Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam

Trong các đợt khảo sát thực địa từ tháng 11/2018 đến tháng 5/2019, Đề tài TN17/T06 đã

có nhiều phát hiện mới về di sản trên địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên. Nổi bật hơn cả là di tích khảo cổ

tiền sử khu vực núi lửa Hố Tre, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk và các di tích khảo cổ tiền sử dọc

thung lũng cổ Sông Ba, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Tại di tích Hố Tre, các hiện vật thu được

bao gồm: rìu bầu dục, rìu ngắn, hạch đá, mảnh tước, bàn mài, hòn lấy lửa (?),. và các mảnh gốm

mang đặc trưng về kỹ thuật và loại hình của thời đại Đá mới. Ở Phú Thiện, các hiện vật thu được

bao gồm: công cụ ghè một hoặc hai mặt, công cụ chặt thô có rìa lưỡi ngang, công cụ nạo rìa lưỡi

dọc, công cụ mũi nhọn, công cụ mảnh tước,. đặc trưng cho kỹ thuật và loại hình công cụ thời đại

Đá cũ. Những phát hiện này rất có ý nghĩa về khoa học, góp phần làm sáng tỏ lịch sử phát triển của

con người từ thời tiền sử tới nay ở Việt Nam cũng như trong khu vực. Về mặt thực tiễn, chúng là cơ

sở để xây dựng bảo tàng bảo tồn tại chỗ, phát triển du lịch địa phương.

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam trang 1

Trang 1

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam trang 2

Trang 2

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam trang 3

Trang 3

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam trang 4

Trang 4

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam trang 5

Trang 5

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam trang 6

Trang 6

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam trang 7

Trang 7

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam trang 8

Trang 8

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam trang 9

Trang 9

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang viethung 6800
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam

Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 
 79 
Original Article 
Some New Heritage Discoveries in The Central Highlands, 
Vietnam 
La The Phuc1, , Nguyen Khac Su2, Luong Thi Tuat1, Vu Tien Duc3, 
Bui Van Thom4, Nguyen Trung Minh1 
1Vietnam National Museum of Nature, Vietnam Academy of Science and Technology, 
18 Hoang Quoc Viet, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
2Vietnam Archaeological Association; 61 Phan Chu Trinh, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam 
3Central Highlands Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences, 
1A Nguyen Van Linh, Dak Lak, Vietnam 
4Institute of Geology, Vietnam Academy of Science and Technology, 
18 Hoang Quoc Viet, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Received 11 February 2020 
Revised 04 March 2020; Accepted 11 March 2020 
Abstract: A series of new heritage discoveries were found during several field-trips from November 
2018 to May 2019 in whole area of The Central Highlands with supporting from the project, coded 
TN17/T06. The most remarkable discoveries are two archaeological sites: The first one is located 
on Ho Tre crater in Krong Ana district, Dak Lak province and the second one – along the Ba river 
ancient valley, in Phu Thien district, Gia Lai province. On Ho Tre crater, we collected many types 
of archaeological artifacts, including stone hand-axes in oval and short shapes, stone cores, flakes, 
grind-stones, making-fire stones (?), and several broken fragments pieces of pottery, which featured 
for the shape and technique types in the Neolithic Age. In archaeological sites in Phu Thien district, 
a series of stone tools, including uni-facial and bi-facial tools, rough-cutting tools such as side-
chopper, end-chopper scrapers, spearhead tools, flake tools, etc., characterized as the shape and 
technique types in duration the Paleolithic Age were found. These findings play an important role 
in science to clarify development process of human history since pre-history up to now in Vietnam 
and in the region as well. Moreover, it is more significant to possibly establish a conservation 
strategy and to locally develop tourism. 
Keywords: Archaeological site, stone tool, Paleolithic, Neolithic, The Central Highlands. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: laphuc@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4565 
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 
 80 
Một số phát hiện mới về di sản ở Tây Nguyên, Việt Nam 
La Thế Phúc1, , Nguyễn Khắc Sử2, Lương Thị Tuất1, Vũ Tiến Đức3, 
Bùi Văn Thơm4, Nguyễn Trung Minh1 
1Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 
18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
2 Hội Khảo cổ Việt Nam, 61 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam 
3Viện Khoa học Xã hội vùng Tây Nguyên, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, 
số 1A Nguyễn Văn Linh, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk, Việt Nam 
4Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 
18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 11 tháng 02 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 04 tháng 3 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 11 tháng 3 năm 2020 
Tóm tắt: Trong các đợt khảo sát thực địa từ tháng 11/2018 đến tháng 5/2019, Đề tài TN17/T06 đã 
có nhiều phát hiện mới về di sản trên địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên. Nổi bật hơn cả là di tích khảo cổ 
tiền sử khu vực núi lửa Hố Tre, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk và các di tích khảo cổ tiền sử dọc 
thung lũng cổ Sông Ba, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Tại di tích Hố Tre, các hiện vật thu được 
bao gồm: rìu bầu dục, rìu ngắn, hạch đá, mảnh tước, bàn mài, hòn lấy lửa (?),... và các mảnh gốm 
mang đặc trưng về kỹ thuật và loại hình của thời đại Đá mới. Ở Phú Thiện, các hiện vật thu được 
bao gồm: công cụ ghè một hoặc hai mặt, công cụ chặt thô có rìa lưỡi ngang, công cụ nạo rìa lưỡi 
dọc, công cụ mũi nhọn, công cụ mảnh tước,... đặc trưng cho kỹ thuật và loại hình công cụ thời đại 
Đá cũ. Những phát hiện này rất có ý nghĩa về khoa học, góp phần làm sáng tỏ lịch sử phát triển của 
con người từ thời tiền sử tới nay ở Việt Nam cũng như trong khu vực. Về mặt thực tiễn, chúng là cơ 
sở để xây dựng bảo tàng bảo tồn tại chỗ, phát triển du lịch địa phương. 
Từ khóa: Di tích khảo cổ, công cụ, Đá cũ, Đá mới, Tây Nguyên. 
1. Mở đầu 
Trong quá trình khảo sát tìm kiếm hang động 
núi lửa và di sản địa chất (DSĐC) liên quan đến 
hoạt động phun trào basalt Tây Nguyên của đề 
tài "Nghiên cứu giá trị di sản hang động, đề xuất 
________ 
 Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: laphuc@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4565 
xây dựng bảo tàng bảo tồn tại chỗ ở Tây Nguyên; 
lấy thí dụ hang động núi lửa ở Krông Nô, tỉnh 
Đắk Nông” (2017-2020) (mã số TN17/T06, thuộc 
chương trình Tây Nguyên giai đoạn 2016 - 2020; 
chủ nhiệm đề tài: TS. La Thế Phúc); các nhà địa 
chất đã có nhiều phát hiện mới về DSĐC như: 
L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 81 
cấu trúc vòng và địa hình nghịch đảo ở Nam 
Dong (huyện Cư Jut, tỉnh Đắk Nông) và Bon 
Choih (huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông), miệng 
núi lửa Hố Tre (huyện Krông Ana, tỉnh Đắk 
Lắk), basalt cầu gối ở huyện Đắk Glei (tỉnh Kon 
Tum), hóa thạch khuôn cây trong đá basalt ở 
hang động núi lửa (huyện Krông Nô, tỉnh Đắk 
Nông) và ở nhiều thác nước rải rác trên 5 tỉnh 
Tây Nguyên. Đáng chú ý, trên nền DSĐC núi 
lửa, hàng loạt di tích khảo cổ thời tiền sử được 
phát hiện, tạo nên di sản kép/di sản hỗn hợp (gồm 
hai loại hình di sản thiên nhiên - di sản văn hóa), 
như: di tích tiền sử trong hang động núi lửa ở 
huyện Krông Nô (Đắk Nông); các di tích Đá mới 
trên miệng núi lửa Hố Tre (huyện Krông Ana, 
tỉnh Đắk Lắk), di tích Đá mới ở cụm thác Đray 
Nur (Đắk Lắk) - Đray Sáp (Đắk Nông), di tích 
Đá mới ở thác Hang Dơi và Thác 50 ở huyện 
K’Bang (Gia Lai); các di tích Đá cũ ở Phú Thiện, 
A Yun Pa, Krông Pa, Ia Pa thuộc thung lũng sông 
 ...  Đồn Một, Đồn Hai thuộc 
phần phía bắc của huyện Phú Thiện, nằm gọn 
trong thung lũng cổ Sông Ba.
Hình 18. Sơ đồ mặt cắt địa hình sườn đông núi Chư A Thai (Bùi Văn Thơm thành lập); 
ảnh bề mặt địa hình bậc 3, bậc 4 và một số hiện vật tiền sử ở địa hình bậc 4 (La Thế Phúc chụp năm 2019). 
L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 
88 
Lần đầu tiên, ngày 17/4/2019, La Thế Phúc, 
Lương Thị Tuất, Bùi văn Thơm cùng các cộng 
sự đã phát hiện một số công cụ đá, mảnh tước, 
hạch đá phân bố rải rác tại sườn và chân núi Chư 
A Thai (Hình 18), huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. 
Từ ngày 27/4 đến ngày 03/5/2019, La Thế Phúc 
và Vũ Tiến Đức cùng các cộng sự đã mở rộng 
diện điều tra, tìm kiếm (trong khuôn khổ đề tài 
cấp cơ sở của Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam), 
phát hiện thêm 14 điểm di tích phân bố rải rác 
trong phạm vi khoảng 100 km2 thuộc xã Chư A 
Thai, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Toàn bộ 
hiện vật sưu tầm đã được định loại, hiệu chỉnh và 
thống kê phân loại theo quy định chuyên ngành; 
đã được thuyết trình tại các hội nghị hội thảo 
khoa học, chuyên ngành và được các chuyên gia 
khảo cổ hàng đầu của Việt Nam đánh giá cao. 
3.2.2. Sơ lược đặc điểm địa chất di tích 
Khu vực huyện Phú Thiện lộ ra các phân vị 
địa chất chủ yếu sau [3]: 
- Phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn (γδP2-3bq, 
272 - 252 triệu năm BP): lộ ra ở rìa tiếp giáp phía 
đông - đông bắc huyện Phú Thiện (Hình 19), 
thuộc địa phận huyện Ia Pa. Thành phần đá chủ 
yếu gồm: diorit, diorit thạch anh, ít hơn có 
gabbrodiorit (Pha 1); granodiorit biotit 
hornblend, granit biotit-hornblend (Pha 2); 
granit biotit, granosyenit hạt vừa - thô, màu hồng 
kiến trúc dạng porphyr (Pha 3); và Phổ biến các 
loại đá mạch: granit aplit, granit porphyr, diorit 
porphyr, kersantit, spessartit [3]. Đây là một 
trong các nguồn cung cấp cuội sỏi đa khoáng cho 
trầm tích Đệ tứ ở thung lũng cổ Sông Ba và hạ 
lưu. 
- Phức hệ Vân Canh (γT2a vc, 247 - 237 triệu 
năm BP) lộ ra thành diện lớn ở rìa đông và diện 
nhỏ ở phía tây Phú Thiện (Hình 19). Thành phần 
thạch học chủ yếu gồm: granodiorit, granit, 
granosyenit. Đá thường có màu khá sặc sỡ: hồng, 
xám phớt hồng, xám phớt vàng, vàng [3]. Đây là 
một trong các nguồn cung cấp cuội sỏi đa khoáng 
cho trầm tích Đệ tứ ở thung lũng cổ Sông Ba và 
hạ lưu. 
- Hệ tầng Sông Ba (N1³sb, 11,630 - 5,333 
triệu năm BP) chiếm phần lớn diện tích xã Chư 
A Thai (Hình 19). Thành phần chủ yếu gồm: cuội 
tảng kết, cuội kết đa khoáng xen với các lớp 
mỏng cát - sạn kết, cát kết arkos xám sáng, phần 
trên xen kẽ dạng nhịp giữa các lớp cát - sạn kết 
chứa các thấu kính cuội kết mỏng với cát kết, bột 
kết và sét kết màu xám sáng. Các thành tạo trầm 
tích của hệ tầng tại núi Chư A Thai chứa nhiều 
gỗ hóa thạch đã bị silic hóa, rất đẹp và giá trị [3]. 
Đây là một trong các nguồn cung cấp cuội sỏi đa 
khoáng cho trầm tích Đệ tứ ở thung lũng cổ Sông 
Ba và hạ lưu. 
- Hệ tầng Túc Trưng (N
2
-Q1tt; 5,333 - 0,781 
triệu năm BP): phân bố khá rộng rãi ở rìa phía 
bắc - tây bắc - tây xã Chư A Thai (Hình 19). 
Thành phần thạch học gồm: basalt olivin - augit, 
basalt olivin - augit - plagioclas. Đá basalt có 
màu xám đến xám xanh, xám đen; cấu tạo khối 
đặc xít hoặc lỗ hổng nhỏ [3]. Đây là một trong 
các nguồn cung cấp cuội sỏi đa khoáng cho trầm 
tích Đệ tứ ở thung lũng cổ Sông Ba và hạ lưu. 
- Trầm tích Pleistocene sớm phần muộn 
(aQ1; 1,800 - 0,773 triệu năm BP): lộ ra trên bề 
mặt khu vực Chư A Thai thành >10 diện lớn nhỏ 
khác nhau ở trung tâm thung lũng cổ, dưới dạng 
da báo (Hình 19), phủ trực tiếp lên các thành tạo 
của hệ tầng Sông Ba. Thành phần trầm tích là 
cuội sạn sỏi đa khoáng có độ mài tròn tốt - trung 
bình, gồm chủ yếu là: thạch anh, đá silic, quarzit, 
cát kết dạng quarzit, gỗ hóa thạch, granit, basalt 
(ít), đá sừng (ít). Trầm tích có nguồn gốc sông 
với độ gắn kết yếu [3]. Chiều dày trầm tích cuội 
sạn sỏi đa khoáng thường <1m (quan sát bằng 
mắt thường tại các taluy). Trong lớp cuội sạn này 
đã phát hiện được nhiều công cụ đá, mảnh tước, 
hạch đá... của người Tiền sử, có đặc điểm tương 
đồng cụm di tích Đá cũ An Khê [4]. 
- Các thành tạo trầm tích Đệ tứ (Q) trẻ hơn 
(<0,781 triệu năm), có nguồn gốc sông (a) như: 
trầm tích Pleistocene giữa - muộn (aQ12-3), 
Pleistocene muộn (aQ13), Holocene sớm - giữa 
(aQ21-2) và Holocene muộn (aQ23) không có ở địa 
phận xã Chư A Thai; chỉ có ở phía nam, đông 
nam Chư A Thai (Hình 19), thuộc huyện Phú 
Thiện và huyện Ayun Pa, tỉnh Gia Lai [3]. 
L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 89 
3.2.3. Đặc điểm di tích 
- Đặc điểm phân bố: Di tích phân bố trên các 
địa hình bậc 2, bậc 3, bậc 4 và bậc 5 của sườn 
đông núi Chư A Thai (Hình 18) và trên các gò 
đồi thấp thuộc các thềm sông cổ bậc1, bậc 2 và 
bậc 3 của thung lũng Sông Ba trước kia (Hình 
19). Mối liên quan giữa các bậc địa hình sườn 
đông núi Chư A Thai (Hình 18) với các độ cao 
thềm sông/bãi bồi cổ được thể hiện ở (Bảng 2). 
Di tích trên các gò thấp: phần phía bắc và 
đông bắc xã Chư A Thai có nhiều bãi cuội diện 
tích từ vài trăm mét vuông tới hàng ngàn mét 
vuông trên các gò đồi thấp lúp súp với độ cao 
tương đối 3 - 10m. Các bãi cuội này là trầm tích 
Pleistocene sớm phần muộn (1,50 - 0,78 triệu 
năm), nguồn gốc aluvi [3], thành phần đa 
khoáng: thạch anh, quarzit, cát kết dạng quarzit, 
đá sừng, đá silic, opal-chalcedon, gỗ hóa thạch 
(silic hóa), basalt (ít); kích thước cuội phổ biến 
từ vài cm đến 10cm (Hình 21). Kết quả tìm kiếm 
đã xác lập được 14 điểm di tích trên các bãi ở 
đây (ký hiệu từ PT2 đến PT15 ở bảng 2). Các 
diện cuội này không chỉ phân bố ở phần phía bắc 
của Chư A Thai, mà còn xuất lộ ở nhiều nơi 
thuộc thung lũng Sông Ba (cổ) của tỉnh Gia Lai, 
đã mở ra tiềm năng to lớn cho việc tìm kiếm đánh 
giá loại hình di sản này. 
- Đặc điểm hiện vật. Hiện vật thu thập bao 
bao gồm: công cụ đá, mảnh tước, phác vật, hạch 
đá, đá có vết ghè, hòn ghè và đá nguyên liệu. 
Công cụ đá tiêu biểu gồm: rìu tay, bôn tay (Hình 
22); công cụ mũi nhọn tam diện (Hình 23), công 
cụ ghè đẽo 1-2 mặt (Hình 24); công cụ rìa ngang 
- rìa xiên/dọc, công cụ ghè đẽo tạo rìa cả 2 mặt ở 
một đầu, công cụ hạch đa hướng, công cụ mảnh 
tước (Hình 25), công cụ hòn ghè... Chất liệu là 
đá cuội tự nhiên tại chỗ, gồm: thạch anh, quarzit, 
đá silic, cát kết dạng quarzit, opal-chalcedon, gỗ 
hóa thạch (silic hóa), basalt (ít),
Hình 19. Sơ đồ địa chất [3] và vị trí các điểm di tích Đá cũ ở huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. 
L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 
90 
Bảng 2. Các điểm di tích và đặc điểm địa hình chứa di tích ở Phú Thiện 
STT Tên điểm khảo sát Ký hiệu Độ cao tuyệt đối (m) Độ cao tương đối (m) 
1 Phú Thiện 9 PT9 192 Thềm sông cổ bậc 1 (chứa di 
vật): 10 - 12m 
(Tương ứng địa hình 
bậc 6 ở Phú Thiện) 
2 Plei Tơ PT10 192 
3 Plei Hek 1 PT11 204 
4 Thôn Kinh Pênh PT3 206 
5 Plei Klung 2 PT5 212 
Thềm sông cổ bậc 2 (chứa di 
vật): 15 - 28m 
(Tương ứng địa hình 
bậc 5 ở Phú Thiện) 
6 Plei Klung 4 PT6 212 
7 Plei Klung 5 PT7 216 
8 Phú Thiện 15 PT15 216 
9 Phú Thiện 14 PT14 217 
10 Fa Dui 1 PT8 218 
11 Plei Klung 1 PT4 223 
12 Phú Thiện 12 PT12 227 Thềm sông cổ bậc 3 (chứa di 
vật): 35-50m (tương ứng địa 
hình bậc 4 ở Phú Thiện) 
13 Phú Thiện 13 PT13 234 
14 Chân núi Chư A Thai PT1 252 
15 Đồi Đồn 2 PT2 356 Địa hình bậc 3 Phú Thiện 
Hình 20. Gò đồi cuội sạn chứa nhiều 
hiện vật ở thôn Plei Klung 2. 
 Hình 21. Một số hiện vật ở gò đồi thôn Plei Klung 2 
Hình 22. Bôn 
tay. 
Hình 23. Công 
cụ mũi nhọn. 
Hình 24. Công 
cụ ghè hai mặt. 
Hình 25. Công 
cụ mảnh tước. 
Hình 26. Hội thảo khoa học ngày 
22/8 tại Bảo tàng Thiên nhiên VN. 
Nguồn: La Thế Phúc chụp năm 2019. 
L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 91 
- Phương thức chế tác. Công cụ được ghè 
đẽo thô sơ từ các hòn cuội: phần đốc còn vỏ và 
độ tròn cạnh của hòn cuội, phần mũi/lưỡi được 
ghè đẽo tạo lưỡi rìu/mũi nhọn (Hình 22, 23, 24); 
có sự tương đồng với công cụ ở An Khê, hội tụ 
đặc trưng của tổ hợp kỹ thuật: Chopper-chooping 
tool/Picks/ Biface - Handaxes [4]. 
- Quy mô của di tích. Kết quả khảo sát bước 
đầu xác lập di tích phân bố trong diện tích >100 
km2, chiều dày tầng sản phẩm chứa di di vật phổ 
biến <1m (được quan sát trực tiếp trên vách/taluy 
các gò đồi chứa di vật). 
- Loại hình di tích: Sự hiện diện của các công 
cụ đá, mảnh tước, phác vật, hạch đá, đá có vết 
ghè, hòn ghè với mật độ khá cao đã minh 
chứng cho các di tích ở đây thuộc loại hình di chỉ 
cư trú, chế tác công cụ tại chỗ (công xưởng). 
- Niên đại di tích: sơ bộ đánh giá thuộc thời 
đại Đá cũ (?) dựa trên cơ sở kỹ thuật chế tác, loại 
hình hiện vật và so sánh các công cụ đá Phú 
Thiện có nhiều nét tương đồng với công cụ Đá 
cũ An Khê và trên thế giới. 
3.2.4. Một số nhận xét ban đầu về di tích 
Đề tài TN17/T06 đã tổ chức Hội thảo (ngày 
22/8/2019 tại Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam) 
với sự tham gia đông đảo các nhà khoa học, trong 
đó có các nhà nghiên cứu khảo cổ học hàng đầu 
của Việt Nam về thời đại Đá cũ (Hình 26). Hội 
thảo đã diễn ra rất sôi nổi và đều thống nhất ý 
kiến đánh giá phát hiện mới này như sau: 
- Hiện vật khảo cổ được phát hiện tại Phú 
Thiện có số lượng lớn, phong phú và đa dạng về 
loại hình; phân bố trên diện rộng đã phản ảnh 
tính thống nhất trong kỹ thuật, loại hình hiện vật, 
chất liệu và có tiềm năng lớn trong nghiên cứu 
thời đại Đá cũ ở thung lũng cổ Sông Ba. 
- Di tích và hiện vật thể hiện tính độc đáo, 
hiếm có không chỉ trong phạm vi tỉnh Gia Lai 
hay Việt Nam mà rộng ra trên toàn thế giới. 
- Di tích có giá trị đặc biệt quan trọng trong 
nghiên cứu lịch sử dân tộc, tiến hóa nhân loại và 
trong nhận thức vị trí tỉnh Gia Lai nói riêng, vùng 
Tây Nguyên nói chung trong dòng chảy lịch sử 
dân tộc; có khả năng bổ trợ và nâng tầm các di 
tích khảo cổ học thời đại Đá cũ trên địa bàn tỉnh 
Gia Lai như các di tích An Khê nhằm tăng tính 
xác thực và khoa học. 
- Di tích có giá trị nổi bật phục vụ hoạt động 
nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục chính trị đảm 
bảo ổn định an ninh quốc phòng tỉnh Gia Lai – 
đây là địa bàn có ý nghĩa chiến lược đặc biệt 
quan trọng của nước ta. 
- Các giá trị khoa học của các di tích tiền sử 
Phú Thiện có khả năng tích hợp cùng các giá trị 
di sản thiên nhiên và văn hóa khác ở tại địa 
phương, các ngành kinh tế như nông nghiệp, 
thương mại... để phát triển du lịch văn hóa sinh 
thái tại Phú Thiện với điểm nhấn là các di tích 
khảo cổ học thời đại Đá cũ. 
4. Kết luận và kiến nghị 
- Di tích Hố Tre và cụm di tích Phú Thiện là 
những phát hiện mới về di sản văn hóa ở Tây 
Nguyên. Những di sản văn hóa này hình thành 
và phản ảnh một giai đoạn lịch sử của con người 
gắn liền với di sản địa chất núi lửa; thể hiện rõ 
nét sự kết nối giữa yếu tố thiên nhiên – con 
người. Đây là loại di sản kép/di sản hỗn hợp rất 
có các giá trị khoa học và thực tiễn. Về khoa học: 
di sản góp phần quan trọng trong nghiên cứu lịch 
sử tự nhiên, lịch sử dân tộc; tiến hóa tự nhiên, 
nhân loại và trong nhận thức vị trí tỉnh Gia Lai 
nói riêng, Tây Nguyên nói chung trong dòng 
chảy lịch sử của dân tộc và khu vực. Về thực tiễn: 
di sản là cơ sở để xây dựng bảo tàng bảo tồn tại 
chỗ, khai thác phát huy các giá trị, phát triển du 
lịch, góp phần phát triển bền vững kinh tế xã hội. 
- Trước những hoạt động của các cư dân hiện 
đại, cảnh quan địa hình địa mạo và môi sinh khu 
vực di tích Hố Tre (Đắk Lắk), Phú Thiện (Gia 
Lai) đã và đang bị đe dọa xâm phạm nghiêm 
trọng, rất dễ bị phá hủy. Các phát hiện mới nêu 
trên chỉ là sơ bộ ban đầu, đã được báo cáo tới các 
chính quyền địa phương liên quan để bảo vệ bảo 
tồn khẩn cấp. Cần sớm triển khai các hoạt động 
điều tra xác lập và pháp lý hóa di tích, tiến tới 
khai quật, nghiên cứu chi tiết, phục vụ xây dựng 
bảo tàng tại chỗ để bảo tồn di tích và khai thác 
du lịch, phát triển kinh tế. 
- Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng 
cao nhận thức cộng đồng trong lĩnh vực bảo vệ 
L.T. Phuc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 79-92 
92 
bảo tồn tổng thể các giá trị di sản thiên nhiên - di 
sản văn hóa theo nguyên lý “Bảo tồn để khai thác 
và khai thác để bảo tồn di sản”, phục vụ phát 
triển bền vững. 
Lời cảm ơn 
Bài viết này là kết quả khảo sát thực địa của 
đề tài cấp cơ sở "Điều tra tìm kiếm di chỉ khảo 
cổ khu vực Chư A Thai, huyện Phú Thiện, tỉnh 
Gia Lai" và đề tài KHCN cấp Nhà nước 
TN17/T06. Tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban 
Chủ nhiệm Chương trình Tây Nguyên giai đoạn 
2016 - 2020 và Ban Lãnh đạo Bảo tàng Thiên 
nhiên Việt Nam đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho 
đề tài hoàn thành tốt nhiệm vụ. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyen Duc Thang, Geological and mineral 
resources map of Vietnam at scale 1:200,000, Ben 
Khe - Dong Nai series. Center for Information and 
Archives of Geology, Department of Geology and 
Minerals of Vietnam, Hanoi, 1999 (in Vietnamese). 
[2] La The Phuc, Nguyen Khac Su, Vu Tien Duc, 
Luong Thi Tuat, Phan Thanh Toan, Nguyen Thanh 
Tung, Nguyen Trung Minh, “New discovery of 
prehistoric archaeological remnants in volcanic 
caves in Krongno, Dak Nong Province”, Vietnam 
Journal of Earth Sciences 39(2) (2017) 97-108, 
Vietnam Academy of Science and Technology, 
Hanoi. https://doi.org/10.15625/0866-7187/39/2/9186. 
[3] Tran Tinh, Geological and mineral resources map 
of Vietnam at scale 1:200,000, An Khe sheet, 
Center for Information and Archives of Geology, 
Department of Geology and Minerals of Vietnam. 
Hanoi, 1994 (in Vietnamese) 
[4] An Khe Early Paleolithic Industry with the 
primitive historic period of Vietnam. Journal or 
Archaeology 2 (2017) 3-18 (in Vietnamese).

File đính kèm:

  • pdfmot_so_phat_hien_moi_ve_di_san_o_tay_nguyen_viet_nam.pdf