Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại

Nội dung

Bài này nêu khái niệm chung nhất về bất trắc, rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng

thương mại, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro

hoạt động và cách thức quản lý chung nhất. Bài học cũng nêu ra một số ví dụ thực tiễn để

sinh viên dễ theo dõi nhất và có thể tự phân tích tình huống thực tiễn.

Mục tiêu

Sau khi học xong bài này, sinh viên cần thực hiện được các việc sau:

 Trình bày được các khái niệm rủi ro và quản lý rủi ro;

 Phân biệt và nêu được mối liên hệ giữa các loại rủi ro;

 Phân tích những loại rủi ro nhất định khi có một hoạt động nào trong ngân hàng

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại trang 1

Trang 1

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại trang 2

Trang 2

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại trang 3

Trang 3

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại trang 4

Trang 4

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại trang 5

Trang 5

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại trang 6

Trang 6

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại trang 7

Trang 7

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại trang 8

Trang 8

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại trang 9

Trang 9

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 20 trang minhkhanh 12460
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại

Ngân hàng, tín dụng - Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt độ kinh doanh của ngân hàng thương mại
 Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại 
TXNHTM04_Bai1_v1.0015103227 1 
BÀI 1 
RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG 
KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
Hướng dẫn học 
Bài này giới thiệu tổng quan chung về các loại rủi ro thường gặp trong hoạt động của các 
ngân hàng thương mại, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro tỷ giá (rủi ro 
ngoại hối), rủi ro thanh khoản cũng như các khung quản lý rủi ro mà quốc tế đưa ra. 
Sinh viên cần hiểu được khái niệm nói chung về các loại rủi ro, bóc tách các loại rủi ro 
với nhau cũng như mối liên quan giữa những loại rủi ro này; đồng thời hiểu được các 
cách thức đối phó – phòng vệ và tạo thu nhập từ chính những loại rủi ro này của ngân 
hàng. Để học tốt bài học này, sinh viên cần tự tìm hiểu những rủi ro và sự kiện gây ra tổn 
hại trong ngân hàng để thấy được đó là rủi ro gì, trước đó ngân hàng đã có những cách 
thức nào để phòng tránh, đồng thời, khi tổn thất xảy ra thì ngân hàng sử dụng cách thức 
nào để bù đắp rủi ro. 
Ngoài ra, đối với ngân hàng là ngành kinh doanh rủi ro, do vậy, phải tìm hiểu được trong 
rủi ro thì các tổ chức tín dụng có những cách thức nào để tìm kiếm lợi nhuận. 
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau: 
 Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia 
thảo luận trên diễn đàn. 
 Đọc tài liệu: 
1. Phan Thị Thu Hà (2013), Ngân hàng Thương mại, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế 
Quốc dân, Hà Nội. Chương 8, chương 10, chương 11, chương 12 và chương 13. 
2. Peter S. Rose (2003), Quản trị Ngân hàng Thương mại, Sách dịch. Nhà xuất bản 
Tài chính, Hà Nội. 
3. Joel Bessis (2012), Quản trị rủi ro trong ngân hàng, Sách dịch. Nhà xuất bản Lao 
động – Xã hội, Hà Nội. Chương 3 và chương 4. 
 Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc 
qua email. 
 Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học. 
Nội dung 
Bài này nêu khái niệm chung nhất về bất trắc, rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng 
thương mại, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro 
hoạt động và cách thức quản lý chung nhất. Bài học cũng nêu ra một số ví dụ thực tiễn để 
sinh viên dễ theo dõi nhất và có thể tự phân tích tình huống thực tiễn. 
Mục tiêu 
Sau khi học xong bài này, sinh viên cần thực hiện được các việc sau: 
 Trình bày được các khái niệm rủi ro và quản lý rủi ro; 
 Phân biệt và nêu được mối liên hệ giữa các loại rủi ro; 
 Phân tích những loại rủi ro nhất định khi có một hoạt động nào trong ngân hàng. 
 Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại 
2 TXNHTM04_Bai1_v1.0015103227 
Tình huống dẫn nhập 
Điều gì đã xảy ra với ACB năm 2003 
Đầu tháng 10 năm 2003, trên địa bàn thành thành phố Hồ Chí Minh xuất hiện tin đồn Tổng 
giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) Phạm Văn Thiệt bỏ trốn sau khi 
gây ra những thiệt hại lớn cho ngân hàng, đồng thời mang theo một số lượng tiền mặt lớn. 
Thời điểm ngày 12 và 13 tháng 10, tin đồn này đã lan nhanh trong địa bàn thành phố Hồ Chí 
Minh, và đỉnh điểm đến ngày 14 tháng 10, những người gửi tiền tại ACB đã ồ ạt đến rút tiền 
tại hầu hết các chi nhánh trong thành phố và một số tỉnh lân cận. Không dừng lại ở đó, người 
dân còn rút tiền tại một số ngân hàng thương mại khác quanh đó. 
Khoảng 10 năm sau, vào ngày 21/8/2012, thị trường tài chính Việt Nam rung động trước tin 
ông Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ tịch hội đồng sáng lập ACB bị bắt vì những sai phạm trong 
hoạt động ngân hàng. Thời điểm sau đó, những lãnh đạo cao cấp của ngân hàng này như ông 
Trần Xuân Giá, ông Lý Xuân Hải cũng lần lượt bị bắt. Vụ việc này đã làm mức vốn hóa của 
thị trường chứng khoán Việt Nam giảm 5,6 tỷ USD trong tháng 8 năm 2012, đồng thời một 
lượng lớn tiền mặt bị rút ra khỏi ACB. 
1. Trong hai ví dụ trên xuất hiện những rủi ro gì đối với ACB? 
2. Những hậu quả mà những rủi ro trên gây ra cho ACB? 
3. Tác động đến những ngân hàng khác trên cùng địa bàn khi ACB gặp rủi ro 
như thế nào? 
 Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại 
TXNHTM04_Bai1_v1.0015103227 3 
1.1. Tổng quan về rủi ro 
1.1.1. Rủi ro, bất trắc và khả năng gặp rủi ro 
Rủi ro là nguy cơ xảy ra những sự kiện ngoài mong muốn, gây ra những tác động bất 
lợi cho cá nhân hoặc tổ chức. Đối với ngân hàng, các tác động này có thể dẫn đến sự 
giảm sút trong doanh thu, hoặc đặt ngân hàng vào tình trạng khó khăn về tài chính. 
Ngoài ra, các tác động này có thể biểu hiện dưới dạng phi tài chính gây hậu quả tiêu 
cực đến uy tín, khả năng sinh lời trong tương lai của ngân hàng. Rủi ro trong hoạt 
động kinh doanh của ngân hàng được hiểu là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng. 
Trong hoạt động của một NHTM thì thường không phải bất cứ những sự kiện nào xấu 
cũng là rủi ro, mà có thể là bất trắc. Bất trắc là sự ngẫu nhiên của kết quả. Nếu như 
những sự kiện xấu đó không gây ra tổn thất cho ngân hàng thì đó là bất trắc, không 
nên coi là rủi ro. 
Rủi ro thường đi đôi với lợi ích, rủi ro càng cao thì lợi nhuận kì vọng cho ngân hàng 
càng lớn. Các ngân hàng cần phải đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan 
hệ rủi ro – lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được lợi ích xứng đáng với mức rủi ro 
chấp nhận. Do đó, chấp nhận rủi ro là yêu cầu tất yếu đối với ngân hàng. 
Theo tiêu chuẩn của Basel thì Rủi ro là việc ngân hàng 
có thể xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Ví dụ, nếu ngân 
hàng dự đoán rằng chỉ thu hồi được 97% các khoản 
cho vay trong quý IV/201X, song lại thu về được 98% 
thì đó có thể coi là thành công và mang lại lợi nhuận 
cho ngân hàng. Chỉ khi ngân hàng thu hồi được ít hơn 
97% thì mới được gọi là tổn thất và sự kiện rủi ro đã 
xảy ra. Như vậy, rủi ro của ngân hàng phải gắn với việc giảm sút thu nhập ngoài dự 
kiến và những biện pháp quản lý rủi ro của ngân hàng là để kiểm soát rủi ro nằm trong 
mức chấp nhận được, có th ... e hở lãi suất là sự nhạy cảm của chênh lệch lãi suất 
(margin) trong danh mục đầu tư của ngân hàng đối với sự chuyển dịch của đường 
cong lãi suất. 
 Đo lường sự biến động (volatility): đo lường sự 
biến thiên xung quanh giá trị trung bình của biến 
mục tiêu, cả biến động lên và xuống. Chỉ số về sự 
biến động đo lường độ phân tán và bất ổn định của 
các tham số ngẫu nhiên hay của biến mục tiêu. 
 Đo lường tổn thất (downside measure): chỉ tập 
trung vào những độ lệch mang tính bất lợi. Nó đo lường tình trạng xấu nhất của 
biến mục tiêu, ví dụ như tổn thất về lợi nhuận, giá trị thị trường VaR là một 
công cụ đo lường tổn thất như vậy. Đo lường tổn thất là công cụ đo lường đánh giá 
tổn thất toàn diện nhất, đã tính đến sự nhạy cảm và biến động trong các tác động 
tiêu cực. 
Hiện nay, trên thế giới đã và đang áp dụng mô hình quản lý rủi ro VaR – không chỉ đo 
lường rủi ro phổ biến nhất là rủi ro tín dụng mà còn có thể đo lường được các loại rủi 
ro khác, bên cạnh đó còn có thể góp phần đưa ra những đánh giá về phân bổ tài sản 
vào các danh mục đầu tư trong điều kiện thị trường nhất định. Tuy nhiên, do tình hình 
kinh tế biến động khó khăn từ năm 2009 – 2013 mà các nhà hoạch định chính sách 
của các ngân hàng cũng như các nhà kinh tế đã và đang tìm kiếm những mô hình đo 
lường và quản lý rủi ro phù hợp hơn, sát với những biến động của thị trường hơn. 
Bên cạnh hoạt động đo lường, giám sát các mức độ rủi ro và các điều kiện môi trường 
cơ bản phải là một hoạt động diễn ra liên tục, và chú ý rằng rủi ro có thể thường xuyên 
thay đổi. Ngân hàng đảm bảo sự tập trung quản lý đối với các rủi ro trọng yếu và do 
đó ngân hàng được chuẩn bị có hiệu quả để ứng phó với các biến cố rủi ro khi chúng 
xuất hiện. 
Để hỗ trợ thông tin một cách có ích cho các quyết định kinh doanh, ngân hàng cần 
phải nắm rõ về mức độ nghiêm trọng và khả năng xảy ra từ các dấu hiệu và nguyên 
nhân trong các biến cố rủi ro khác nhau. Trong trường hợp các biến cố có khả năng 
xảy ra cao thì nó phải được tính đến trong kế hoạch và dự thảo ngân sách thường 
ngày, ngay cả khi các biến cố đó có mức độ nghiêm trọng tương đối thấp. Ngoài ra, 
Ngân hàng cũng phải dự đoán các trường hợp rủi ro ít xảy ra nhưng nếu có sẽ tác động 
nghiêm trọng đối với ngân hàng để đảm bảo đưa ra sự giám sát thích hợp và các giới 
hạn chịu đựng rủi ro của ngân hàng không bị vi phạm. 
 Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại 
TXNHTM04_Bai1_v1.0015103227 15 
1.2.4.3. Xây dựng và thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro 
Trên cơ sở nhận biết sự tồn tại khách quan của rủi ro và kết quả của đo lường rủi ro, ngân hàng 
có thể xử lý đối với các nguy cơ gây tổn thất như: 
tránh né rủi ro; 
gánh chịu rủi ro; 
giảm thiểu nguy cơ và giảm thiểu tổn thất; 
hoán chuyển rủi ro; hay 
giảm thiểu rủi ro. 
 Tránh né rủi ro 
Đây là cách xử sự hiển nhiên nhất bởi vì đương nhiên sẽ càng tốt nếu như ngân 
hàng tránh né được càng nhiều rủi ro cũng như tổn thất nếu sự kiện rủi ro xảy ra. 
Trên thực tế, chỉ có thể tránh né rủi ro nếu như có sự lựa chọn và trong đó việc 
chấp nhận rủi ro này và tránh né rủi ro kia là hợp lý. Trong hoạt động kinh doanh 
ngân hàng, sự hợp lý được quyết định bởi giá cả (lãi, phí) của lựa chọn này với 
giá cả của lựa chọn khác. Ví dụ, ngân hàng có thể quyết định giữ các tài sản có 
tính thanh khoản cao để đáp ứng nhu cầu thanh toán trong việc cấp mới, chi trả các 
loại hợp đồng đã đến hạn của khách hàng hay đáp ứng nhu cầu cấp mới; hay chỉ 
cấp tín dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy tín dụng cao Tuy nhiên, 
bằng những cách này thì bên cạnh việc ngân hàng không thể hoàn toàn loại bỏ rủi 
ro thì phải đối mặt với vấn đề lợi nhuận kỳ vọng thấp. Điều này lại gây ra vấn đề 
mới cho ngân hàng khi các khoản này sẽ không bù đắp được chi phí huy động vốn, 
chi phí trả lương cho nhân viên, các khoản thưởng làm cho nhân viên ngân hàng 
không gắn bó hoặc cố tình làm sai quy trình vì lợi ích cá nhân. 
Khi không áp dụng được phương pháp tránh né, ngân hàng buộc phải dùng các 
biện pháp khác để giải quyết. 
 Gánh chịu rủi ro 
Đây có vẻ như là một cách xử sự dễ dàng nhất đối với ngân hàng khi thực hiện bất 
cứ hoạt động nào. Những ngân hàng quản lý rủi ro một cách thụ động hoặc không 
có cách nào tốt hơn để giải quyết hậu quả khi rủi ro xảy ra (ví dụ, những ngân 
hàng cấp tín dụng trong cho khu vực nông nghiệp thì khó có thể dự đoán chính xác 
được khi nào thiên tai xảy ra và mức độ nghiêm trọng của nó); hoặc các chiến lược 
đầu tư mang tính phiêu lưu (đầu tư vào các loại chứng khoán có độ rủi ro cao – tất 
nhiên mức độ sinh lời kỳ vọng cao hơn). Để gánh chịu những tổn thất do rủi ro 
mang lại trong tương lai, ngân hàng thường tạo lập các quỹ để bù đắp tổn thất, hay 
còn gọi là tự bảo hiểm. 
 Giảm thiểu rủi ro – Giảm thiểu tổn thất 
Rủi ro cao có thể làm gia tăng tổn thất khi nó xảy ra. Ngân hàng – mặc dù chấp 
nhận rủi ro như một phần không thể thiếu trong hoạt động – cũng cần đến các biện 
pháp để giảm thiểu nguy cơ xảy ra tổn thất bằng các biện pháp như xây dựng quy 
trình khoa học và chặt chẽ, tuyển dụng nhân viên có trình độ và kinh nghiệm, áp 
dụng công nghệ hiện đại và phù hợp với trình độ vận hành, giám sát chặt chẽ và 
kịp thời, yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo Nhờ vậy, các yếu tố gây ra 
rủi ro được giảm thiểu, làm cho rủi ro ổn định và gần với xác suất đã được đoán 
trước hơn. 
 Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại 
16 TXNHTM04_Bai1_v1.0015103227 
 Hoán chuyển rủi ro 
Rủi ro không thể tránh né, nhưng nếu chấp nhận gánh chịu toàn bộ tổn thất khi rủi 
ro xảy ra thì lại quá liều lĩnh. Để giảm thiểu rủi ro, ngân hàng có thể đẩy một phần 
hoặc toàn bộ rủi ro sang cho đối tác của mình thông qua các hình thức sau: 
o Nghịch hành 
Là việc tham gia hai chiều trái ngược nhau vào 
cùng một sự việc và như vậy rủi ro bị vô hiệu 
hóa. Phương pháp này thường được áp dụng khi 
ngân hàng tham gia vào các hợp đồng phái sinh 
(hoán đổi, tương lai, kỳ hạn, quyền chọn) với 
các đối tác có dự báo về rủi ro ngược với ngân 
hàng. Ví dụ, nếu ngân hàng xác định trong thời 
gian tới khe hở lãi suất âm và dự báo lãi suất tăng thì có thể ký hợp đồng kỳ 
hạn bán trái phiếu trong tương lai cho một tổ chức tài chính khác dự kiến lãi 
suất sẽ giảm. Nếu lãi suất tăng, chênh lệch từ lãi của ngân hàng giảm, nhưng lại 
có lãi từ hợp đồng kỳ hạn do ngân hàng có thể mua trái phiếu với giá rẻ hơn 
(lãi suất tăng làm giá trái phiếu giảm) và bán cho đối tác với giá theo hợp đồng 
đã ký. Nếu lãi suất giảm, ngân hàng có thu nhập từ lãi cao hơn và phần thu 
nhập tăng thêm này dùng để bù đắp phần tổn thất từ hợp đồng kỳ hạn do ngân 
hàng phải mua trái phiếu cao hơn (lãi suất giảm làm giá trái phiếu tăng) để bán 
lại với giá theo hợp đồng đã ký. Như vậy, khi rủi ro xảy ra (lãi suất tăng), tổn 
thất đã được chuyển từ ngân hàng sang đối tác của hợp đồng kỳ hạn. 
o Bán lại hợp đồng 
Ngân hàng có thể bán lại một phần hoặc toàn bộ hợp đồng đã ký sang cho tổ 
chức tài chính khác để san sẻ bớt rủi ro. Ví dụ, ngân hàng đã ký hợp đồng bảo 
lãnh với khách hàng có thể tham gia tái bảo lãnh với một ngân hàng khác. Nếu 
rủi ro xảy ra, ngân hàng tái bảo lãnh sẽ gánh chịu (một phần hoặc toàn bộ) tổn 
thất cho ngân hàng nhận bảo lãnh ban đầu. 
o Bảo hiểm 
Ngân hàng có thể mua bảo hiểm (ví dụ như bảo hiểm tín dụng trong hoạt động 
cho vay, bảo hiểm cháy nổ đối với máy móc, thiết bị). Bảo hiểm làm tăng 
chi phí nhưng giúp ngân hàng yên tâm hơn nhờ san sẻ một phần rủi ro cho tổ 
chức bảo hiểm. Bảo hiểm là một trong các hình thức hoán chuyển rủi ro nhưng 
cách thức xử lý hậu quả của rủi ro triệt để hơn hết. Hoán chuyển rủi ro của bảo 
hiểm là hoán chuyển cho số đông người tham gia đóng góp dưới hình thức phí 
bảo hiểm, vừa đủ để mỗi người không bị rủi ro tác động làm ảnh hưởng nhiều. 
Trong khi đó, với hình thức hoán chuyển rủi ro khác, việc hoán chuyển chỉ giải 
quyết lợi ích cục bộ của một ngân hàng, rủi ro vẫn tiếp tục đe dọa lợi ích của 
những ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác và nền kinh tế. Tuy nhiên, 
không phải tất cả các tổ chức tín dụng đều chấp nhận nghiệp vụ bảo hiểm vì 
còn phụ thuộc vào khả năng tài chính của mình; và không phải nghiệp vụ nào 
cũng có thể bảo hiểm được. 
 Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại 
TXNHTM04_Bai1_v1.0015103227 17 
1.2.4.4. Giám sát và báo cáo rủi ro 
 Rủi ro luôn đi kèm với lợi nhuận kỳ vọng. Do vậy, 
để đảm bảo ngân hàng không bị chệch hướng khỏi 
hoạt động sản xuất kinh doanh, gây những ảnh 
hưởng xấu đến chủ nợ của ngân hàng cũng như 
những cổ đông thì cần phải có hoạt động giám sát 
một cách chặt chẽ từ ban lãnh đạo và bộ phận giám 
sát độc lập. Hoạt động giám sát được tiến hành từ xa và thanh tra tại chỗ. Giám sát 
từ xa là việc thu thập, xử lý thông tin liên tục và đưa ra cảnh báo từ Hội sở chính. 
Kết quả của giám sát từ xa sẽ giúp ngân hàng nhận biết được những hoạt động, chi 
nhánh, bộ phận hiện đang có những hoạt động có mức rủi ro cao hơn dự kiến để 
làm cơ sở thanh tra tại chỗ. Thanh tra tại chỗ được tiến hành tại cơ sở, nơi phát 
hiện rủi ro để tìm hiểu những thông tin cụ thể nhằm đưa ra kết luận chính xác hơn, 
làm căn cứ để xử lý hậu quả khi sự kiện rủi ro xảy ra. Tùy theo góc độ đánh rủi ro 
mà ngân hàng có thể giám sát từ xa theo tuần (đánh giá tình trạng thanh khoản, sự 
biến động về giá chứng khoán), tháng (đánh giá chất lượng tài sản, mức độ đầy đủ 
vốn), quý (đánh giá khả năng sinh lời, năng lực quản lý) hay năm (đánh giá tổng 
hợp các hoạt động trong năm); còn thanh tra tại chỗ có thể thực hiện theo định kỳ 
hoặc thực hiện đột xuất dựa trên kết quả của giám sát từ xa. 
 Báo cáo rủi ro là quá trình lập và nhận báo cáo từ các thông tin thu thập được. 
Báo cáo rủi ro là cách ngân hàng đảm bảo sự tập trung quản lý đối với các rủi ro 
trọng yếu và do đó ngân hàng được chuẩn bị có hiệu quả để ứng phó với các biến 
cố rủi ro khi chúng xuất hiện. Báo cáo hết sức quan trọng để đảm bảo rằng ngân 
hàng có được sự minh bạch và cách trao đổi thích hợp đối với các cổ đông chính. 
Các nhà quản lý, thành lập kinh doanh có trách nhiệm thông báo các rủi ro và đảm 
bảo những rủi ro này được nhận dạng và giám sát hợp lý. 
 Đối tượng lập và nhận báo cáo: Việc lập báo cáo bắt đầu từ cấp dưới. Các lãnh 
đạo cấp cao đặt ra các hướng dẫn, chính sách chung toàn diện truyền đạt đến các 
bộ phận kinh doanh, đồng thời những báo cáo định kỳ từ bộ phận kinh doanh phía 
dưới lên lãnh đạo, giúp phát hiện và sửa chữa những điểm hạn chế của chính sách, 
khi so sánh các mục tiêu kế hoạch và kết quả thực tế đạt được. Đối tượng nhận báo 
cáo cần có cái nhìn tổng thể về sự phân hóa rủi ro và mối liên hệ giữa các rủi ro. 
 Nội dung báo cáo: Bộ phận cấp dưới tổng hợp những thông tin thu thập, đo lường 
và lập bản báo cáo kết quả thu thập được. Những thông tin thu thập có thể là 
những dữ liệu trong quá khứ và được lượng hóa trong tương lai, hoặc những thông 
tin về chính sách của chính phủ trong thời gian tới, hoặc có thể là những thông tin 
“ngầm” mà ngân hàng nắm bắt được Tất cả những thông tin trên sẽ được phân 
tích cả về định tính và định lượng. Nội dung của báo cáo sẽ phụ thuộc vào mức độ 
tin cậy của thông tin thu thập được, phụ thuộc vào độ chính xác của các công cụ 
đo lường rủi ro sử dụng và phụ thuộc và đối tượng tiếp nhận báo cáo. 
 Kênh báo cáo: Các kênh báo cáo cần thực hiện thống nhất, xuyên suốt ngân hàng, 
đảm bảo tốc độ truyền dẫn và xử lý thông tin kịp thời, nhanh chóng. Rủi ro có thể 
xảy ra ở bất cứ một khâu nào, do vậy phải xây dựng kênh báo cáo thật khoa học, 
 Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại 
18 TXNHTM04_Bai1_v1.0015103227 
không bị chồng chéo các bộ phận và có bộ phận tiếp nhận thống nhất để có cái 
nhìn tổng quan về rủi ro của cả hệ thống. 
 Tần suất báo cáo: Báo cáo rủi ro thích hợp, chính xác và kịp thời là rất cần thiết 
cho hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả để từ đó đánh giá tính hiệu quả trong quản lý 
rủi ro nhằm phát hiện sai sót để sửa chữa và hoàn thiện hơn. Tần suất báo cáo càng 
cao thì khả năng giảm thiểu rủi ro càng cao. Tuy nhiên, nó có thể gia tăng chi phí 
quản trị rủi ro của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận. Theo đó, các ngân 
hàng cần cân nhắc lựa chọn tần suất báo cáo cho phù hợp với chiến lược của mình. 
 Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại 
TXNHTM04_Bai1_v1.0015103227 19 
Tóm lược cuối bài 
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng được hiểu là khả năng mang đến tổn thất cho 
ngân hàng. Trong hoạt động ngân hàng, rủi ro là không thể tránh khỏi và rất đa dạng, như rủi ro 
tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động Tuy nhiên, đi kèm với rủi ro cao 
là lợi nhuận kỳ vọng cao, do đó đòi hỏi nhà quản lý cần phân tích các loại rủi ro có thể gặp phải, 
từ đó có định hướng đường lối để quản lý rủi ro tốt hơn. Ngân hàng thường dựa vào khung và 
các nguyên tắc quản lý rủi ro để đưa ra một quy trình quản lý rủi ro phù hợp với ngân hàng của 
mình, bao gồm năm bước, đó là xây dựng chiến lược quản lý rủi ro, nhận diện rủi ro, đo lường 
rủi ro, báo cáo rủi ro và xử lý rủi ro. 
 Bài 1: Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại 
20 TXNHTM04_Bai1_v1.0015103227 
Câu hỏi ôn tập 
1. Nêu các loại rủi ro chính có thể phát sinh trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Theo 
các anh/chị, ngoài những rủi ro đã nêu trên còn có thể có những loại rủi ro nào khác? 
2. Hãy nêu những tổn thất chính mà rủi ro gây ra cho ngân hàng thương mại. 
3. Tại sao ngân hàng không loại bỏ rủi ro mà phải chấp nhận rủi ro ở một mức độ hợp lý? 
4. Quy trình quản lý rủi ro của ngân hàng gồm những bước nào? 
5. Bình luận ý kiến cho rằng: “Quản lý rủi ro trong ngân hàng là công việc của riêng khối quản 
lý rủi ro”. 

File đính kèm:

  • pdfngan_hang_tin_dung_bai_1_rui_ro_va_quan_ly_rui_ro_trong_hoat.pdf