Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam
Trong các đợt khảo sát thực địa từ tháng 11/2018 đến tháng 5/2019, Đề tài TN17/T06 đã
có nhiều phát hiện mới về di sản trên địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên. Nổi bật hơn cả là di tích khảo cổ
tiền sử khu vực núi lửa Hố Tre, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk và các di tích khảo cổ tiền sử dọc
thung lũng cổ Sông Ba, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Tại di tích Hố Tre, các hiện vật thu được
bao gồm: rìu bầu dục, rìu ngắn, hạch đá, mảnh tước, bàn mài, hòn lấy lửa (?),. và các mảnh gốm
mang đặc trưng về kỹ thuật và loại hình của thời đại Đá mới. Ở Phú Thiện, các hiện vật thu được
bao gồm: công cụ ghè một hoặc hai mặt, công cụ chặt thô có rìa lưỡi ngang, công cụ nạo rìa lưỡi
dọc, công cụ mũi nhọn, công cụ mảnh tước,. đặc trưng cho kỹ thuật và loại hình công cụ thời đại
Đá cũ. Những phát hiện này rất có ý nghĩa về khoa học, góp phần làm sáng tỏ lịch sử phát triển của
con người từ thời tiền sử tới nay ở Việt Nam cũng như trong khu vực. Về mặt thực tiễn, chúng là cơ
sở để xây dựng bảo tàng bảo tồn tại chỗ, phát triển du lịch địa phương.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 79 Original Article Some New Heritage Discoveries in The Central Highlands, Vietnam La The Phuc1, , Nguyen Khac Su2, Luong Thi Tuat1, Vu Tien Duc3, Bui Van Thom4, Nguyen Trung Minh1 1Vietnam National Museum of Nature, Vietnam Academy of Science and Technology, 18 Hoang Quoc Viet, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 2Vietnam Archaeological Association; 61 Phan Chu Trinh, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam 3Central Highlands Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences, 1A Nguyen Van Linh, Dak Lak, Vietnam 4Institute of Geology, Vietnam Academy of Science and Technology, 18 Hoang Quoc Viet, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 11 February 2020 Revised 04 March 2020; Accepted 11 March 2020 Abstract: A series of new heritage discoveries were found during several field-trips from November 2018 to May 2019 in whole area of The Central Highlands with supporting from the project, coded TN17/T06. The most remarkable discoveries are two archaeological sites: The first one is located on Ho Tre crater in Krong Ana district, Dak Lak province and the second one – along the Ba river ancient valley, in Phu Thien district, Gia Lai province. On Ho Tre crater, we collected many types of archaeological artifacts, including stone hand-axes in oval and short shapes, stone cores, flakes, grind-stones, making-fire stones (?), and several broken fragments pieces of pottery, which featured for the shape and technique types in the Neolithic Age. In archaeological sites in Phu Thien district, a series of stone tools, including uni-facial and bi-facial tools, rough-cutting tools such as side- chopper, end-chopper scrapers, spearhead tools, flake tools, etc., characterized as the shape and technique types in duration the Paleolithic Age were found. These findings play an important role in science to clarify development process of human history since pre-history up to now in Vietnam and in the region as well. Moreover, it is more significant to possibly establish a conservation strategy and to locally develop tourism. Keywords: Archaeological site, stone tool, Paleolithic, Neolithic, The Central Highlands. ________ Corresponding author. E-mail address: laphuc@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4565 VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 80 Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam La Thế Phúc1, , Nguyễn Khắc Sử2, Lương Thị Tuất1, Vũ Tiến Đức3, Bùi Văn Thơm4, Nguyễn Trung Minh1 1Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 2 Hội Khảo cổ Việt Nam, 61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam 3Viện Khoa học Xã hội vùng Tây Nguyên, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, số 1A Nguyễn Văn Linh, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk, Việt Nam 4Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 11 tháng 02 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 04 tháng 3 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 11 tháng 3 năm 2020 Tóm tắt: Trong các đợt khảo sát thực địa từ tháng 11/2018 đến tháng 5/2019, Đề tài TN17/T06 đã có nhiều phát hiện mới về di sản trên địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên. Nổi bật hơn cả là di tích khảo cổ tiền sử khu vực núi lửa Hố Tre, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk và các di tích khảo cổ tiền sử dọc thung lũng cổ Sông Ba, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Tại di tích Hố Tre, các hiện vật thu được bao gồm: rìu bầu dục, rìu ngắn, hạch đá, mảnh tước, bàn mài, hòn lấy lửa (?),... và các mảnh gốm mang đặc trưng về kỹ thuật và loại hình của thời đại Đá mới. Ở Phú Thiện, các hiện vật thu được bao gồm: công cụ ghè một hoặc hai mặt, công cụ chặt thô có rìa lưỡi ngang, công cụ nạo rìa lưỡi dọc, công cụ mũi nhọn, công cụ mảnh tước,... đặc trưng cho kỹ thuật và loại hình công cụ thời đại Đá cũ. Những phát hiện này rất có ý nghĩa về khoa học, góp phần làm sáng tỏ lịch sử phát triển của con người từ thời tiền sử tới nay ở Việt Nam cũng như trong khu vực. Về mặt thực tiễn, chúng là cơ sở để xây dựng bảo tàng bảo tồn tại chỗ, phát triển du lịch địa phương. Từ khóa: Di tích khảo cổ, công cụ, Đá cũ, Đá mới, Tây Nguyên. 1. Mở đầu Trong quá trình khảo sát tìm kiếm hang động núi lửa và di sản địa chất (DSĐC) liên quan đến hoạt động phun trào basalt Tây Nguyên của đề tài "Nghiên cứu giá trị di sản hang động, đề xuất ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: laphuc@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4565 xây dựng bảo tàng bảo tồn tại chỗ ở Tây Nguyên; lấy thí dụ hang động núi lửa ở Krông Nô, tỉnh Đắk Nông” (2017-2020) (mã số TN17/T06, thuộc chương trình Tây Nguyên giai đoạn 2016 - 2020; chủ nhiệm đề tài: TS. La Thế Phúc); các nhà địa chất đã có nhiều phát hiện mới về DSĐC như: L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 81 cấu trúc vòng và địa hình nghịch đảo ở Nam Dong (huyện Cư Jut, tỉnh Đắk Nông) và Bon Choih (huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông), miệng núi lửa Hố Tre (huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk), basalt cầu gối ở huyện Đắk Glei (tỉnh Kon Tum), hóa thạch khuôn cây trong đá basalt ở hang động núi lửa (huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông) và ở nhiều thác nước rải rác trên 5 tỉnh Tây Nguyên. Đáng chú ý, trên nền DSĐC núi lửa, hàng loạt di tích khảo cổ thời tiền sử được phát hiện, tạo nên di sản kép/di sản hỗn hợp (gồm hai loại hình di sản thiên nhiên - di sản văn hóa), như: di tích tiền sử trong hang động núi lửa ở huyện Krông Nô (Đắk Nông); các di tích Đá mới trên miệng núi lửa Hố Tre (huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk), di tích Đá mới ở cụm thác Đray Nur (Đắk Lắk) - Đray Sáp (Đắk Nông), di tích Đá mới ở thác Hang Dơi và Thác 50 ở huyện K’Bang (Gia Lai); các di tích Đá cũ ở Phú Thiện, A Yun Pa, Krông Pa, Ia Pa thuộc thung lũng sông ... Đồn Một, Đồn Hai thuộc phần phía bắc của huyện Phú Thiện, nằm gọn trong thung lũng cổ Sông Ba. Hình 18. Sơ đồ mặt cắt địa hình sườn đông núi Chư A Thai (Bùi Văn Thơm thành lập); ảnh bề mặt địa hình bậc 3, bậc 4 và một số hiện vật tiền sử ở địa hình bậc 4 (La Thế Phúc chụp năm 2019). L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 88 Lần đầu tiên, ngày 17/4/2019, La Thế Phúc, Lương Thị Tuất, Bùi văn Thơm cùng các cộng sự đã phát hiện một số công cụ đá, mảnh tước, hạch đá phân bố rải rác tại sườn và chân núi Chư A Thai (Hình 18), huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Từ ngày 27/4 đến ngày 03/5/2019, La Thế Phúc và Vũ Tiến Đức cùng các cộng sự đã mở rộng diện điều tra, tìm kiếm (trong khuôn khổ đề tài cấp cơ sở của Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam), phát hiện thêm 14 điểm di tích phân bố rải rác trong phạm vi khoảng 100 km2 thuộc xã Chư A Thai, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Toàn bộ hiện vật sưu tầm đã được định loại, hiệu chỉnh và thống kê phân loại theo quy định chuyên ngành; đã được thuyết trình tại các hội nghị hội thảo khoa học, chuyên ngành và được các chuyên gia khảo cổ hàng đầu của Việt Nam đánh giá cao. 3.2.2. Sơ lược đặc điểm địa chất di tích Khu vực huyện Phú Thiện lộ ra các phân vị địa chất chủ yếu sau [3]: - Phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn (γδP2-3bq, 272 - 252 triệu năm BP): lộ ra ở rìa tiếp giáp phía đông - đông bắc huyện Phú Thiện (Hình 19), thuộc địa phận huyện Ia Pa. Thành phần đá chủ yếu gồm: diorit, diorit thạch anh, ít hơn có gabbrodiorit (Pha 1); granodiorit biotit hornblend, granit biotit-hornblend (Pha 2); granit biotit, granosyenit hạt vừa - thô, màu hồng kiến trúc dạng porphyr (Pha 3); và Phổ biến các loại đá mạch: granit aplit, granit porphyr, diorit porphyr, kersantit, spessartit [3]. Đây là một trong các nguồn cung cấp cuội sỏi đa khoáng cho trầm tích Đệ tứ ở thung lũng cổ Sông Ba và hạ lưu. - Phức hệ Vân Canh (γT2a vc, 247 - 237 triệu năm BP) lộ ra thành diện lớn ở rìa đông và diện nhỏ ở phía tây Phú Thiện (Hình 19). Thành phần thạch học chủ yếu gồm: granodiorit, granit, granosyenit. Đá thường có màu khá sặc sỡ: hồng, xám phớt hồng, xám phớt vàng, vàng [3]. Đây là một trong các nguồn cung cấp cuội sỏi đa khoáng cho trầm tích Đệ tứ ở thung lũng cổ Sông Ba và hạ lưu. - Hệ tầng Sông Ba (N1³sb, 11,630 - 5,333 triệu năm BP) chiếm phần lớn diện tích xã Chư A Thai (Hình 19). Thành phần chủ yếu gồm: cuội tảng kết, cuội kết đa khoáng xen với các lớp mỏng cát - sạn kết, cát kết arkos xám sáng, phần trên xen kẽ dạng nhịp giữa các lớp cát - sạn kết chứa các thấu kính cuội kết mỏng với cát kết, bột kết và sét kết màu xám sáng. Các thành tạo trầm tích của hệ tầng tại núi Chư A Thai chứa nhiều gỗ hóa thạch đã bị silic hóa, rất đẹp và giá trị [3]. Đây là một trong các nguồn cung cấp cuội sỏi đa khoáng cho trầm tích Đệ tứ ở thung lũng cổ Sông Ba và hạ lưu. - Hệ tầng Túc Trưng (N 2 -Q1tt; 5,333 - 0,781 triệu năm BP): phân bố khá rộng rãi ở rìa phía bắc - tây bắc - tây xã Chư A Thai (Hình 19). Thành phần thạch học gồm: basalt olivin - augit, basalt olivin - augit - plagioclas. Đá basalt có màu xám đến xám xanh, xám đen; cấu tạo khối đặc xít hoặc lỗ hổng nhỏ [3]. Đây là một trong các nguồn cung cấp cuội sỏi đa khoáng cho trầm tích Đệ tứ ở thung lũng cổ Sông Ba và hạ lưu. - Trầm tích Pleistocene sớm phần muộn (aQ1; 1,800 - 0,773 triệu năm BP): lộ ra trên bề mặt khu vực Chư A Thai thành >10 diện lớn nhỏ khác nhau ở trung tâm thung lũng cổ, dưới dạng da báo (Hình 19), phủ trực tiếp lên các thành tạo của hệ tầng Sông Ba. Thành phần trầm tích là cuội sạn sỏi đa khoáng có độ mài tròn tốt - trung bình, gồm chủ yếu là: thạch anh, đá silic, quarzit, cát kết dạng quarzit, gỗ hóa thạch, granit, basalt (ít), đá sừng (ít). Trầm tích có nguồn gốc sông với độ gắn kết yếu [3]. Chiều dày trầm tích cuội sạn sỏi đa khoáng thường <1m (quan sát bằng mắt thường tại các taluy). Trong lớp cuội sạn này đã phát hiện được nhiều công cụ đá, mảnh tước, hạch đá... của người Tiền sử, có đặc điểm tương đồng cụm di tích Đá cũ An Khê [4]. - Các thành tạo trầm tích Đệ tứ (Q) trẻ hơn (<0,781 triệu năm), có nguồn gốc sông (a) như: trầm tích Pleistocene giữa - muộn (aQ12-3), Pleistocene muộn (aQ13), Holocene sớm - giữa (aQ21-2) và Holocene muộn (aQ23) không có ở địa phận xã Chư A Thai; chỉ có ở phía nam, đông nam Chư A Thai (Hình 19), thuộc huyện Phú Thiện và huyện Ayun Pa, tỉnh Gia Lai [3]. L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 89 3.2.3. Đặc điểm di tích - Đặc điểm phân bố: Di tích phân bố trên các địa hình bậc 2, bậc 3, bậc 4 và bậc 5 của sườn đông núi Chư A Thai (Hình 18) và trên các gò đồi thấp thuộc các thềm sông cổ bậc1, bậc 2 và bậc 3 của thung lũng Sông Ba trước kia (Hình 19). Mối liên quan giữa các bậc địa hình sườn đông núi Chư A Thai (Hình 18) với các độ cao thềm sông/bãi bồi cổ được thể hiện ở (Bảng 2). Di tích trên các gò thấp: phần phía bắc và đông bắc xã Chư A Thai có nhiều bãi cuội diện tích từ vài trăm mét vuông tới hàng ngàn mét vuông trên các gò đồi thấp lúp súp với độ cao tương đối 3 - 10m. Các bãi cuội này là trầm tích Pleistocene sớm phần muộn (1,50 - 0,78 triệu năm), nguồn gốc aluvi [3], thành phần đa khoáng: thạch anh, quarzit, cát kết dạng quarzit, đá sừng, đá silic, opal-chalcedon, gỗ hóa thạch (silic hóa), basalt (ít); kích thước cuội phổ biến từ vài cm đến 10cm (Hình 21). Kết quả tìm kiếm đã xác lập được 14 điểm di tích trên các bãi ở đây (ký hiệu từ PT2 đến PT15 ở bảng 2). Các diện cuội này không chỉ phân bố ở phần phía bắc của Chư A Thai, mà còn xuất lộ ở nhiều nơi thuộc thung lũng Sông Ba (cổ) của tỉnh Gia Lai, đã mở ra tiềm năng to lớn cho việc tìm kiếm đánh giá loại hình di sản này. - Đặc điểm hiện vật. Hiện vật thu thập bao bao gồm: công cụ đá, mảnh tước, phác vật, hạch đá, đá có vết ghè, hòn ghè và đá nguyên liệu. Công cụ đá tiêu biểu gồm: rìu tay, bôn tay (Hình 22); công cụ mũi nhọn tam diện (Hình 23), công cụ ghè đẽo 1-2 mặt (Hình 24); công cụ rìa ngang - rìa xiên/dọc, công cụ ghè đẽo tạo rìa cả 2 mặt ở một đầu, công cụ hạch đa hướng, công cụ mảnh tước (Hình 25), công cụ hòn ghè... Chất liệu là đá cuội tự nhiên tại chỗ, gồm: thạch anh, quarzit, đá silic, cát kết dạng quarzit, opal-chalcedon, gỗ hóa thạch (silic hóa), basalt (ít), Hình 19. Sơ đồ địa chất [3] và vị trí các điểm di tích Đá cũ ở huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 90 Bảng 2. Các điểm di tích và đặc điểm địa hình chứa di tích ở Phú Thiện STT Tên điểm khảo sát Ký hiệu Độ cao tuyệt đối (m) Độ cao tương đối (m) 1 Phú Thiện 9 PT9 192 Thềm sông cổ bậc 1 (chứa di vật): 10 - 12m (Tương ứng địa hình bậc 6 ở Phú Thiện) 2 Plei Tơ PT10 192 3 Plei Hek 1 PT11 204 4 Thôn Kinh Pênh PT3 206 5 Plei Klung 2 PT5 212 Thềm sông cổ bậc 2 (chứa di vật): 15 - 28m (Tương ứng địa hình bậc 5 ở Phú Thiện) 6 Plei Klung 4 PT6 212 7 Plei Klung 5 PT7 216 8 Phú Thiện 15 PT15 216 9 Phú Thiện 14 PT14 217 10 Fa Dui 1 PT8 218 11 Plei Klung 1 PT4 223 12 Phú Thiện 12 PT12 227 Thềm sông cổ bậc 3 (chứa di vật): 35-50m (tương ứng địa hình bậc 4 ở Phú Thiện) 13 Phú Thiện 13 PT13 234 14 Chân núi Chư A Thai PT1 252 15 Đồi Đồn 2 PT2 356 Địa hình bậc 3 Phú Thiện Hình 20. Gò đồi cuội sạn chứa nhiều hiện vật ở thôn Plei Klung 2. Hình 21. Một số hiện vật ở gò đồi thôn Plei Klung 2 Hình 22. Bôn tay. Hình 23. Công cụ mũi nhọn. Hình 24. Công cụ ghè hai mặt. Hình 25. Công cụ mảnh tước. Hình 26. Hội thảo khoa học ngày 22/8 tại Bảo tàng Thiên nhiên VN. Nguồn: La Thế Phúc chụp năm 2019. L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 91 - Phương thức chế tác. Công cụ được ghè đẽo thô sơ từ các hòn cuội: phần đốc còn vỏ và độ tròn cạnh của hòn cuội, phần mũi/lưỡi được ghè đẽo tạo lưỡi rìu/mũi nhọn (Hình 22, 23, 24); có sự tương đồng với công cụ ở An Khê, hội tụ đặc trưng của tổ hợp kỹ thuật: Chopper-chooping tool/Picks/ Biface - Handaxes [4]. - Quy mô của di tích. Kết quả khảo sát bước đầu xác lập di tích phân bố trong diện tích >100 km2, chiều dày tầng sản phẩm chứa di di vật phổ biến <1m (được quan sát trực tiếp trên vách/taluy các gò đồi chứa di vật). - Loại hình di tích: Sự hiện diện của các công cụ đá, mảnh tước, phác vật, hạch đá, đá có vết ghè, hòn ghè với mật độ khá cao đã minh chứng cho các di tích ở đây thuộc loại hình di chỉ cư trú, chế tác công cụ tại chỗ (công xưởng). - Niên đại di tích: sơ bộ đánh giá thuộc thời đại Đá cũ (?) dựa trên cơ sở kỹ thuật chế tác, loại hình hiện vật và so sánh các công cụ đá Phú Thiện có nhiều nét tương đồng với công cụ Đá cũ An Khê và trên thế giới. 3.2.4. Một số nhận xét ban đầu về di tích Đề tài TN17/T06 đã tổ chức Hội thảo (ngày 22/8/2019 tại Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam) với sự tham gia đông đảo các nhà khoa học, trong đó có các nhà nghiên cứu khảo cổ học hàng đầu của Việt Nam về thời đại Đá cũ (Hình 26). Hội thảo đã diễn ra rất sôi nổi và đều thống nhất ý kiến đánh giá phát hiện mới này như sau: - Hiện vật khảo cổ được phát hiện tại Phú Thiện có số lượng lớn, phong phú và đa dạng về loại hình; phân bố trên diện rộng đã phản ảnh tính thống nhất trong kỹ thuật, loại hình hiện vật, chất liệu và có tiềm năng lớn trong nghiên cứu thời đại Đá cũ ở thung lũng cổ Sông Ba. - Di tích và hiện vật thể hiện tính độc đáo, hiếm có không chỉ trong phạm vi tỉnh Gia Lai hay Việt Nam mà rộng ra trên toàn thế giới. - Di tích có giá trị đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu lịch sử dân tộc, tiến hóa nhân loại và trong nhận thức vị trí tỉnh Gia Lai nói riêng, vùng Tây Nguyên nói chung trong dòng chảy lịch sử dân tộc; có khả năng bổ trợ và nâng tầm các di tích khảo cổ học thời đại Đá cũ trên địa bàn tỉnh Gia Lai như các di tích An Khê nhằm tăng tính xác thực và khoa học. - Di tích có giá trị nổi bật phục vụ hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục chính trị đảm bảo ổn định an ninh quốc phòng tỉnh Gia Lai – đây là địa bàn có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng của nước ta. - Các giá trị khoa học của các di tích tiền sử Phú Thiện có khả năng tích hợp cùng các giá trị di sản thiên nhiên và văn hóa khác ở tại địa phương, các ngành kinh tế như nông nghiệp, thương mại... để phát triển du lịch văn hóa sinh thái tại Phú Thiện với điểm nhấn là các di tích khảo cổ học thời đại Đá cũ. 4. Kết luận và kiến nghị - Di tích Hố Tre và cụm di tích Phú Thiện là những phát hiện mới về di sản văn hóa ở Tây Nguyên. Những di sản văn hóa này hình thành và phản ảnh một giai đoạn lịch sử của con người gắn liền với di sản địa chất núi lửa; thể hiện rõ nét sự kết nối giữa yếu tố thiên nhiên – con người. Đây là loại di sản kép/di sản hỗn hợp rất có các giá trị khoa học và thực tiễn. Về khoa học: di sản góp phần quan trọng trong nghiên cứu lịch sử tự nhiên, lịch sử dân tộc; tiến hóa tự nhiên, nhân loại và trong nhận thức vị trí tỉnh Gia Lai nói riêng, Tây Nguyên nói chung trong dòng chảy lịch sử của dân tộc và khu vực. Về thực tiễn: di sản là cơ sở để xây dựng bảo tàng bảo tồn tại chỗ, khai thác phát huy các giá trị, phát triển du lịch, góp phần phát triển bền vững kinh tế xã hội. - Trước những hoạt động của các cư dân hiện đại, cảnh quan địa hình địa mạo và môi sinh khu vực di tích Hố Tre (Đắk Lắk), Phú Thiện (Gia Lai) đã và đang bị đe dọa xâm phạm nghiêm trọng, rất dễ bị phá hủy. Các phát hiện mới nêu trên chỉ là sơ bộ ban đầu, đã được báo cáo tới các chính quyền địa phương liên quan để bảo vệ bảo tồn khẩn cấp. Cần sớm triển khai các hoạt động điều tra xác lập và pháp lý hóa di tích, tiến tới khai quật, nghiên cứu chi tiết, phục vụ xây dựng bảo tàng tại chỗ để bảo tồn di tích và khai thác du lịch, phát triển kinh tế. - Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng trong lĩnh vực bảo vệ L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 92 bảo tồn tổng thể các giá trị di sản thiên nhiên - di sản văn hóa theo nguyên lý “Bảo tồn để khai thác và khai thác để bảo tồn di sản”, phục vụ phát triển bền vững. Lời cảm ơn Bài viết này là kết quả khảo sát thực địa của đề tài cấp cơ sở "Điều tra tìm kiếm di chỉ khảo cổ khu vực Chư A Thai, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai" và đề tài KHCN cấp Nhà nước TN17/T06. Tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Chủ nhiệm Chương trình Tây Nguyên giai đoạn 2016 - 2020 và Ban Lãnh đạo Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho đề tài hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tài liệu tham khảo [1] Nguyen Duc Thang, Geological and mineral resources map of Vietnam at scale 1:200,000, Ben Khe - Dong Nai series. Center for Information and Archives of Geology, Department of Geology and Minerals of Vietnam, Hanoi, 1999 (in Vietnamese). [2] La The Phuc, Nguyen Khac Su, Vu Tien Duc, Luong Thi Tuat, Phan Thanh Toan, Nguyen Thanh Tung, Nguyen Trung Minh, “New discovery of prehistoric archaeological remnants in volcanic caves in Krongno, Dak Nong Province”, Vietnam Journal of Earth Sciences 39(2) (2017) 97-108, Vietnam Academy of Science and Technology, Hanoi. https://doi.org/10.15625/0866-7187/39/2/9186. [3] Tran Tinh, Geological and mineral resources map of Vietnam at scale 1:200,000, An Khe sheet, Center for Information and Archives of Geology, Department of Geology and Minerals of Vietnam. Hanoi, 1994 (in Vietnamese) [4] An Khe Early Paleolithic Industry with the primitive historic period of Vietnam. Journal or Archaeology 2 (2017) 3-18 (in Vietnamese).
File đính kèm:
- mot_so_phat_hien_moi_ve_di_san_o_tay_nguyen_viet_nam.pdf