Một số ngoại ký sinh trùng ký sinh trên ghẹ ba chấm (portunus sanguinolentus herbst, 1783) thu tại vùng biển Khánh Hòa
Ghẹ ba chấm (Portunus sanguinolentus Herbst, 1783) là loài có phân bố rộng,
có giá trị kinh tế và sinh thái quan trọng ở nhiều quốc gia trong khu vực châu Á [1].
Ở Việt Nam, ghẹ ba chấm được bắt gặp ở các vùng biển ven bờ từ bắc vào nam và
thường được đánh bắt bằng lưới dầm [2]. Tại Khánh Hòa, mặc dù chưa có số liệu cụ
thể về sản lượng đánh bắt, nhưng ghẹ ba chấm cùng với cua xanh, ghẹ xanh. là
nhóm hải sản phổ biến, được nhiều người dân và khách du lịch ưa thích.
Nghiên cứu về các loài ngoại ký sinh và tác hại của chúng đối với ghẹ ba chấm
đã được thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới như: Trung Quốc [1, 3], Đài Loan,
Australia [4], Ấn Độ [5]. Các loài ngoại ký sinh lấy dưỡng chất từ cơ thể hoặc trứng
của vật chủ, chiếm không gian trong khoang mang hoặc bám quanh các khớp vận
động của ghẹ. Chúng còn sử dụng lớp vỏ giáp cứng phía ngoài của vật chủ để làm lá
chắn bảo vệ. Khi ngoại ký sinh phát triển với số lượng lớn, chúng gây khó khăn cho
hệ vận động, hô hấp, sinh trưởng, phát triển và thậm chí gây chết cho vật chủ [6, 7].
Tại Việt Nam, đã có một số công trình đề cập đến thành phần các loài ngoại ký
sinh trên cua nuôi [8], ghẹ xanh [8÷11]. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào thực
hiện trên ghẹ ba chấm. Nghiên cứu này nhằm xác định thành phần loài và vị trí ký
sinh của các loài ngoại ký sinh, đánh giá mức độ nhiễm thông qua số liệu về tỷ lệ và
cường độ nhiễm của chúng trên ghẹ ba chấm tại Khánh Hòa. Một số phép thống kê
đã được sử dụng để so sánh mức độ nhiễm giữa ghẹ đực và ghẹ cái, giữa các nhóm
ghẹ có kích thước khác nhau. Kết quả nghiên cứu giúp bổ sung thêm những thông
tin về hệ động vật ký sinh trên cua, ghẹ tại Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số ngoại ký sinh trùng ký sinh trên ghẹ ba chấm (portunus sanguinolentus herbst, 1783) thu tại vùng biển Khánh Hòa
Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 17, 12 - 2018 28 MỘT SỐ NGOẠI KÝ SINH TRÙNG KÝ SINH TRÊN GHẸ BA CHẤM (Portunus sanguinolentus Herbst, 1783) THU TẠI VÙNG BIỂN KHÁNH HÒA LÊ THỊ KIỀU OANH, VÕ THỊ HÀ, NGUYỄN THỊ HẢI THANH 1. MỞ ĐẦU Ghẹ ba chấm (Portunus sanguinolentus Herbst, 1783) là loài có phân bố rộng, có giá trị kinh tế và sinh thái quan trọng ở nhiều quốc gia trong khu vực châu Á [1]. Ở Việt Nam, ghẹ ba chấm được bắt gặp ở các vùng biển ven bờ từ bắc vào nam và thường được đánh bắt bằng lưới dầm [2]. Tại Khánh Hòa, mặc dù chưa có số liệu cụ thể về sản lượng đánh bắt, nhưng ghẹ ba chấm cùng với cua xanh, ghẹ xanh... là nhóm hải sản phổ biến, được nhiều người dân và khách du lịch ưa thích. Nghiên cứu về các loài ngoại ký sinh và tác hại của chúng đối với ghẹ ba chấm đã được thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới như: Trung Quốc [1, 3], Đài Loan, Australia [4], Ấn Độ [5]. Các loài ngoại ký sinh lấy dưỡng chất từ cơ thể hoặc trứng của vật chủ, chiếm không gian trong khoang mang hoặc bám quanh các khớp vận động của ghẹ. Chúng còn sử dụng lớp vỏ giáp cứng phía ngoài của vật chủ để làm lá chắn bảo vệ. Khi ngoại ký sinh phát triển với số lượng lớn, chúng gây khó khăn cho hệ vận động, hô hấp, sinh trưởng, phát triển và thậm chí gây chết cho vật chủ [6, 7]. Tại Việt Nam, đã có một số công trình đề cập đến thành phần các loài ngoại ký sinh trên cua nuôi [8], ghẹ xanh [8÷11]. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào thực hiện trên ghẹ ba chấm. Nghiên cứu này nhằm xác định thành phần loài và vị trí ký sinh của các loài ngoại ký sinh, đánh giá mức độ nhiễm thông qua số liệu về tỷ lệ và cường độ nhiễm của chúng trên ghẹ ba chấm tại Khánh Hòa. Một số phép thống kê đã được sử dụng để so sánh mức độ nhiễm giữa ghẹ đực và ghẹ cái, giữa các nhóm ghẹ có kích thước khác nhau. Kết quả nghiên cứu giúp bổ sung thêm những thông tin về hệ động vật ký sinh trên cua, ghẹ tại Việt Nam. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu và đối tượng nghiên cứu Vật liệu nghiên cứu: Loài ghẹ ba chấm (Portunus sanguinolentus Herbst, 1783) thu tại Khánh Hòa. Đối tượng nghiên cứu: Các loài ngoại ký sinh trùng ký sinh trên ghẹ ba chấm. 2.2. Phương pháp nghiên cứu * Thu và xử lý mẫu ghẹ ba chấm 477 cá thể ghẹ ba chấm được mua trực tiếp từ những ngư dân đánh bắt ở vùng biển Khánh Hòa trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 9 năm 2018. Ghẹ nghiên cứu được thu tương đối đồng đều về số lượng đực, cái và từng nhóm kích thước trong mỗi lần thu mẫu. Các mẫu ghẹ sống được chuyển về phòng thí nghiệm để kiểm tra phát hiện và thu thập ngoại ký sinh trùng ngay trong ngày thu mẫu, ngay khi ghẹ còn sống. Số lượng mẫu ghẹ theo giới tính và kích thước được thể hiện trong bảng 1. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 17, 12 - 2018 29 Giới tính ghẹ được xác định dựa vào hình dạng yếm. Trong nghiên cứu này, kích thước của ghẹ là chiều rộng mai ghẹ, được xác định bằng cách đo khoảng cách giữa hai đỉnh của hai gai số 9 trên mai ghẹ, dụng cụ đo là thước gỗ có độ chính xác ± 0,1mm [1]. Để khảo sát tình trạng nhiễm ký sinh theo kích thước vật chủ, ghẹ ba chấm được chia thành 5 nhóm kích thước bao gồm: nhóm < 60mm, 60 - 79mm, 80 - 99mm, 100 - 119mm và nhóm ≥ 120mm. Bảng 1. Số lượng ghẹ nghiên cứu theo giới tính và kích thước Giới tính ghẹ nghiên cứu Số lượng ghẹ theo giới tính Số lượng ghẹ nghiên cứu theo kích thước (mm) <60 60-79 80-99 100-119 ≥120 Ghẹ đực 235 48 50 56 54 27 Ghẹ cái không ôm trứng 96 48 41 46 41 20 Ghẹ cái ôm trứng 46 0 11 15 13 7 Tổng 477 96 102 117 108 54 * Thu và định loại ngoại ký sinh Toàn bộ mặt ngoài của cơ thể ghẹ được quan sát bằng mắt thường hoặc dưới kính soi nổi Olympus SZ61. Sau đó, phần mai được tách ra để quan sát được bên trong khoang mang. Các bộ phận: yếm, miệng, mắt, râu và mang được tách riêng, cho vào các đĩa petri có chứa nước biển và quan sát dưới kính soi nổi Olympus SZ61. Ở mỗi công đoạn, khi ngoại ký sinh được phát hiện, dùng nhíp hoặc pipet paster để tách chúng ra khỏi vật chủ, đặt trong đĩa petri có nước biển, đếm và ghi nhận vị trí ký sinh. Các loài ngoại ký sinh trùng được định loại dựa theo đặc điểm hình thái. Trong đó, ký sinh trùng thuộc giống Vorticella được định danh theo Hà Ký và Bùi Quang Tề, giống Carcinomemertes định danh theo Humes, các loài thuộc giống Octolasmis được định danh theo Jeffries và cộng sự, loài Diplothylacus sinensis định danh theo Lützen và cộng sự, Choniosphaera indica định danh theo Gnanamuthu. * Phân tích số liệu và xử lý hình ảnh Tỷ lệ nhiễm một loài ngoại ký sinh là phần trăm số cá thể ghẹ bị nhiễm loài ký sinh đó trên tổng số ghẹ nghiên cứu. Cường độ nhiễm một loài ngoại ký sinh là số cá thể loài đó trên cá thể ghẹ bị nhiễm [17]. Vì các loài ngoại ký sinh nhiễm trên ghẹ nghiên cứu không tuân theo luật phân phối chuẩn nên số liệu được xử lý dựa vào các phép kiểm định phi tham số theo Zar J. H. [18] bằng phần mềm SPSS (20) và Microsoft Excel (2013). Trong đó, kiểm định Chi bình phương được sử dụng để so sánh tỷ lệ nhiễm ngoại ký sinh giữa ghẹ Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 17, 12 - 2018 30 đực và ghẹ cái, giữa ghẹ thuộc các nhóm kích thước khác nhau; kiểm định Mann - Whitney để so sánh trung vị cường độ nhiễm giữa 2 nhóm ghẹ (ghẹ đực với ghẹ cái); kiểm định Kruskal - Wallis để so sánh trung vị cường độ nhiễm của nhiều hơn hai nhóm ghẹ (5 nhóm ghẹ có kích thước khác nhau). Mối tương quan giữa kích thước ghẹ ba chấm với tỷ lệ và cường độ nhiễm mỗi loài ngoại ký sinh được xác định bằng kiểm định Spearman’s correlation. Mức độ ý nghĩa của các phép phân tích thống kê là P = 0,05. Ảnh chụp mẫu ghẹ và các loài ngoại ký sinh được xử lý bằng phần mềm Photofilter (7). 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Thành phần, vị trí ký sinh của các loài ngoạ ... èo C. indica chỉ gặp ký sinh ở trên khối trứng đã thụ tinh của ghẹ cái. Ngoài ra, so sánh mức độ nhiễm của các loài ngoại ký sinh ở 2 nhóm ghẹ đực và cái đã cho thấy có 2 loài giáp xác chân tơ Octolasmis tridens và Octolasmis neptuni có tỷ lệ nhiễm ở nhóm ghẹ cái cao hơn có ý nghĩa so với nhóm ghẹ đực (lần lượt là χ2 = 6,787, df = 1, P = 0,01 và χ2 = 10,965, df = 1, P = 0,001), cường độ nhiễm Carcinonemertes sp. ở ghẹ cái cũng cao hơn ghẹ đực (Mann- whitney, U = 785,5, P = 0,018). Các loài còn lại không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ và cường độ nhiễm theo giới tính ghẹ (P > 0.05) Kết quả nghiên cứu về mức độ nhiễm ngoại ký sinh ở ghẹ thuộc 5 nhóm kích thước cho thấy, nhóm ghẹ <60mm chỉ nhiễm loài O. angulata với tỷ lệ 35,32% và cường độ nhiễm là 5 cá thể/ghẹ nhiễm. Nhóm 60-79mm nhiễm 7 loài gồm 6 loài giáp xác và loài trùng lông Vorticella sp., 3 nhóm còn lại nhiễm cả 10 loài ngoại ký sinh (bảng 3). Như vậy, số lượng loài ngoại ký sinh trùng tìm thấy trên ghẹ thu ở vùng biển Khánh Hòa có sự biến động theo kích thước của vật chủ, ghẹ có kích thước lớn bị nhiễm nhiều loài ký sinh trùng hơn so với ghẹ nhỏ. Phân tích thống kê ghi nhận được mối tương quan dương lớn giữa tỷ lệ nhiễm O. tridens với kích thước ghẹ (Spearman corelation test, rs = 0,975, N = 4, P = 0,025). Như vậy khi ghẹ có kích thước càng lớn, tỷ lệ nhiễm O. tridens càng cao. Đối với O. angulata, dù không tương quan nhưng những so sánh thống kê cho thấy có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ nhiễm giữa các nhóm ghẹ khác nhau về kích thước (χ2 = 225,653, df = 4, P = 0,001). Đối với 3 nhóm ghẹ <60 mm, 60-79 mm và 80-99 mm, tỷ lệ nhiễm O. angulata tăng dần từ 35,42 đến 98,29%. 100% ghẹ có chiều rộng mai từ 100mm trở lên đều bị nhiễm loài ngoại ký sinh này (bảng 3). Ngoài hai loài vừa nêu, tỷ lệ nhiễm của các loài còn lại không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm ghẹ có kích thước khác nhau. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 17, 12 - 2018 34 Bảng 3. Tỷ lệ và trung vị cường độ nhiễm các loài ngoại ký sinh theo giới tính và kích thước ghẹ ba chấm tại Khánh Hòa Loài ký sinh Giới tính vật chủ (n=477) Kích thước vật chủ Đực (n=235) Cái (n=242) <60mm (n=96) 60- 79mm (n=102) 80-99mm (n=117) 100- 119mm (n=108) ≥120mm (n=54) Tỷ lệ nhiễm (%) Trung vị cường độ nhiễm Cường độ nhiễm nhỏ nhất : cường độ nhiễm lớn nhất Vorticella sp. 2,98 66 4:82 2,48 46 8 : 48 - 0,21 16 3,42 53 8 : 82 4,63 4 4 : 70 5,56 80 60 : 148 Loxosomella sp. 1,70 1 1 : 2 2,07 3 1 : 15 - - 3,42 2 1 : 3 3,70 1 1 : 2 1,85 15 Turbellaria 2,98 1 1 : 1 2,07 1 1 : 2 - - 3,42 1,5 1 : 2 3,70 1 1 : 1 7,41 1 1 : 1 Carcinonemertes sp. 17,02 8x 1 : 48 22,73 16y 1 : 79 - - 28,21 8 1 : 79 36,11 9 1 : 63 38,89 21 1 : 48 Octolasmis angulata 83,83 18 1 : 544 85,12 23 1 : 714 35,42a 5 1 : 57 90,20b 10 1 : 72 98,29c 19 2 : 203 100c 24,5 4 : 714 100c 44 6 : 295 Octolasmis warwickii 4,26 8 1 : 16 7,44 9 1 : 196 - 0,63 16 2 : 196 6,84 7,5 1 : 13 10,19 3 1 : 186 11,11 11,5 7 : 37 Octolasmis tridens 10,64a 4 2 : 16 18,18b 4 1 : 32 - 0,63 2 1 : 2 13,68 2,5 1 : 15 29,63 6 2 : 32 33,33 10 2 : 30 Octolasmis neptuni 0,43a 4 4 : 4 5,37b 3 1 : 7 - 0,21 1 4,27 3 1 : 7 3,70 5 1 : 6 7,41 3 3 : 3 Diplothylacus sinensis 2,98 36 3 : 130 3,31 78,5 16 : 900 - 0,42 49 16 : 82 5,13 43 3 : 143 4,63 75 14 : 900 3,70 75,5 36 : 115 Choniosphaera indica - 43,48 (20/46) 73 16 : 514 - 18,18 51 41 : 61 53,33 54,5 16 : 137 53,85 87 40 : 541 42,86 75 71 : 82 Ghi chú: Các giá trị trong cùng một hàng, theo giới tính hoặc kích thước có ký tự chữ giống nhau thể hiện sự khác biệt không có ý nghĩa thống kể (P > 0,05). Những nhóm có 1 cá thể ghẹ nhiễm không thể hiện min : max Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 17, 12 - 2018 35 Phân tích tương quan giữa cường độ nhiễm ngoại ký sinh và kích thước của ghẹ nghiên cứu cho thấy có mối tương quan dương giữa cường độ nhiễm loài O. angulata và O. tridens với kích thước vật chủ, hệ số tương quan ở mức trung bình (lần lượt là Spearman corelation test, rs = 0,358, N = 403, P = 0,001 và rs = 0,382, N = 69, P =0,001). Các loài còn lại phân bố ngẫu nhiên, không có tương quan hoặc sự khác biệt về cường độ nhiễm ở các nhóm kích thước của vật chủ không có ý nghĩa Trong số các loài ngoại ký sinh trên ghẹ ba chấm, loài O. angulata có tỷ lệ nhiễm (84,49%) và trung vị cường độ nhiễm (20 cá thể/ ghẹ nhiễm) khá cao. Loài này ký sinh trên cả ghẹ đực và ghẹ cái và trên tất cả các nhóm ghẹ có kích thước khác nhau. Mức độ nhiễm O. angulata tăng dần theo kích thước ghẹ nghiên cứu. Điều này cho thấy, ghẹ ba chấm có thể là vật chủ lý tưởng của O. angulata. Nghiên cứu của nhóm tác giả đã ghi nhận tỷ lệ nhiễm ở các loài O. tridens, O. neptuni và cường độ nhiễm Carcinonemertes sp. ở ghẹ cái cao hơn đáng kể so với ghẹ đực. Nguyên nhân có thể do ghẹ cái có thời gian giữa các lần lột lâu hơn ghẹ đực, tạo điều kiện cho một số ngoại ký sinh xâm nhập và phát triển. Hơn nữa ghẹ cái thường di chuyển đến những vùng biển sâu, nơi có độ mặn cao hơn và cũng là nơi có nhiều thức ăn phù hợp với ấu trùng ghẹ, đó có thể là cơ hội cho các loài ưa độ mặn cao [19]. Ngoài ra, ghẹ cái có mang trứng trong thời gian sinh sản nên sẽ thu hút các loài ngoại ký sinh như C. indica và Carcinonemertes sp. hơn ghẹ đực. Kết quả nghiên cứu về loài D. sinensis ký sinh trên ghẹ ba chấm tại vịnh Honghai Trung Quốc cho thấy tỷ nhiễm D. sinensis không có khác biệt có ý nghĩa giữa ghẹ đực (26%) và ghẹ cái (26,8%) [1]. Trong nghiên cứu của nhóm tác giả, mặc dù tỷ lệ nhiễm D. sinensis thấp hơn (3,14%) nhưng cũng không có sự khác biệt đáng kể giữa ghẹ có giới tính khác nhau. Nghiên cứu của Li và cộng sự (2014) ghi nhận mối tương quan lớn giữa tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm trung bình của O. bullata với kích thước của vật chủ. Nghiên cứu của nhóm tác giả cũng phát hiện mối tương quan dương về mức độ nhiễm loài O. angulata và O. tridens theo kích thước ghẹ. Nguyên nhân có thể do khi ghẹ có kích thước càng lớn, thời gian giữa các lần lột xác càng dài, là điều kiện thuận lợi cho một số loài ngoại ký sinh xâm nhập, phát triển. Đối với các loài O. warwickii, O. neptuni, D. sinensis, Turbellaria, Loxosomella sp. và Vorticella sp. có thể do tỷ lệ nhiễm thấp (từ 1,89 đến 5,87%), nên không ghi nhận được sự khác biệt về mức độ nhiễm ở các nhóm kích thước của ghẹ. 4. KẾT LUẬN Nghiên cứu trên 477 cá thể ghẹ ba chấm Portunus sanguinolentus tại Khánh Hòa đã phát hiện 10 loài ngoại ký sinh đó là: Octolasmis angulata, O. tridens, O. warwickii, O. neptuni, Diplothylacus sinensis, Choniosphaera indica, Carcinonemertes sp., 1 loài thuộc lớp Turbellaria, Loxosomella sp. và Vorticella sp.. Trong đó có 5 loài lần đầu tiên được ghi nhận trên vật chủ này gồm: O. neptuni, Carcinonemertes sp., loài thuộc lớp Turbellaria, Loxosomella sp. và Vorticella sp. Có 15,3% số mẫu hoàn toàn không nhiễm ngoại ký sinh trùng, số mẫu còn lại đã phát hiện nhiễm từ 1 đến 5 loài ký sinh trùng trên mỗi mẫu ghẹ. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 17, 12 - 2018 36 Trong số các ký sinh trùng đã phát hiện được, loài giáp xác chân tơ O. angulata có tỷ lệ nhiễm lên tới 84,49% và cường độ nhiễm dao động từ 1 đến 544 cá thể/ghẹ nhiễm, đây là loài ký sinh trùng phổ biến nhất trên ghẹ ba chấm ở vùng biển Khánh Hòa. Ngoài ra, loài giáp xác Choniosphaera indica chỉ gặp ký sinh trên khối trứng đã thụ tinh của ghẹ cái và một số loài ký sinh trùng khác như: giun vòi Carcinonemertes sp và 2 loài giáp xác chân tơ O. tridens, O. neptuni có tỷ lệ và cường độ nhiễm ở ghẹ cái cao hơn so với ghẹ đực. Ghẹ có kích thước lớn bị nhiễm nhiều loài ký sinh trùng hơn so với ghẹ nhỏ. Tỷ lệ và cường độ nhiễm loài O. angulata và O. tridens tăng dần theo kích thước vật chủ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Yang C.P., Li H.X., Li L., Yan Y., Occurence and effects of the Rhizocephalan parasite Diplothylacus sinensis (Cirripedia: Rhizocephala: Thomsoniidae) in the swimming crab Portunus sanguinolentus (Decapoda: Portunidae) in Honghai Bay, East sea, Journal of Crustacean Biology, 2014, 34(5):573-580. 2. Lê Thị Thu Huệ, Nguyễn Văn Chung, Thành phần loài họ cua bơi Portunidae ở vùng biển Khánh Hòa, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Huế, 2009, 4:43-48. 3. Li H.X., Ma L.S., Yan Y., Yang C.P., Lin C.X., First records of the epizoic barnacle Octolasmis bullata (Cirripedia: Thoracica: Poecilasmatidae) on the swimming crab Portunus sanguinolentus (Decapoda : Portunidae), Journal of Crustacean Biology, 2014, 34(1):76-81. 4. Jeffries W.B., Voris H.K., Chang M.Y., Diversity and distribution of the pedunculate barnacle Octolasmis in the seas adjacent to Singapore, Journal of Crustacean Biology, 1982, 2(4):562-569. 5. Kumaravel K., Ravichandran S., Rameshkumar G., Distribution of barnacle Octolasmis on the gill region of some edible crabs, Academic Journal of Entomology, 2009, 2:36-39. 6. Glenner H., Cypris metamorphosis, injection and earliest internal development of the rhizocephalan Loxothylacus panopaei (Gissler). Crustacea: Cirripedia: Rhizocephala: Sacculinidae, Journal of Morphology, 2001, 249:43-75. 7. Tan A.N., Christianus A., Satar M.K.A., Epibiont Infestation on Horseshoe Crab Tachypleus gigas (Müller) at Pantai Balok in Peninsular Malaysia, Our Nature, 2011, 9:9-15. 8. Lê Văn Yên, Nghiên cứu một số bệnh thường gặp trên các loại cua nuôi phổ biến và ghẹ Portunus pelagicus, các biện pháp phòng trị, Báo cáo đề tài cấp bộ, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III, 2006, tr.31-54. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 17, 12 - 2018 37 9. Võ Thế Dũng, Glenn A.B., Phạm Nguyễn Hậu, Nguyễn Thị Hồng Tuyên, Một số ký sinh trùng ký sinh ở Ghẹ xanh (Portunus pelagicus Linaeus, 1766) đánh bắt tại vùng biển Khánh Hòa, Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy Sản - Trường Đại học Nha Trang, 2013, 3:11-15. 10. Lê Thị Kiều Oanh, Trần Quang Sáng, Đặng Thúy Bình, Khảo sát tình trạng nhiễm giáp xác chân tơ Octolasmis warwickii ngoại ký sinh trên ghẹ xanh Portunus pelagicus ở vùng biển Khánh Hòa và Phú Yên, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nhiệt đới, 2018, 15:34-41. 11. Lê Thị Kiều Oanh, Trần Quang Sáng, Đặng Thúy Bình, Tình trạng nhiễm giáp xác chân tơ giống Octolasmis trên ghẹ xanh (Portunus pelagicus Linnaeus, 1758) tại tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam, Tạp chí Phòng chống Bệnh Sốt rét và các Bệnh Ký sinh trùng, 2018, 2(104):93-98. 12. Hà Ký, Bùi Quang Tề, Ký sinh trùng cá nước ngọt Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2007. 13. Humes. A.G., The Morphology, Taxanomy and Bionomic of Nemertean Genus Carcinonemertes, The University of Illinois Press, 1942. 14. Jeffries W.B., Voris H.K., Naiyanetr P., Panha S., Pedunculate Barnacles of the Symbiotic Genus Octolasmis (Cirripedia : Thoracica: Poecilasmatidae) from the Northern Gulf of Thailand, The Natural History Journal of Chulalongkorn University, 2005, 5:9-13. 15. Lützen J., Jespersenand A., Høeg J.T., Spermatogonia implantation by antennular penetration in the akentrogonid rhizocephalan Diplothylacus sinensis (Keppen, 1877) (Crustacea: Cirripedia), Zoologischer Anzeiger, 1996, 234:201-207. 16. Gnanamuthu C.P., Choniosphaera indica, a copepod parasitic on the crab Neptunus sp., Journal of Parasitology, 1954, 44(3-4):371-3786. 17. Bush A.O., Lafferty K.D., Lotz J.M., Shostak A.W, Parasitology meets ecology on its own terms: Margolis et al. revisited, Journal of Parasitology, 1997, 83(4):575-583. 18. Zar J.H., Biostatistical analysis, Prentice Hall, New Jersey, 1996, 662 p. 19. Rasheed S., Mustaquim J., Size at sexual maturity, breeding season and fecundity of three-spot swimming crab Portunus sanguinolentus (Herbst, 1783) (Decapoda, Brachyura, Portunidae) occurring in the coastal waters of Karachi, Pakistan, Fisheries Research, 2010, 103:56-62. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 17, 12 - 2018 38 SUMMARY SOME ECTOPARASITES ON THREE-SPOT SWIMMING CRAB (Portunus sanguinolentus, Herbst 1783) IN KHÁNH HÒA PROVINCE This article presents the diversity, infected sites and status of ectoparasites on three-spot swimming crabs (Portunus sanguinolentus Herbst, 1783) in Khánh Hòa province. Observed 10 epibiont species; of these, 5 species were reported in the first time: O. neptuni, Carcinonemertes sp., 1 species of class Turbellaria, Loxosomella sp. and Vorticella sp.. Each crab infected maximum 5 species of parasites. O. angulata was the dominant species because of its prevalence was the highest (84,49%) and rather high medium intensity (20 O. angulata/infected crab) in the comparation with orther species; furthermore, 100% 100mm or more in size crabs were all infected by O. angulata. The prevalences of O. tridens and O. neptuni and intensity of infection with Carcinonemertes sp. of female were significantly higher than male’s. There were the positive correlations between infected prevalence of O. tridens, infected intensity of O. angulata and O. tridens with the size of the hosts. Keywords: Portunus sanguinolentus, Octolasmis, ectoparasites, prevalence, intensity, ghẹ ba chấm Portunus sanguinolentus, ngoại ký sinh, tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm. Nhận bài ngày 08 tháng 11 năm 2018 Phản biện xong ngày 22 tháng 12 năm 2018 Hoàn thiện ngày 26 tháng 12 năm 2018 Chi nhánh Ven Biển, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga
File đính kèm:
- mot_so_ngoai_ky_sinh_trung_ky_sinh_tren_ghe_ba_cham_portunus.pdf