với 
nguyên nhân gây ra rủi ro. 
 Mở rộng hoạt động tín dụng quá mức: Việc làm này thường tạo điều kiện cho 
rủi ro tín dụng tăng lên. Mở rộng tín dụng quá mức đồng nghĩa với việc lựa chọn 
khách hàng kém kỹ càng, khả năng giám sát của cán bộ tín dụng đối với việc sử 
dụng khoản vay giảm xuống, đồng thời cũng làm cho việc tuân thủ chặt chẽ theo 
quy trình tín dụng bị lơi lỏng. 
2.2.3. Nguyên nhân từ môi trường bên ngoài 
 Môi trường kinh tế không ổn định: Đây là yếu tố 
chính quyết định tới định hướng kinh doanh, tới 
thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Môi 
trường kinh tế xã hội trong một nước biến động 
chịu ảnh hưởng của những biến động từ nền kinh tế 
thế giới, đó là nguyên nhân làm phát sinh rủi ro 
trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó 
ảnh hưởng tới các lĩnh vực kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh tiền tệ chứa 
nhiều nguy cơ rủi ro lớn nhất. Hiện nay, thị trường thế giới biến động quá nhanh 
và không dự đoán được, hậu quả tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập 
quốc tế. Trong nước, sự tấn công của hàng nhập lậu và thiếu sự quy hoạch, phân 
bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số 
ngành. Tuy nhiên, sự biến động của thị trường luôn khó có thể dự đoán một cách 
chính xác, và cần được nghiên cứu kỹ càng trước khi đưa ra quyết định tín dụng. 
Ngoài ra, sự thay đổi các mối quan hệ quốc tế, các quan hệ ngoại giao của chính 
phủ cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro lớn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. 
Bên cạnh đó, hoạt động cấp tín dụng phụ thuộc rất nhiều thói quen, truyền thống, 
tập quán của ngươi dân. Những yếu tố đó nhiều khi gây khó khăn và hạn chế mở 
rộng hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Tất cả những nguyên nhân khách quan 
đến từ môi trường kinh tế kể trên nếu không được dự báo và có biện pháp phòng 
ngừa kịp thời sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng thu hồi các khoản cho vay 
của ngân hàng. 
 Môi trường tự nhiên biến đổi nhanh chóng: Thiệt hại do thiên tai (bão lụt, động 
đất, lốc xoáy) rất khó lường trước và có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho ngân 
hàng. Ngày nay, sự biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nhanh chóng và mạnh 
mẽ có thể làm trầm trọng thêm hậu quả của thiên tai. Ở Việt Nam, do thời tiết diễn 
biến phức tạp nên môi trường tự nhiên đươc coi là nguyên nhân gây ra rủi ro cho 
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng cho vay khi đầu tư phát triển các thành 
phần kinh tế. Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng hoạt động 
sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên 
Bài 2: Rủi ro tín dụng 
28 TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 
là yếu tố khó dự đoán, nó thường xẩy ra bất ngờ với thiệt hại lớn ngoài tầm kiểm 
soát của con người. Vì vậy, khi có thiên tai địch họa xảy ra khách hàng cùng các 
ngân hàng cho vay sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án, dự án kinh doanh không 
có nguồn thu Điều đó đồng nghĩa với các ngân hàng cho vay phải cùng chia sẻ 
rủi ro với khách hàng của mình. 
 Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và chồng chéo: Chính sách, quy định, luật lệ là 
những công cụ không thể thiếu để điều hành nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển 
công bằng, hiệu quả và bền vững. Hệ thống pháp luật của các nước đang phát triển 
thường được xây dựng dựa trên nhu cầu điều chỉnh của thực tế, nhưng đôi khi lại 
đi sau và kìm hãm sự phát triển. Đồng thời, sự chồng chéo và tách rời một cách 
thiếu khoa học của nhiều cơ quan quản lý khiến hệ thống các quy định nhiều khi 
mâu thuẫn và chồng chéo, gây khó khăn trong quá trình vận dụng. Hoạt động kinh 
doanh của các ngân hàng thương mại liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, 
mang tính xã hội cao, khi hệ thống pháp luật ổn định và lành mạnh thì môi trường 
kinh doanh của ngân hàng thương mại sẽ có nhiều thuận lợi. Ngược lại, nếu môi 
trường pháp lý thiếu đồng bộ, có nhiều khe hở thì rất dễ bị lợi dụng gây ra tình 
trạng tham ô, chiếm đoạt tài sản Kinh tế xã hội kém ổn định dẫn đến kinh doanh 
gặp nhiều khó khăn, ngân hàng gặp rủi ro trong việc thu hồi nợ. 
2.3. Tác động của rủi ro tín dụng 
2.3.1. Tác động đến hoạt động của ngân hàng 
Các nhà kinh tế thường gọi ngân hàng là “ngành kinh 
doanh rủi ro”. Thực tế đã chứng minh không một 
ngành nào mà khả năng dẫn đến rủi ro lại lớn như kinh 
doanh tiền tệ - tín dụng. Ngân hàng phải gánh chịu 
những rủi ro không những do nguyên nhân chủ quan 
của mình, mà còn phải gánh chịu những rủi ro do 
khách hàng hay môi trường bên ngoài gây ra. Vì vậy, “rủi ro tín dụng của ngân hàng 
không những là cấp số cộng mà còn là cấp số nhân rủi ro của nền kinh tế”. 
Khi rủi ro xảy ra, trước hết lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng. Khi 
các ngân hàng cho vay xuất hiện những khoản nợ quá hạn, việc đầu tiên là các ngân 
hàng phải tìm cách thu hồi nợ. Việc thu hồi nợ quá hạn vừa làm mất thời gian của cán 
bộ cho vay, vừa làm tăng khoản chi phí về đi lại để lấy nợ. Nếu các khoản nợ này có 
liên quan đến nhiều bên thì ngân hàng phải chi phí về cả thời gian lẫn tiền cho công 
việc thương lượng, gặp gỡ các bên trong quá trình xử lý nợ. Bên cạnh đó các ngân 
hàng phải bỏ ra chi phí cơ hội rất lớn do các khoản nợ quá hạn làm chậm lại vòng 
quay vốn tín dụng, làm mất đi các khoản đầu tư khác của mình, đó là chưa kể đến sự 
ảnh hưởng lớn của nợ quá hạn với tâm lý của cán bộ tín dụng. Nợ quá hạn phát sinh 
làm cho cán bộ tín dụng phải mất thời gian xử lý nợ, không tiếp cận được những món 
vay mới đồng thời còn làm cho cán bộ cho vay ngần ngại mở rộng hoạt động cho 
vay Nếu rủi ro xảy ra ở mức độ nhỏ thì ngân hàng có thể bù đắp bằng khoản dự 
phòng rủi ro và lợi nhuận thu được trong kỳ. Tuy nhiên, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến 
khả năng sinh lời và mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Tất cả những vấn đề này làm 
Bài 2: Rủi ro tín dụng 
TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 29 
giảm thu nhập tiềm ẩn và làm tăng chi phí cho các ngân hàng, từ đó làm ảnh hưởng tới 
kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nghiêm trọng hơn, khi rủi ro tín dụng 
xảy ra ở mức độ lớn, dự phòng không đủ bù đắp, vốn khả dụng bị thiếu, lòng tin 
khách hàng giảm tất nhiên sẽ dẫn đến phá sản ngân hàng. Vì vây, việc phòng ngừa và 
hạn chế rủi ro tín dụng là một việc làm cần thiết của mọi ngân hàng. 
2.3.2. Tác động đến nền kinh tế 
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đến nhiều 
thành phần kinh tế, từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế cho đến các tổ chức tín 
dụng khác. Vì vậy, kết quả kinh doanh của ngân hàng phản ánh kết quả sản xuất kinh 
doanh của nền kinh tế và ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh 
nghiệp và đời sống của các khách hàng cá nhân. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, không chỉ 
ngân hàng không thu hồi được vốn, mà mục tiêu sử dụng vốn của khách hàng cũng 
khó đảm bảo, đồng thời gây khó khăn cho những lần vay vốn tiếp theo. Nếu rủi ro xảy 
ra ở quy mô lớn, tốc độ phát triển của nền kinh tế, của ngành hay vùng có thể bị chậm 
lại và suy giảm. Ngân hàng còn đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến 
chính sách tiền tệ, đến công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nếu có sự thất thoát lớn 
trong hoạt động tín dụng dù chỉ ở một ngân hàng cho vay trực thuộc, không khắc phục 
kịp thời thì có thể gây nên “phản ứng dây truyền” đe dọa đến an toàn và ổn định của 
toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây hậu quả rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. 
Hiện nay ở Việt Nam, dư nợ cho vay chiếm phần lớn trong dư nợ tín dụng của ngân 
hàng thương mại và phi ngân hàng, đây sẽ là hoạt động kinh doanh chính của ngân 
hàng thương mại, là điều kiện cần phát triển trong nền kinh tế, việc các ngân hàng 
thương mại gặp rủi ro, bị tổn thất sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng và 
gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. 
Do vậy, phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng không những là vấn đề sống còn đối 
với ngân hàng mà còn là yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế góp phần và sự phát triển và 
ổn định của toàn xã hội. 
Bài đọc thêm: Thực trạng nợ xấu của các tổ chức tín dụng 
Đến ngày 31/5/2012, nợ xấu theo các Tổ chức tín dụng báo cáo là hơn 117 ngàn tỷ 
đồng, chiếm 4,47% so với tổng dư nợ tín dụng. 
Theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng đối với gần 1,01 
triệu khách hàng vay được chọn mẫu của 57 Tổ chức tín dụng của Việt Nam chiếm tới 
90,1% tổng dư nợ tín dụng của các Tổ chức tín dụng này, đến ngày 31/3/2012 nợ xấu5 
của các Tổ chức tín dụng là hơn 202 ngàn tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ cấp tín 
dụng6. Nguyên nhân nợ xấu theo kết quả giám sát cao hơn nợ xấu theo báo cáo của các 
Tổ chức tín dụng tại thời điểm tháng 3/2012 là do: 
5 Bao gồm nợ xấu hạch toán nội bảng, nợ xấu đã xử lý bằng dự phòng rủi ro đang theo dõi ngoại bảng 
và nợ xấu cam kết ngoại bảng 
6 Bao gồm dư nợ cho vay hạch toán nội bảng, nợ xấu đã xử lý bằng dự phòng rủi ro đang hạch toán 
ngoại bảng và dư nợ cam kết ngoại bảng 
Bài 2: Rủi ro tín dụng 
30 TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 
Thứ nhất, các tiêu chí xác định nợ xấu theo quy định hiện hành có bao gồm tiêu chí định 
lượng (như: thời gian quá hạn, số lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ) và tiêu chí định tính 
(chấm điểm, xếp hạng khách hàng, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng). Việc bao 
gồm các tiêu chí định tính và định lượng trong phân loại nợ là phù hợp với thông lệ 
quốc tế. Tuy nhiên, do khoản nợ rủi ro và năng lực quản trị rủi ro của các tổ chức tín 
dụng là khác nhau, nên việc sử dụng các tiêu chí định tính trong phân loại nợ dễ dẫn đến 
sự thiếu minh bạch trong xác định và ghi nhận nợ xấu của tổ chức tín dụng. 
Thứ hai, một số tổ chức tín dụng không thực hiện đúng quy định về phân loại nợ, ghi 
nhận nợ xấu thấp hơn thực trạng và quy định để giảm chi phí trích lập dự phòng rủi ro. 
Thứ ba, do thiếu thông tin về phân loại nợ của khách hàng tại các tổ chức tín dụng, 
nên dẫn đến có sự khác nhau về nhóm nợ của 1 khách hàng quan hệ tại nhiều tổ chức 
tín dụng. 
Do các nguyên nhân trên, nợ xấu do tổ chức tín dụng báo cáo thường thấp hơn nợ xấu 
theo kết quả giám sát tổ chức tín dụng và còn thấp hơn nữa so với nợ xấu theo kết quả 
thanh tra tại chỗ của ngân hàng nhà nước. Kết quả thanh tra tại chỗ vừa qua đối với 
một số ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém thuộc diện phải cơ cấu lại, cho thấy nợ 
xấu thực tế của các tổ chức tín dụng cao hơn nhiều số hiện báo cáo của tổ chức 
tín dụng. 
Một số giải pháp xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng 
Để từng bước xử lý nợ xấu một cách bền vững, hạn chế nợ xấu gia tăng nhằm khơi 
thông dòng vốn trong hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn hoạt động ngân 
hàng, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ vốn tích cực cho nền kinh tế, một số giải 
pháp sau đây cần được triển khai: 
 Tổ chức tín dụng chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ, giãn 
thời gian trả nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó 
khăn tài chính tạm thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất kinh doanh tích cực, 
được đánh giá có khả năng trả nợ theo thời gian cơ cấu lại nợ. 
 Tổ chức tín dụng tăng cường trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu 
theo quy định của pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản bảo đảm của 
các khoản nợ xấu để thu hồi vốn. 
 Ngân hàng nhà nước rà soát, hoàn thiện các quy định về phân loại nợ, trích lập và 
sử dụng dự phòng rủi ro phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn 
của Việt Nam, đồng thời nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về cấp tín 
dụng và an toàn hoạt động ngân hàng. 
 Tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để bảo đảm 
các Tổ chức tín dụng tuân thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc biệt 
là quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và quy định về 
an toàn hoạt động tín dụng. 
 Thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển thông qua ban hành và triển khai có 
hiệu quả các quy định, chính sách về mua bán nợ. 
(Nguồn: Thực trạng nợ xấu của các tổ chức tín dụng– Ths. Nguyễn Hữu Nghĩa – Ngân hàng 
nhà nước Việt Nam 
Bài 2: Rủi ro tín dụng 
TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 31 
Tóm lược cuối bài 
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lâu đời và quan trọng nhất của 1 ngân hàng thương mại. Do hiện 
tượng bất cân xứng thông tin và những sự kiện khách quan bất khả kháng, ngân hàng chỉ có thể 
hạn chế rủi ro này mà không thể hoàn toàn loại bỏ nó. 
Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng do sự tham gia của nhiều chủ thể trên thị 
trường tài chính. Những tác nhân gây ra rủi ro này có thể đến từ ngân hàng, khách hàng (tổ chức 
hoặc cá nhân) và môi trường bên ngoài. 
Rủi ro tín dụng một khi xảy ra sẽ tác động xấu đến nền kinh tế, nó thường là khởi nguồn của rủi 
ro thanh khoản, sau đó là rủi ro thanh toán và nghiêm trọng hơn có thể làm nền kinh tế đi vào 
tình trạng suy thoái. 
Bài 2: Rủi ro tín dụng 
32 TXNHTM04_Bai2_v1.0015103227 
Câu hỏi ôn tập 
1. Thế nào là rủi ro tín dụng? Tại sao lại nói đây là rủi ro lâu đời nhất và quan trọng nhất trong 
hệ thống tài chính? 
2. Phân tích các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. 
3. Rủi ro tín dụng có thể loại bỏ hoàn toàn được không? 
4. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thương mại và nền kinh tế là gì? 
5. Quản lý tốt rủi ro tín dụng có thể hạn chế được các loại rủi ro khác không?. 

File đính kèm:

  • pdfngan_hang_tin_dung_bai_2_rui_ro_tin_dung.pdf