Một số nhận xét về tình hình ngân hàng ở Việt Nam trong năm 2020

Trong đại dịch Covid 19, nước ta tuy ít bị tổn thất về nhân mạng,

tuy nhiên, phần phải dốc rất nhiều công sức để chống dịch, phần do nền kinh tế có

độ mở rất lớn nên chưa đo lường hết được các thiệt hại về kinh tế – xã hội, trong

đó, ngân hàng bị giảm sụt nghiêm trọng doanh số hoạt động. Giãn cách xã hội

làm ngưng trệ hoạt động kinh tế, kéo giảm theo số lượng giao dịch ngân hàng.

Hoạt động tín dụng bị đóng băng, dẫn đến nguy cơ tăng nợ xấu và khiến nhiều

người hiểu thêm rằng ngân hàng vẫn tồn tại nhờ các hoạt động ngân quỹ, thanh

toán. Đại dịch tạo cơ hội xem lại cách ngân hàng xây dựng lãi suất hợp lí trong

tư cách một trung gian tài chính làm cầu nối giữa hoạt động kinh tế vi mô và vĩ

mô. Để hội nhập quốc tế sâu hơn, các ngân hàng thương mại gốc nhà nước phải

được tăng vốn điều lệ để đạt hệ số CAR (capital adequacy ratio – hệ số an toàn

vốn) theo chuẩn Basel. Đại dịch cũng là cơ hội vàng để ngân hàng hiện đại hóa

công nghệ, đẩy mạnh thanh toán điện tử không dùng tiền mặt khi được người

dùng nhiệt liệt hưởng ứng

Một số nhận xét về tình hình ngân hàng ở Việt Nam trong năm 2020 trang 1

Trang 1

Một số nhận xét về tình hình ngân hàng ở Việt Nam trong năm 2020 trang 2

Trang 2

Một số nhận xét về tình hình ngân hàng ở Việt Nam trong năm 2020 trang 3

Trang 3

Một số nhận xét về tình hình ngân hàng ở Việt Nam trong năm 2020 trang 4

Trang 4

Một số nhận xét về tình hình ngân hàng ở Việt Nam trong năm 2020 trang 5

Trang 5

Một số nhận xét về tình hình ngân hàng ở Việt Nam trong năm 2020 trang 6

Trang 6

pdf 6 trang minhkhanh 4460
Bạn đang xem tài liệu "Một số nhận xét về tình hình ngân hàng ở Việt Nam trong năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số nhận xét về tình hình ngân hàng ở Việt Nam trong năm 2020

Một số nhận xét về tình hình ngân hàng ở Việt Nam trong năm 2020
Hội thảo Khoa học 
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” 
78 
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH NGÂN HÀNG 
Ở VIỆT NAM TRONG NĂM 2020 
A FEW REMARKS ON VIETNAMESE BANKING 
ACTIVITIES IN 2020 
TS. Lê Thành Lân1, Huỳnh Thị Bích Ngân2 
Tóm tắt – Trong đại dịch Covid 19, nước ta tuy ít bị tổn thất về nhân mạng, 
tuy nhiên, phần phải dốc rất nhiều công sức để chống dịch, phần do nền kinh tế có 
độ mở rất lớn nên chưa đo lường hết được các thiệt hại về kinh tế – xã hội, trong 
đó, ngân hàng bị giảm sụt nghiêm trọng doanh số hoạt động. Giãn cách xã hội 
làm ngưng trệ hoạt động kinh tế, kéo giảm theo số lượng giao dịch ngân hàng. 
Hoạt động tín dụng bị đóng băng, dẫn đến nguy cơ tăng nợ xấu và khiến nhiều 
người hiểu thêm rằng ngân hàng vẫn tồn tại nhờ các hoạt động ngân quỹ, thanh 
toán. Đại dịch tạo cơ hội xem lại cách ngân hàng xây dựng lãi suất hợp lí trong 
tư cách một trung gian tài chính làm cầu nối giữa hoạt động kinh tế vi mô và vĩ 
mô. Để hội nhập quốc tế sâu hơn, các ngân hàng thương mại gốc nhà nước phải 
được tăng vốn điều lệ để đạt hệ số CAR (capital adequacy ratio – hệ số an toàn 
vốn) theo chuẩn Basel. Đại dịch cũng là cơ hội vàng để ngân hàng hiện đại hóa 
công nghệ, đẩy mạnh thanh toán điện tử không dùng tiền mặt khi được người 
dùng nhiệt liệt hưởng ứng. 
Từ khóa: dịch Covid-19, chuẩn Basel, ngân hàng Việt Nam. 
Trong năm 2020, đại dịch Covid 19 tàn phá nặng toàn thế giới. Việt Nam, 
may mắn hơn, trong đợt 1, sớm chặn đứng được dịch bệnh với những thành quả 
đáng nể phục, tuy phải chịu những hậu quả nhất định về kinh tế xã hội chưa thể đo 
lường được hết. Trong tham luận này, chúng tôi đưa ra một số nhận định cá nhân 
về các vấn đề thực tế đã được “tai nghe mắt thấy” riêng trong lĩnh vực ngân hàng. 
1. ĐẠI DỊCH LÀM GIẢM DOANH SỐ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN 
HÀNG 
Trong hai tháng 04 – 05/2020 vừa qua, ngành ngân hàng (NH) phải giãn 
cách xã hội. Để tránh tập trung đông người, các điểm giao dịch cho nhân viên 
nghỉ luân phiên và/hay đưa nhân viên hậu đài (back office) đến làm việc ở trụ sở 
khác trong cùng hệ thống. Các NH hiện nay đều nối mạng trực tuyến (online) 
1 Trường Đại học Trà Vinh; Email: lan.mc71@gmail.com 
2 Lớp CH18TC_TV7_1; Email: nganhtb11980@gmail.com 
Hội thảo Khoa học 
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” 
79 
nhưng cũng bất tiện trong luân chuyển chứng từ giấy bắt buộc. Giãn cách xã hội 
còn tác động đến khách hàng của NH, dù không có lệnh nào cấm khách hàng đến 
NH giao dịch, nhưng, các cơ sở kinh doanh không thiết yếu bị đóng cửa, gần như 
không còn nhu cầu giao dịch, làm giảm hẳn doanh số hoạt động của NH. Sau giãn 
cách đợt 1, hoạt động kinh tế trong nước chưa kịp hồi phục, dịch bệnh lại bùng 
phát đợt 2 từ cuối tháng 7/2020. Tuy Việt Nam sớm mở lại hoạt động kinh tế, 
song phần thế giới còn lại vẫn đang giãn cách, nên ngoại thương chưa thể phục 
hồi (trừ xuất khẩu lương thực và trang thiết bị y tế để chống dịch). Kinh tế nước ta 
có độ mở rất lớn, du lịch phát triển khá nhanh, nền kinh tế hướng nhiều cho xuất 
khẩu, kim ngạch xuất nhập khẩu khá lớn so với GDP, lại tiếp nhận thêm hàng tỉ 
USD kiều hối mỗi năm, nói chung, phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài, không 
sống tự cấp tự túc. 
NH ra đời để phục vụ nhu cầu kinh tế của xã hội, hoạt động NH khó tăng 
trưởng khi nhu cầu này ngưng trệ. Cơ sở kinh doanh đóng cửa – lúc đầu tạm nghỉ 
trong lúc giãn cách, sau đó, có thể nghỉ luôn vì kiệt quệ tài chính – dẫn đến những 
hệ quả kinh tế dây chuyền. Nhân viên bị thất nghiệp, mất thu nhập, ảnh hưởng đến 
đời sống của bình quân 04 người thân thuộc. Các hoạt động kinh tế khác phục vụ 
cho các cơ sở nọ đều bị vạ lây, tác động trực tiếp đến bản thân và gia đình của 
hàng triệu người lao động tham gia. Hiện tượng đình đốn này phổ biến và kéo 
dài được Kinh tế học gọi là suy thoái kinh tế, dù hiện tại, chính phủ các nước chưa 
dùng đến cụm từ này. 
2. THỰC TẾ KIỂM CHỨNG VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 
Ở Việt Nam, cho đến nay và thêm một thời gian nữa sau này, tín dụng luôn 
là hoạt động chủ lực thể hiện ở tỉ trọng áp đảo của dư nợ cho vay trong tổng tài 
sản và của thu nhập hạch toán trong tổng lợi nhuận hằng năm của NH. Điều này 
dẫn đến nhận thức sai về lí luận là tín dụng giữ vai trò cơ bản trong hoạt động NH 
nói chung. Mấy tháng qua, NH thừa nguồn vốn, lại thêm các gói hỗ trợ hàng 
nghìn tỉ đồng của chính phủ sẵn sàng cho vay với lãi suất thấp, nhưng NH rất khó 
đẩy dư nợ lên để kiếm lời. Doanh nghiệp (được hiểu theo nghĩa cơ sở kinh doanh 
ở mọi quy mô) tốt chỉ chịu đi vay khi nắm chắc khả năng trả nợ; họ chẳng muốn 
mang thêm tội quỵt tiền của NH khi tự biết đã hết đường kinh doanh. Ngược lại, 
NH cũng rất ngại giải ngân cho khách hàng sẵn sàng vay với bất cứ giá nào, mặc 
cho ngày mai ra sao, do sợ trách nhiệm phải đi xử lí nợ xấu gần như hiển nhiên. 
Việc cung cầu tín dụng không gặp nhau trên thị trường vốn, gần như đóng băng 
hoạt động tín dụng NH. Dù vậy, NH vẫn mở cửa thu lợi từ các hoạt động ngân 
quỹ và thanh toán. Cần nhận thức lại cho đúng rằng ngân quỹ và thanh toán mới là 
hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại (NHTM) để có đối sách đúng đắn. 
Hội thảo Khoa học 
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” 
80 
3. NGÂN HÀNG PHẢI ĐỐI MẶT VỚI NỢ XẤU VÀ NGUỒN VỐN 
BIẾN ĐỘNG 
Doanh nghiệp lao đao khó trả đúng hạn nợ gốc và lãi đã vay NH trước đây, 
dù được giải cứu qua các biện pháp miễn giảm lãi, khoanh nợ, giãn nợ, đảo nợ 
khiến nợ quá hạn có thể tạm thời chưa phát sinh trong hạch toán kế toán, nhưng, 
về rủi ro, đó đã là nợ đáng ngờ (doubtful debt). Việc cấu trúc lại nợ, trong thực 
tiễn, chưa bao giờ thành công 100%; nợ xấu sẽ xuất hiện ít hay nhiều với độ trễ 
nhất định khi qua hết thời gian giải cứu. NH cần trích lập dự phòng rủi ro khi còn 
có thể, để có nguồn sử dụng khi cần về sau. 
Dòng tiền tín dụng NH luôn vận hành theo nguyên lí T T’ = T + ΔT 
nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng cho nền kinh tế. ΔT giúp trả lãi vay và đảm 
bảo lợi nhuận cho người đi vay, trong đó, một phần sẽ quay lại NH dưới hình thức 
tiền gửi. Việc tín dụng ngưng vận hành theo chu kì này đã cắt đứt một phần nguồn 
vốn của NH. Người lao động mất việc làm, trước mắt, sẽ rút dần tiền tiết kiệm 
(thường được gửi NH) về trang trải cuộc sống. Người làm ăn, trái lại, do kinh 
doanh bị bế tắc, vốn không còn luân chuyển để tạo lợi nhuận, thường gửi tiền vào 
NH cho vừa an toàn vừa hưởng chút lãi tuy không bằng lợi tức kiếm được 
trước đây. 
4. NGÂN HÀNG LÀM GÌ KHI THỪA NGUỒN VỐN 
Cần xác định rõ là trong giai đoạn này, doanh nghiệp không làm ăn được để 
hấp thu nguồn vốn tín dụng NH chứ không phải do tổng cầu về vốn trong nền 
kinh tế quốc gia đã bão hòa, không cần vay tiền NH để phát triển nữa. Tổng cầu 
với tổng cầu có khả năng thanh toán là hai phạm trù khác nhau từ nội hàm đến 
giải pháp. 
Ở tầm vi mô, là một doanh nghiệp, NH xử lí tương quan cung cầu vốn tiền 
tệ theo cơ chế giá cả, bằng cách giảm lãi suất huy động để làm nản lòng người gửi 
tiền, giảm bớt áp lực dư thừa nguồn vốn khi chưa cho vay ra được. Tính toán dựa 
trên các báo cáo tài chính cuối năm 2019 của các NHTM, chúng tôi nhận thấy lãi 
suất huy động kì hạn 3 tháng giảm từ 5%/năm vào cuối năm 2019 xuống còn 
4,2%/ năm vào đầu tháng 08 năm 2020. Đây là số liệu bình quân trên thị trường; 
lãi suất của 04 NHTM gốc nhà nước (the big four) sẽ thấp hơn, trong khi các ngân 
hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) nhỏ yết mức lãi cao hơn gần 1%/năm cho 
cùng kì hạn. Trong hệ thống NH, mức chênh lệch này thôi thúc nhiều khách hàng 
đưa tiền sang gửi ở NH chào lãi suất cao khi điều kiện an toàn cùng chất lượng 
dịch vụ không mấy khác nhau vì họ luôn muốn kiếm nhiều lợi tức. Các NHTM 
gốc nhà nước không bao giờ dám chào lãi suất huy động cao hơn NHTMCP đến 
1%/năm nên khó thu hút lại khách hàng cũ đã bỏ đi. Một số NH bán trái phiếu 
trung dài hạn để vừa nâng lãi suất vừa cấu trúc lại nguồn vốn huy động của mình, 
nhưng khó thành công mĩ mãn vì nhiều người biết áp công thức chiết khấu dòng 
tiền để tính ra hiện giá thuần (NPV) của món đầu tư. Hơn nữa, kì hạn huy động 
Hội thảo Khoa học 
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” 
81 
trung dài hạn không thích hợp khi thị trường còn bất định. Tuy vậy, mấy người 
trường vốn vẫn sẵn sàng mua lượng lớn trái phiếu, để chờ lúc thuận tiện, đem cầm 
cố lại cho NH đổi lấy vốn kinh doanh. 
5. LÃI TIỀN GỬI KHÔNG CHỈ LÀ CHI PHÍ HUY ĐỘNG VỐN CỦA 
NGÂN HÀNG 
Lâu nay, người ta thường xem lãi tiền gửi là chi phí đầu vào của NH khi đi 
vay vốn. NH cộng vào đó khoản chênh lệch về chi phí điều hành cùng lợi nhuận 
của bản thân để thành lãi cho vay đầu ra. Ít ai nghĩ đến việc lãi tiền gửi sẽ hòa 
chung vào thu nhập hình thành nên ngân quỹ gia đình (family budget) của người 
gửi tiền để tham gia vào quá trình tái phân phối thu nhập trong xã hội. Hệ quả của 
việc ép lãi tiền gửi xuống, khó đo lường trong toàn bộ nền kinh tế quốc gia. 
Trước mắt, khi lãi tiền gửi NH không còn hấp dẫn, để đạt lợi tức tối đa, 
người dân tìm đến những kênh sinh lợi khác như mạo hiểm lướt sóng trên các thị 
trường vàng, chứng khoán, bất động sản. Thông tin báo chí gần đây nêu lên hậu 
quả xót xa của các trò chơi may ít rủi nhiều này, khi nhiều khoản tiền lớn tan biến 
vào các tay lừa đảo cùng các dao động thị trường, thay vì dành giúp xã hội sớm 
qua cơn đại dịch. Ở cấp vi mô, người dân tự quyết định và tự chịu trách nhiệm 
trên tài sản của bản thân theo quy luật giá trị; ở cấp vĩ mô lại là thiệt hại kép cho 
nền kinh tế – xã hội. Điều này, một phần do NH hiện chưa làm tốt chức năng của 
một định chế tài chính trung gian, cầu nối giữa hai cấp vi mô và vĩ mô. Trong tư 
cách này, NH phải có hướng xử lí tốt vốn tạm thời thừa/thiếu, tuyệt đối không đẩy 
khách hàng gửi/vay tiền ra đi, là những thân chủ hay ân nhân nuôi sống mình. NH 
phải chung thủy đồng cam cộng khổ với thân chủ của mình, không nên thấy 
thuyền chật thì đuổi bớt thân chủ xuống nước tự bơi tìm thuyền khác đi tiếp. Đại 
dịch làm tê liệt thương mại toàn cầu, nhưng thị trường vàng hay ngoại hối quốc tế 
vẫn sôi động, là sân chơi để các NH tham gia kiếm lời với nguồn tiền tập trung 
đang nắm giữ. Kinh tế nội địa ngưng trệ do giãn cách xã hội làm hụt nguồn thu, 
ngân sách nhà nước bội chi để chống dịch và cứu trợ xã hội có thể vay tạm nguồn 
vốn dư thừa của NH hầu giảm bớt áp lực lạm phát. Đây là các giải pháp cổ điển 
giúp NH giữ khách hàng gắn bó với mình, đa dạng hóa kinh doanh, hỗ trợ ngân 
sách nhà nước và giữ lửa cho thị trường tài chính trong nước. 
6. THÚC ĐẨY 04 NGÂN HÀNG LỚN TRONG NƯỚC ĐẢM BẢO HỆ 
SỐ CAR THEO CHUẨN BASEL 
Để NH hoạt động lành mạnh, an toàn, Hiệp ước Basel II định ra hệ số an 
toàn vốn (CAR) chuẩn là 9% (chuẩn theo Basel III là 10,5 – 13%) mà Việt Nam 
phải tuân thủ để hội nhập vào thế giới [1], [2]. Đến cuối năm 2019, hầu hết các 
NHTMCP đều báo cáo đã đạt chuẩn. Giữa năm 2020, Nhà nước mới chấp thuận 
cho 04 NHTM gốc nhà nước được tăng vốn điều lệ. Trong bối cảnh hiện nay, 
ngoài tăng vốn từ lợi nhuận không chia (có sẵn), không dễ gọi thêm vốn ngoài xã 
hội qua thị trường sơ cấp. Liệu ngân sách nhà nước đang bội chi nghiêm trọng, có 
Hội thảo Khoa học 
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” 
82 
thể cấp đủ vốn cho Agribank hay sẽ cấp bằng trái phiếu chính phủ có giá trị sau 
vài năm để có số liệu hạch toán và báo cáo. 
7. NGÂN HÀNG KHÓ XÁC ĐỊNH LÃI SUẤT HUY ĐỘNG VÀ CHO 
VAY HỢP LÍ 
NH ở các nước theo kinh tế thị trường xác định lãi suất của mình theo tương 
quan cung cầu vốn tức là xoay quanh lãi suất thị trường. Lãi suất NH cho vay ra 
phải < lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế vì người đi vay phải kiếm đủ lợi tức 
để đóng thuế, trả lãi vay, sinh sống được và có tích lũy. Lãi thu được từ cho vay 
phải đủ để NH trả lãi huy động vốn, trang trải chi phí điều hành, trích lập dự 
phòng, đóng thuế và có lợi nhuận riêng. Đây là hai ràng buộc khống chế trong 
kinh doanh tiền tệ. Rất khó tính ra lợi nhuận bình quân trong toàn nền kinh tế, 
nhưng ngành thống kê dễ tính được lợi nhuận bình quân của từng ngành hoạt 
động cụ thể. 
Nước ta chưa theo cơ chế thị trường hoàn hảo, NHTM xây dựng lãi suất 
theo hướng dẫn của NH nhà nước Việt Nam trong từng thời kì và thường bị khách 
hàng kêu ca. Hoàn cảnh hiện tại đòi hỏi NH giảm lãi suất cho vay để giúp khách 
hàng vượt khó về kinh tế, nhưng khó xác định là giảm đến đâu cho hợp lí. NH 
chuyên đi vay vốn để cho vay lại nên khó huy động vốn với lãi suất thấp. Do lịch 
sử để lại, bình thường lượng tiền gửi thanh toán phi giá ở các NH trong nước khá 
thấp so với lượng tiền gửi tiết kiệm, chưa nói đến hoạt động thương mại ngưng trệ 
do dịch bệnh hạn chế nguồn vốn trong thanh toán và huy động từ nền kinh tế. 
Trước yêu cầu vực doanh nghiệp dậy, NH thường giảm lãi suất huy động để 
giảm lãi suất cho vay, tức là ép người gửi tiền san sẻ khó khăn của người vay, nên 
báo chí hay phàn nàn là NH “lãi khủng” trong khi kinh tế điêu đứng vì lãi cao. 
Đến cuối tháng 07 vừa qua, NH nhà nước Việt Nam mới chỉ thị là NHTM phải tự 
tiết giảm chi phí để giảm lãi cho vay thay vì chỉ rõ là phải thu hẹp chênh lệch 
(spread) giữa lãi suất đầu vào – đầu ra. NH đang tính cắt giảm chi phí điều hành – 
chủ yếu là giảm lương nhân viên và giảm trích lập dự phòng rủi ro – để bảo đảm 
chia cổ tức vào cuối năm theo hành xử của doanh nghiệp ở góc vi mô là chạy theo 
lợi nhuận. Thật ra, với tiềm lực tài chính còn hạn chế, dù hi sinh lợi ích riêng cho 
công bằng xã hội, NH cũng chỉ góp phần nhỏ trong nhất thời. Về lâu dài, Nhà 
nước phải hành động ở tầm vĩ mô qua nghiệp vụ tái chiết khấu (ở các nước) hay 
tái cấp vốn (ở Việt Nam) theo chính sách nới lỏng tiền tệ để định hướng hệ thống 
NH. Giảm quỹ dự trữ bắt buộc cho các NH cũng là giải pháp được cân nhắc. 
Trong điều hành vĩ mô, Nhà nước phải nhắm đến lợi ích của toàn xã hội thay vì 
chi li lời lỗ trong từng thương vụ. 
8. TRANH THỦ ĐẨY MẠNH CÁC NGHIỆP VỤ THANH TOÁN ĐIỆN 
TỬ TRONG NGÂN HÀNG. 
Trong thời kì dịch bệnh chưa có thuốc đặc trị và chủng ngừa, người dân lo 
sợ giấy bạc đang lưu hành có thể lây truyền mầm bệnh trong cộng đồng. Xác tin 
Hội thảo Khoa học 
“Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” 
83 
này làm thay đổi hẳn thói quen lâu đời thích dùng tiền mặt, điều mà nhà nước ra 
sức cổ xúy vô vọng trong suốt mấy thập niên. Bệnh dịch và công nghệ 4.0 tạo cơ 
hội vàng cho NH đẩy mạnh thanh toán điện tử nhằm đa dạng hóa các dịch vụ phi 
tín dụng truyền thống với số khách dùng gia tăng phi mã. Bây giờ là thời đại của 
Internet Banking (ngồi tại chỗ giao dịch qua Internet tránh tiếp xúc) theo yêu cầu 
giãn cách xã hội, của quét mã QR qua điện thoại thông minh, của thẻ nhựa tích 
hợp nhiều chức năng để thanh toán không chạm tay đặt ra ưu tiên bảo vệ thông 
tin cá nhân. Nhược điểm lớn là pháp luật chưa theo kịp tiến bộ công nghệ để tạo 
hành lang pháp lí an toàn cho hoạt động NH, đồng thời bảo vệ hữu hiệu quyền lợi 
chính đáng của người dùng, khi các nhà lập pháp chưa có động thái gì để tiếp cận 
vấn đề. Chỉ trong nay mai, kẻ gian sẽ tranh thủ khoảng trống này để trục lợi, gây 
thiệt hại cho người dùng, cho nền kinh tế và cho xã hội. Trước mắt, người dùng 
gặp thêm rủi ro bị giật điện thoại khi phải luôn cầm trên tay. Thẻ NH tuy thông 
dụng hơn 20 năm qua, nhưng, pháp luật vẫn chưa xử lí nhanh và ổn thỏa các tranh 
chấp giữa chủ thẻ với NH phát hành về số tiền lớn biến mất khó hiểu. Luật pháp 
nước ta xem đây là án dân sự, nguyên đơn phải chứng minh là bị đơn có lỗi – điều 
không dễ. Nếu không kịp thời chấn chỉnh tốt, các bài học trên sẽ lặp lại với dạng 
thanh toán mới, tất nhiên với mức độ lớn hơn trước, gây thiệt hại không đáng có. 
9. KẾT LUẬN 
Bài viết kết thúc với các kiến nghị cùng ngành ngân hàng như sau: 
 Nhận thức lại cho đúng về vai trò của tín dụng trong hoạt động NH. Khi 
tín dụng bị đóng băng do dịch bệnh, NH vẫn hoạt động với các mảng nghiệp vụ 
khác dù doanh số giảm mạnh. 
 Trích lập đủ dự phòng rủi ro khi còn có thể làm để đối phó với nợ xấu sẽ 
tăng mạnh trong nay mai. 
 Xem lại việc tiếp tục ép giảm lãi suất tiền gửi NH vì lợi có thể bất cập hại 
cho nền kinh tế. 
 Cần nâng vốn điều lệ cho các NHTM hoạt động tốt hơn nhưng e là khó 
thực hiện trong lúc này. 
 Tranh thủ cơ hội vàng để đẩy mạnh thanh toán điện tử trong NH cùng với 
việc khẩn trương xây dựng hành lang pháp lí kín kẽ cho dịch vụ này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. Hiệp ước Basel II. 2004. 
[2]. Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. Hiệp ước Basel III. 2017. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_nhan_xet_ve_tinh_hinh_ngan_hang_o_viet_nam_trong_nam.pdf