Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu

Sol khí (aerosol) trong khí quyển là các hạt rắn

hoặc lỏng tồn tại lơ lửng trong không khí. Sol khí

trong khí quyển có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân

tạo. Loại có nguồn gốc tự nhiên bao gồm: các hạt

muối (từ đại dương), các bụi khoáng do gió đưa lên,

từ núi lửa, từ thực vật, và các sản phẩm của các phản

ứng khí tự nhiên. Loại có nguồn gốc nhân tạo do

chất thải công nghiệp (khói, bụi, ), nông nghiệp,

sản phẩm của các phản ứng khí [1]. Độ dày quang

học sol khí (AOD: Aerosol optical depth) là đại

lượng đặc trưng cho sự suy giảm của tia bức xạ mặt

trời do hấp thụ và tán xạ của các phần tử sol khí tại

điểm quan trắc so với giới hạn trên khí quyển

Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu trang 1

Trang 1

Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu trang 2

Trang 2

Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu trang 3

Trang 3

Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu trang 4

Trang 4

Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu trang 5

Trang 5

Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu trang 6

Trang 6

Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu trang 7

Trang 7

Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 4100
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu

Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới độ dày quang học Sol khí tại Bạc Liêu
 10 
33(1), 10-17 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2011 
ẢNH HƯỞNG CỦA MƯA ĐẦU MÙA TỚI 
ĐỘ DÀY QUANG HỌC SOL KHÍ TẠI BẠC LIÊU 
PHẠM XUÂN THÀNH, NGUYỄN XUÂN ANH, LÊ VIỆT HUY 
LÊ NHƯ QUÂN, HOÀNG HẢI SƠN, PHẠM LÊ KHƯƠNG 
E-mail: pxthanh@igp-vast.vn 
Viện Vật lý Địa cầu, Nhà A8, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội 
Ngày nhận bài: 09-11-2010 
1. Mở đầu 
Sol khí (aerosol) trong khí quyển là các hạt rắn 
hoặc lỏng tồn tại lơ lửng trong không khí. Sol khí 
trong khí quyển có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân 
tạo. Loại có nguồn gốc tự nhiên bao gồm: các hạt 
muối (từ đại dương), các bụi khoáng do gió đưa lên, 
từ núi lửa, từ thực vật, và các sản phẩm của các phản 
ứng khí tự nhiên. Loại có nguồn gốc nhân tạo do 
chất thải công nghiệp (khói, bụi,), nông nghiệp, 
sản phẩm của các phản ứng khí [1]. Độ dày quang 
học sol khí (AOD: Aerosol optical depth) là đại 
lượng đặc trưng cho sự suy giảm của tia bức xạ mặt 
trời do hấp thụ và tán xạ của các phần tử sol khí tại 
điểm quan trắc so với giới hạn trên khí quyển. 
 Những thập kỷ gần đây, mức độ phát thải sol 
khí vào khí quyển ngày càng tăng liên quan đến 
quá trình phát triển công nghiệp của các quốc gia 
trên thế giới. Nồng độ các phần tử sol khí trong khí 
quyển tăng lên tác động trực tiếp tới sức khoẻ và 
đời sống con người do giảm chất lượng không khí, 
ngoài ra còn tác động gián tiếp thông qua ảnh 
hưởng tới thời tiết, khí hậu. Theo Lau K.-M. et al, 
2008 [4], các phần tử sol khí tán xạ và hấp thụ bức 
xạ làm cho lớp khí quyển ấm lên và bề mặt trái đất 
lạnh đi (ảnh hưởng trực tiếp). Khi bề mặt trái đất 
lạnh hơn khí quyển phía trên, khí quyển trở nên ổn 
định (ảnh hưởng bán trực tiếp). Các phần tử sol khí 
làm tăng số hạt nhân ngưng kết hình thành hạt 
nước nhỏ hơn, dẫn đến tăng tán xạ và phản xạ của 
mây. Các hạt nước nhỏ làm hạn chế sự va chạm và 
liên kết, kéo dài thời gian tồn tại của mây và ngăn 
cản sự lớn lên của hạt nước trong mây tạo các hạt 
mưa (ảnh hưởng gián tiếp). Chung C.E. và cộng sự 
2005 [2] chỉ ra rằng ảnh hưởng trực tiếp của sol khí 
làm giảm năng lượng bức xạ trung bình toàn cầu, 
tại giới hạn trên khí quyển 0.35W/m2, tăng trong 
lớp khí quyển 3.0 W/m2, và giảm tại bề mặt trái đất 
3.4 W/m2. Trong vùng châu Á gió mùa, trung bình 
năm, năng lượng bức xạ trong khí quyển (mặt đất) 
có thể tăng (giảm) 10-20W/m2 . Theo Ramanathan 
V. et al, 2005 [7], màn mây nâu ABCs 
(Atmospheric Brown Clouds) cấu thành từ các chất 
ô nhiễm như các bon đen, các bon hữu cơ, tro, bụi 
và các chất hấp thụ như là sun fat, ngăn cản bức xạ 
mặt trời tới mặt đất có thể làm giảm 50% của sự 
nóng lên toàn cầu do tăng các khí nhà kính. 
Ảnh hưởng trực tiếp của sol khí làm thay đổi 
phân bố năng lượng của khí quyển và bề mặt, thay 
đổi gradient áp suất theo phương ngang, tác động 
tới hoàn lưu gió mùa và làm thay đổi lượng mưa 
của một số nơi trên Trái Đất (Ramanathan V. et al, 
2005 [7]; Lau K.-M., 2006 [5]; Zhang Y., et al, 
2009 [11]). Ngược lại, dị thường hoàn lưu quy mô 
lớn liên quan đến sự thay đổi vận chuyển sol khí, 
điều chỉnh quá trình sa lắng khô và ướt, và thay đổi 
môi trường vật lý và hoá học của hỗn hợp sol khí. 
Bụi có thể được hoàn lưu quy mô lớn vận chuyển 
từ vùng sa mạc lân cận tới Ấn Độ (Lau K.-M., 
2008 [4]). Những trận mưa rào mạnh trong mùa 
khô ảnh hưởng tới phổ độ dày quang học và đặc 
trưng kích thước của sol khí (Saha A. and Moorthy 
K.K., 2004 [8]). Trong hội thảo quốc tế về “Ảnh 
hưởng của sol khí đến bức xạ và động năng của 
chu trình nước gió mùa” tổ chức từ ngày 31 tháng 
7 đến ngày 4 tháng 8 năm 2006 tại Tây Tạng, 
Trung Quốc, các nhà khoa học thế giới đã khẳng 
định: Tương tác giữa sol khí - gió mùa là một thách 
 11
thức mới đối với nghiên cứu khí hậu gió mùa (Lau 
K.-M., et al, 2008). 
Ở Việt Nam, hướng nghiên cứu trên mới chỉ 
thực sự bắt đầu năm 2003, khi chúng ta có hai trạm 
quan trắc sol khí đầu tiên trong mạng trạm 
AERONET của NASA đặt tại Bạc Liêu và Bắc 
Giang. Những kết quả ban đầu thu được từ hoạt 
động của trạm đã được tác giả Nguyễn Xuân Anh 
và Lê Việt Huy đánh giá trong bài báo đăng trong 
Tuyển tập các công trình nghiên cứu vật lý địa cầu 
2008 [1]. Gần đây, tác giả Hồ Thị Minh Hà và 
Phan Văn Tân, 2009 đã sử dụng mô hình RegCM3 
để mô phỏng ảnh hưởng của carbon đen (BC) lên 
khí hậu khu vực Đông Nam Á và Việt Nam. Kết 
quả cho thấy, tác động của BC lên lượng mưa thể 
hiện ở hệ số tương quan (HSTQ) âm trên khu vực 
bán đảo Đông Dương trong khi trên phía đông của 
Ấn Độ và Trung quốc, HSTQ dương [3]. 
Dựa trên chuỗi số liệu AOD của trạm sol khí 
Bạc Liêu và số liệu mưa từng giờ của trạm Khí 
tượng Bạc Liêu, chúng tôi xác định các trận mưa 
đầu mùa ghi được tại Bạc Liêu năm 2003; phân 
tích ảnh hưởng của mưa đầu mùa năm 2003 đến độ 
dày quang học và phân bố kích thước của các hạt 
sol khí tại Bạc Liêu. 
2. Cơ sở số liệu 
Nguồn số liệu được sử dụng trong nghiên cứu 
này bao gồm: 1) số liệu về độ dày quang học sol 
khí của trạm Bạc Liêu; 2) số liệu mưa từng giờ của 
trạm khí tượng Bạc Liêu; và 3) số liệu độ ẩm và 
gió của Trung tâm Quốc gia dự báo môi trường 
Mỹ/ Phòng năng lượng (NCEP/DOE-2). Trạm 
quan trắc sol khí Bạc Liêu nằm trong mạng trạm 
AERONET toàn cầu do Cơ quan Hàng không Vũ 
trụ Mỹ NASA thiết lập (hình 1). Thiết bị sử dụng là 
quang phổ kế tự động CIMEL 318 do Pháp chế tạo. 
Hình 1. Mạng trạm quan sát sol khí toàn cầu (AERONET) của NASA 
Thiết bị thực hiện hai phép đo cơ bản là trực xạ 
và tán xạ. Trực xạ đo ở 8 giải phổ: 340, 380, 440, 
670, 870, 940 và 1020nm. Tán xạ được đo ở 4 dải 
phổ (440, 670, 870 và 1020nm) với các góc tán xạ 
khác nhau. Phép đo được tiến hành trong 10 giây 
và lăp lại 3 lần (triplet). Thời gian đo được bắt đầu 
tự động khi khối lượng khí quyển (air mass) bằng 7 
vào buổi sáng và kết thúc vào buổi chiều khi khối 
lượng khí quyển cũng bằng 7. Từ chuỗi số liệu 
này, có thể tính được độ dày quang học sol khí, 
lượng hơi nước trong khí quyển và thông  ... à nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Những 
nghiên cứu này cho thấy sự sa lắng ẩm của các 
phần tử sol khí phụ thuộc vào phân bố kích thước 
và profile theo chiều cao của sol khí, tỷ lệ mưa, và 
phân bố kích thước của hạt mưa [8]. 
Trong phần này, chúng tôi trình bày ảnh hưởng 
của mưa tới độ dày quang học sol khí quan sát 
được tại Bạc Liêu từ ngày 26 tháng 4 đến 7 tháng 5 
năm 2003. Trong khoảng thời gian này, tại trạm 
Bạc Liêu ghi được ba trận mưa: trận thứ nhất, ngày 
1 trong khoảng 11-13h với lượng mưa 4mm; trận 
thứ hai từ 20-21h ngày 3 với lượng 7,5mm; và trận 
thứ 3 từ 3-5h ngày 4 với lượng 5,5mm. Như đã 
trình bày ở trên, đây là những trận mưa đầu mùa 
năm 2003. Từ ngày 26 tháng 4 đến 7 tháng 5 năm 
2003, có 9 ngày ghi được độ dày quang học sol khí 
với tổng số 148 lần đo. Số liệu mưa và độ dày 
quang học sol khí trong khoảng thời gian trên được 
trình bày trong hình 6. 
26 27 28 29 30 1 2 3 4 5 6 7 8
0
2
4
6
8
10
12
14
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
AOD−500nm
AOD−675nm
Rain
Hình 6. Thay đổi của độ dày quang học sol khí 
(nét liền chấm tam giác); tổng lượng mưa 
(hình khối) tại trạm Bạc Liêu xung quanh thời 
điểm BĐGM-MM 
Phân tích sự biến đổi theo thời gian của AOD 
và lượng mưa (hình 6) cùng với gió và độ ẩm (hình 
4 và 5), ta thấy: từ ngày 27 đến ngày 30, gió ở mặt 
Độ ẩm tương đối (%) 
Đ
ộ 
ca
o 
(m
b)
Độ ẩm tương đối (%) 
Đ
ộ 
ca
o 
(m
b)
Lư
ợ
ng
 m
ư
a 
(m
m
) 
Đ
ộ 
dà
y 
qu
an
g 
họ
c 
so
l k
hí
Tháng 4 Tháng 5 
 15
đất có hướng Đông Bắc (U<0; V<0), thăng lên ở 
tất cả các độ cao (hình 4), độ ẩm tương đối trên 
mực 500 hPa thấp, chỉ xấp xỉ 40% (hình 5), trời 
không mưa, AOD tại bước sóng 500nm tăng chậm, 
từ 0.17 trưa ngày 26 đến 0,22 trưa ngày 27 và 0,26 
lúc 12h ngày 29. Tiếp theo, AOD tăng nhanh và 
đạt cực đại vào 0,41 sáng ngày 30 tháng. Ngày 1 
tháng 5, gió mặt đất vẫn còn hướng Đông nhưng đã 
suy yếu, dòng thăng ở trên cao cũng yếu đi, buổi 
sáng AOD giảm còn 0,31 và sau trận mưa lúc giữa 
trưa, AOD tiếp tục giảm mạnh. Sang ngày 3 và 4 
gió tại mặt đất chuyển sang hướng Tây Nam (U>0; 
V>0), độ ẩm tương đối trên tại mực 500 hPa lớn 
hơn 60%, AOD đo được ngày 3 là 0,13. Sau trận 
mưa đêm ngày 3 và sáng ngày 4, AOD giảm xuống 
cực tiểu của đợt (0,10). Đến ngày 6 và 7, độ ẩm 
trên mực 500hPa lại giảm xuống 40%, trời không 
mưa, và AOD bắt đầu tăng nhẹ. Như vậy, sau 3 
trận mưa, độ dày quang học sol khí giảm từ 0,4 
xuống 0,10, chứng tỏ mưa đã làm giảm đáng kể giá 
trị của độ dày quang học sol khí. 
4.2. Ảnh hưởng của mưa đầu mùa năm 2003 tới 
phân bố kích thước của phần tử sol khí 
Mưa không chỉ làm giảm độ lớn của AOD mà 
còn ảnh hưởng tới phân bố kích thước của các phần 
tử sol khí. Để tìm hiểu điều này, chúng tôi tiến 
hành tính các thông số Angstrom. Độ dày quang 
học, bước sóng và độ vẩn đục khí quyển liên quan 
với nhau bằng công thức Angstrom như sau: 
 τ = β•λ-α (1) 
Ở đây, β là hệ số Angstrom, λ bước sóng tính 
bằng micrômét, và α số mũ Angstrom. Hệ số α và 
β phụ thuộc vào bước sóng, và có thể sử dụng để 
mô tả kích thước của phần tử sol khí và độ vẩn đục 
của khí quyển. 
Với hai bước sóng khác nhau, ta có: 
 τ1 = β•λ1-α (2a) 
 τ2 = β•λ2-α (2b) 
và 
 τ1/(λ1-α) = τ2/(λ2-α) (2c) 
cuối cùng rút ra: 
 α = ln(τ1/τ2)/ln(λ2/λ1) (3) 
Trong khí quyển tự nhiên, α biến đổi trong 
khoảng từ 0.5 đến 2.5, với giá trị trung bình 
α=1.3±0.5. Khi giá trị của α lớn, giá trị τ tương 
ứng với bước sóng lớn, nhỏ hơn nhiều giá trị τ 
tương ứng với bước sóng nhỏ, hàm ý một khí 
quyển có tỷ lệ cao của các phần tử có kích thước 
nhỏ so với phần tử có khích thước lớn (r>0.5μ). 
Khi τ của bước sóng lớn tiệm cận τ của bước sóng 
nhỏ, thì các phần tử lớn chiếm ưu thế và giá trị của 
α sẽ nhỏ [13]. 
Hệ số β sẽ được tính cho từng bước sóng: 
 β = τ1•λ1α = τ2•λ2α (4) 
ở đây, λ được tính bằng micrômét (500nm = 
0.500μ). Giá trị của β<0.1 khí quyển tương đối 
sạch và β>0.2 khí quyển vẩn đục. 
Để đánh giá ảnh hưởng của mưa tới phân bố 
kích thước của các phần tử sol khí tại trạm Bạc 
Liêu, chúng tôi xây dựng đồ thị phân bố phổ AOD 
của các ngày 26, 30 tháng 4 và 3, 5 tháng 5 (hình 
7) và tính toán hệ số α và β cho bước sóng 500nm 
cho các ngày này (bảng 2). 
Bảng 2. Thông số Angstrom 
Ngày α β Ngày α β 
26-04-2003 1.69 0.05 03-05-2003 0.93 0.07 
30-04-2003 0.86 0.23 05-05-2003 1.31 0.04 
300 400 500 600 700 800 900 1000 1100
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
26 April
30 April
3 May
5 May
Hình 7. Biến đổi phổ độ dày quang học sol khí 
xung quanh thời điểm BĐGM-MM 
Kết quả cho thấy: ngày 26, giá trị τ tại bước 
sóng 1020 (τ1020 = 0.056) nhỏ hơn rất nhiều so với τ tại bước sóng 380 (τ380 = 0.226), α có giá trị lớn 
(α=1,69), tỷ lệ của các hạt nhỏ so với các hạt lớn 
cao, khí quyển tương đối sạch (β=0.05). Sang ngày 
30, tình hình đảo ngược hoàn toàn, giá trị τ tại 
bước sóng 1020 (τ1020 = 0.257) nhỏ bằng một nửa 
so với τ tại bước sóng 380 (τ380 = 0.502), α có giá trị 
nhỏ (α=0,86), các hạt kích thước lớn chiếm ưu thế, 
khí quyển vẩn đục (β=0.23). Sự tăng mạnh của các 
Đ
ộ 
dà
y 
qu
an
g 
họ
c 
so
l k
hí
Bước sóng (nm) 
 16 
hạt có kích thướng lớn trong ngày 30 so với ngày 
26, có thể do sự duy trì dòng thăng từ ngày 27 đến 
30 đã cuốn các hạt có kích thước lớn lên độ cao hơn. 
Sau trận mưa thứ nhất số hạt có kích thước lớn giảm 
hẳn (β giảm từ 0,23 xuống 0,07). Sau trận mưa ngày 
3 và 4, số hạt lớn tiếp tục giảm (β giảm từ 0,07 
xuống 0,04; α tăng từ 0,93 đến 1,31), không khí trở 
thành không khí sạch. Như vậy, các hạt sol khí có 
kích thước lớn bị cuốn trôi ngay từ những trận mưa 
đầu tiên, kể cả khi trận mưa không lớn. Kết quả này 
rất phù hợp với kết luận của Saha and Moorthy, 
2004 nghiên cứu tại Ấn Độ. 
4.3. Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới AOD 
Để thấy được ảnh hưởng của mưa đầu mùa đến 
AOD, chúng tôi so sánh trị số AOD tại bước sóng 
500nm trung bình trong một tháng đầu mùa mưa 
và một tháng cuối mùa khô. Thời gian đầu mùa 
mưa được tính từ ngày 23 tháng 5 (sau thời điểm 
bắt đầu mùa mưa trung bình (12 tháng 5) cộng với 
độ lệch chuẩn (11.6 ngày)) đến ngày 22 tháng 6. 
Tương tự, thời gian cuối mùa khô được tính từ 
ngày 1 tháng 4 đến ngày 30 tháng 4. Kết quả, trong 
tháng đầu mùa mưa, từ năm 2003 đến 2009, có 685 
lần quan sát được AOD, và giá trị trung bình đạt 
được là 0.197. Trong tháng cuối mùa khô, các giá 
trị tương ứng là 1058 lần và 0.223. Sự sai khác của 
AOD giữa thời gian đầu mùa mưa và cuối mùa khô 
được là 0.025. 
Ảnh hưởng của mưa đầu mùa tới AOD góp 
phần đáng kể trong sự chênh lệch AOD giữa mùa 
khô và mùa mưa như biểu diễn trong hình 8. 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
0
50
100
150
200
250
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
Hình 8. Biến trình năm của độ dày quang học 
sol khí (nét liền chấm tam giác) và của lượng mưa 
(nét liền, chấm tròn) tại trạm Bạc Liêu, tính 
trung bình từ 2003 đến 2009. Đường đứt nét là 
giá trị trung bình AOD trong một tháng trước và 
sau khoảng thời gian bắt đầu mùa mưa 
Tính trung bình, trong 4 tháng mùa khô (tháng 
12, 1, 2 và 3), AOD đạt 0.29, và trong 4 tháng mùa 
mưa (tháng 6, 7, 8, và 9), AOD là 0.19. Sự chênh 
lệch giữa mùa khô và mùa mưa là 0.10. 
5. Kết luận 
Mục đích của bài báo này là xác định ảnh 
hưởng của mưa đầu mừa năm 2003 đến độ dày 
quang học sol khí và phân bố kích thước các hạt 
sol khí tại Bạc Liêu. Để thực hiện điều này, trước 
hết chúng tôi xác định thời điểm bắt đầu gió mùa 
mùa hè - mùa mưa năm 2003. Sau đó, chúng tôi 
xác định sự suy giảm của AOD và sự thay đổi các 
thông số Angstrom sau các trận mưa ngày 1 và 
đêm ngày 3 sáng ngày 4 tháng 5 năm 2003. Kết 
quả cụ thể có thể tóm tắt như sau: 
Thời điểm bắt đầu gió mùa mùa hè-mùa mưa 
trên khu vực Nam Bộ năm 2003 được xác định là 
ngày 4 tháng 5. Trong khoảng thời gian này, trạm 
Bạc Liêu nghi được 3 trận mưa: trận thứ nhất, ngày 
1 trong khoảng 11-13h với lượng mưa 4mm; trận 
thứ hai từ 20-21h ngày 3 với lượng 7,5mm; và trận 
thứ 3 từ 3-5h ngày 4 với lượng 5,5mm. 
Những trận mưa đầu mùa năm 2003 làm giảm 
đáng kể giá trị của độ dày quang học sol khí. Sau 3 
trận mưa, từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 5, độ dày 
quang học sol khí tại bước sóng 500nm giảm từ 0.4 
xuống 0.1. Các trận mưa đầu mùa cũng làm thay 
đổi phân bố kích thước của các hạt sol khí trong 
khí quyển. Cụ thể các hạt có kích thước lớn bị mưa 
cuốn trôi ngay từ trận mưa đầu tiên. Hệ số β giảm 
từ 0,23 (ngày 30 tháng 4) xuống 0,07 (ngày 3 tháng 
5) và 0,04 (ngày 5 tháng 5). 
Sự chênh lệch của AOD, tại bước sóng 
500nm, giữa tháng đầu mùa mưa và tháng cuối 
mùa khô, do ảnh hưởng của mưa đầu mùa, là 
0.025. Tính trung bình từ năm 2003 đến năm 
2009, AOD trong 4 tháng mùa khô (tháng 12, 1, 2 
và 3) là 0.29, và trong 4 tháng mùa mưa (tháng 6, 
7, 8, và 9), là 0.19. 
Những kết quả trên đã chứng minh ảnh hưởng 
của mưa đầu mùa tới độ dày quang học và phân bố 
kích thước của các hạt sol khí. Tuy nhiên, đây chỉ 
là một trường hợp điển hình, còn nhiều vấn đề 
khác liên quan đến quan hệ giữa mưa và sol khí 
cần được làm sáng tỏ thêm như: quan hệ giữa tỷ lệ 
các phần tử sol khí bị cuốn trôi và cường độ của 
trận mưa? trong điều kiện bình thường thì khoảng 
bao lâu các phần tử sol khí có thể khôi phục lại như 
trước trận mưa?. 
Lư
ợ
ng
 m
ư
a 
(m
m
) 
Đ
ộ 
dà
y 
qu
an
g 
họ
c 
so
l k
hí
Tháng 
Bắt đầu 
mùa mưa 
 17
Lời cảm ơn: Bài báo được hoàn thành với sự 
trợ giúp kinh phí của đề tài nghiên cứu cơ bản 
“Nghiên cứu khả năng dự báo ngày bắt đầu gió 
mùa mùa hè - mùa mưa trên khu vực Nam Bộ” 
thuộc quỹ Phát triển Khoa học Công nghệ Quốc 
gia (NAFOSTED) và đề tài nghiên cứu cơ bản định 
hướng ứng dụng: “Nghiên cứu đánh giá các đặc 
trưng cơ bản của sol khí “aerosol” và định hướng 
ứng dụng trong bảo vệ môi trường”. Trong bài báo 
có sử dụng số liệu AERONET của NASA và số 
liệu của NCEP. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến 
các tổ chức trên. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Nguyễn Xuân Anh, Lê Việt Huy, 2008: 
Nghiên cứu aerosol qua trạm Bắc Giang và Bạc 
Liêu. Tuyển tập các công trình nghiên cứu vật lý 
địa cầu 2008, trang 307-320. 
[2] Chung C.E., Ramanathan V., Kim D., 
Podgorny I.A., 2005: Global anthropogenic aerosol 
direct forcing derived from satellite and ground-based 
observations. Journal of Geophyical Research, Vol. 
110, D24207, doi:10.1029/2005JD006356, 2005. 
[3] Hồ Thị Minh Hà, Phan Văn Tân, 1999: Mô 
phỏng số trị ảnh hưởng của son khí carbon đen lên 
khí hậu khu vực Đông Nam Á và Việt Nam. Hội 
thảo gió mùa châu Á lần 2, 185-197. 
[4] Lau K.-M., et al, 2008: The joint Aerosol-
Monsoon Experiment: A New Challenge for 
Monsoon Climate Research. Bulletin of the 
American Meteorological Society, Vol 89, 369-383. 
[5] Lau K.-M. and Kim K.-M., 2006: Observational 
relationships between aerosol and Asian monsoon 
rainfall, and circulation. Geophyical Research Letters, 
Vol. 33, L21810, doi:10.1029/2006GL027546, 2006. 
[6] Qian W. and D.-K. Lee, 2000: Seasonal 
march of Asian summer monsoon. Int. J. Climatol., 
20, 1371-1386. 
[7] Ramanathan V., et al, 2005: Atmospheric 
brown clouds: Impact on South Asian climate and 
hydrologic cycle. Proc. Natl. Acad. Sci. USA, 102, 
5326-5333. 
[8] Saha A. and Moorthy K.K., 2004: Impact of 
Precipitation on Aerosol Spectral Optical Depth 
and Retrieved SizeDistributions: A Case Study. 
Journal of Applied Meteorology, Vol 43, 902-914. 
[9] Pham Xuan Thanh, Fontaine B., Philippon 
N., 2010: Onset of the Summer Monsoon over the 
Southern Vietnam and its Predictability. Theor. 
Appl. Climatol., 99, 105-113. 
[10] Wang B. and Lin Ho, 2002: Rainy Season 
of the Asian-Pacific Summer Monsoon. J. Climate, 
15, 386-398. 
[11] Zhang Y., et al, 2009: Impact of biomass 
burning aerosol on the monsoon circulation. 
Geophyical Research Letters, Vol.36, L10814, 
doi:10.1029/2009GL037180, 2009. 
[12] Zhang Y., Li T., Wang B., Wu G., 2002: 
Onset of the Summer Monsoon over the Indochina 
Peninsula: climatology and interannual variations. 
J. Climate, 15, 3206-3221. 
[13] WMO: Background Air Pollution 
Monitoring (BAPMON) Network Information 
Manual, TD-9789, September, 1990. 
SUMMARY 
Impact of rainfall in summer onseting monsoon on aerosol optical depth in Bac Lieu 
Impact of rainfall in summer onseting monsoon on the Aerosol Optical Depth (hereafter AOD) and size distribution of 
aerosols elements were evaluated in the case of the rainy season in 2003 based on hourly rainfall data in Bac Lieu and 
AOD data from Aerosol Robotic Network (AERONET). First, we specify the onset of summer monsoon over the 
Southern Vietnam and the rainy days in the early rainfall season is also detected in 2003 from Bac Lieu rain gauge data. 
After that, effect of early season rainfall in 2003 on AOD and size distribution is evaluated by the decrease of AOD at 
500nm and the change of Angstrom parameters. Results show that the onset of the summer monsoon over the Southern 
Vietnam in 2003 is 4-May. At that time, we detected 3 rainy days from Bac Lieu rain gauge station data, it is 1, 3 and 4 
with the rainfall is 4, 7.5 and 5.5, respectively. The rains of early season rainfall in 2003 significantly reduced the aerosol 
optical depth. After 3 rainy days, AOD at 500nm wavelength decreased from 0.4 to 0.1. The rain in early season rainfall 
also changed size distribution of aerosols elements in the atmosphere. The aerosols elements have large size is swept 
away by the first rainy day. The β decreased from 0.23 (30 April) to 0.07 (3 May) and 0.04 (5 May). The difference of 
AOD at 500nm between the first month of rainfall season and the last month of dry season in period 2003 - 2009 is 
0.025. The AOD average rainfall season and dry season is 0.29 and 0.19, respectively. The AOD in 500nm average of 
four dry months (Dec, Jan, Feb and Mar) is 0.29 and of rainy months (Jun, Jul, Aug, and Sep) is 0.19. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_mua_dau_mua_toi_do_day_quang_hoc_sol_khi_tai_b.pdf