Mô bệnh học của carcinôm vòm hầu mối tương quan với đặc điểm lâm sàng và biểu hiện Lmp1
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ mô bệnh học của Carcinôm vòm hầu (Nasopharyngeal Carcinoma, NPC)
theo phân loại Tổ chức Y tế Thế giới 2017 (World Health Organization, WHO 2017), tương quan với đặc
điểm lâm sàng và biểu hiện protêin màng 1 của EBV (Epstein–Barr virus latent membrane protein 1,
LMP1).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 80 trường hợp được chẩn đoán NPC
bằng mẫu nội soi sinh thiết ở bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) từ 01/06/2018 đến
31/12/2019.
Kết quả: Loại mô bệnh học không sừng hóa (Non Keratinizing Squamous Cell Carcinoma, NKSCC)
chiếm tỷ lệ cao nhất 97,5% trong đó kiểu hình biệt hóa (Differentiated Non Keratinizing Squamous Cell
Carcinoma, DNKSCC) chiếm 46,25% và kiểu hình không biệt hóa (Undifferentiated Non Keratinizing
Squamous Cell Carcinoma, UNKSCC) chiếm 51,25%, loại mô bệnh học gai sừng hóa (Keratinizing
Squamous Cell Carcinoma, KSCC) chiếm 2,5% và không ghi nhận được loại mô bệnh học gai dạng đáy
(Basaloid Squamous Cell Carcinoma, BSCC). Nhóm ≤ 40 tuổi có tỷ lệ UNKSCC (76,47%) cao hơn nhiều
so với tỷ lệ DNKSCC (23,53%) bên cạnh đó nhóm >40 tuổi có tỷ lệ DNKSCC (54,1%) nhiều hơn so với tỷ
lệ UNKSCC (45,9%) (p = 0,03). Biểu hiện LMP1 (+) nhóm DNKSCC (18 trường hợp, 66,67%) có tỷ lệ cao
hơn so với biểu hiện LMP1 (+) nhóm UNKSCC (9 trường hợp, 33,33%), trong khi đó biểu hiện LMP1 (–)
nhóm UNKSCC (29 trường hợp, 64,44%) có tỷ lệ cao hơn so với biểu hiện LMP1 (–) nhóm DNKSCC (16
trường hợp, 35,56%) (p = 0,01).
Kết luận: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi không chứng minh được mô bệnh học Carcinôm vòm hầu
có tương quan với tuổi và giai đoạn TNM. Mối tương quan giữa mô bệnh học Carcinôm vòm hầu với giới
tính cần được nghiên cứu thêm. Kết quả biểu hiện LMP1 nói lên được vai trò của vi rút EBV với Carcinôm
vòm hầu, đặc biệt loại mô bệnh học không sừng hóa (NKSCC), tuy nhiên sự khác biệt trong biểu hiện
LMP1 giữa 2 nhóm DNKSCC và UNKSCC cần được khảo sát thêm
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô bệnh học của carcinôm vòm hầu mối tương quan với đặc điểm lâm sàng và biểu hiện Lmp1
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 219 MÔ BỆNH HỌC CỦA CARCINÔM VÒM HẦU MỐI TƯƠNG QUAN VỚI ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ BIỂU HIỆN LMP1 TRẦN NGUYỄN KIM THỦY1, NGUYỄN VĂN THÀNH1, LÂM ĐỨC HOÀNG1, NGUYỄN VŨ THIỆN2 Địa chỉ liên hệ: Trần Nguyễn Kim Thủy Email: ipad261214@gmail.com Ngày nhận bài: 07/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 2 Đại học Y Dược TP.HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Đối với chuyên ngành ung thư, phân loại mô bệnh học của bướu luôn là nền tảng trong chẩn đoán bướu, đồng thời hỗ trợ cho điều trị và tiên lượng bệnh. Do đó, phân loại mô bệnh học Carcinôm vòm hầu (Nasopharyngeal Carcinoma, NPC) luôn được quan tâm bởi nhiều nhà giải phẫu bệnh trên thế giới. Trở ngại lớn nhất hiện nay là vẫn chưa có sự thống nhất trong hệ thống chẩn đoán mô bệnh học Carcinôm vòm hầu. Dựa theo các báo cáo tổng kết cho thấy phân loại mô bệnh học Carcinôm vòm hầu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) được chú ý nhiều nhất vì có khả năng hỗ trợ cho tiên lượng bệnh cũng như được sự chấp nhận của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo phân loại WHO 2017, các tác giả phân Carcinôm vòm hầu thành Carcinôm tế bào gai sừng hóa (Keratinizing Squamous Cell Carcinoma, KSCC) (8071/3), Carcinôm tế bào gai TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ mô bệnh học của Carcinôm vòm hầu (Nasopharyngeal Carcinoma, NPC) theo phân loại Tổ chức Y tế Thế giới 2017 (World Health Organization, WHO 2017), tương quan với đặc điểm lâm sàng và biểu hiện protêin màng 1 của EBV (Epstein–Barr virus latent membrane protein 1, LMP1). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 80 trường hợp được chẩn đoán NPC bằng mẫu nội soi sinh thiết ở bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) từ 01/06/2018 đến 31/12/2019. Kết quả: Loại mô bệnh học không sừng hóa (Non Keratinizing Squamous Cell Carcinoma, NKSCC) chiếm tỷ lệ cao nhất 97,5% trong đó kiểu hình biệt hóa (Differentiated Non Keratinizing Squamous Cell Carcinoma, DNKSCC) chiếm 46,25% và kiểu hình không biệt hóa (Undifferentiated Non Keratinizing Squamous Cell Carcinoma, UNKSCC) chiếm 51,25%, loại mô bệnh học gai sừng hóa (Keratinizing Squamous Cell Carcinoma, KSCC) chiếm 2,5% và không ghi nhận được loại mô bệnh học gai dạng đáy (Basaloid Squamous Cell Carcinoma, BSCC). Nhóm ≤ 40 tuổi có tỷ lệ UNKSCC (76,47%) cao hơn nhiều so với tỷ lệ DNKSCC (23,53%) bên cạnh đó nhóm >40 tuổi có tỷ lệ DNKSCC (54,1%) nhiều hơn so với tỷ lệ UNKSCC (45,9%) (p = 0,03). Biểu hiện LMP1 (+) nhóm DNKSCC (18 trường hợp, 66,67%) có tỷ lệ cao hơn so với biểu hiện LMP1 (+) nhóm UNKSCC (9 trường hợp, 33,33%), trong khi đó biểu hiện LMP1 (–) nhóm UNKSCC (29 trường hợp, 64,44%) có tỷ lệ cao hơn so với biểu hiện LMP1 (–) nhóm DNKSCC (16 trường hợp, 35,56%) (p = 0,01). Kết luận: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi không chứng minh được mô bệnh học Carcinôm vòm hầu có tương quan với tuổi và giai đoạn TNM. Mối tương quan giữa mô bệnh học Carcinôm vòm hầu với giới tính cần được nghiên cứu thêm. Kết quả biểu hiện LMP1 nói lên được vai trò của vi rút EBV với Carcinôm vòm hầu, đặc biệt loại mô bệnh học không sừng hóa (NKSCC), tuy nhiên sự khác biệt trong biểu hiện LMP1 giữa 2 nhóm DNKSCC và UNKSCC cần được khảo sát thêm. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 220 không sừng hóa (Non Keratinizing Squamous Cell Carcinoma, NKSCC) (8072/3) và Carcinôm tế bào gai dạng đáy (Basaloid Squamous Cell Carcinoma, BSCC) (8083/3). Vấn đề đặt ra rằng 2 nhóm phụ của loại mô bệnh học tế bào gai không sừng hóa đã được WHO thống nhất thành một tên chung, do đó khi chẩn đoán Carcinôm vòm hầu có cần thiết phải xác định rõ loại mô bệnh học với Carcinôm tế bào gai không sừng hóa, kiểu hình biệt hóa (Differentiated Non Keratinizing Squamous Cell Carcinoma, DNKSCC) và Carcinôm tế bào gai không sừng hóa, kiểu hình không biệt hóa (Undifferentiated Non Keratinizing Squamous Cell Carcinoma, UNKSCC) hay không, có sự khác biệt nào giữa 2 nhóm phụ trong phân loại mô bệnh học tế bào gai không sừng hóa còn mang lại giá trị hỗ trợ cho chẩn đoán, điều trị và tiên lượng bệnh hay không. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục đích đánh giá mối tương quan mô bệnh học của Carcinôm vòm hầu với các đặc điểm lâm sàng và đặc điểm sinh học thông qua biểu hiện protêin màng 1 của EBV (Epstein–Barr virus latent membrane protein 1, LMP1) nhằm rút ra được những vai trò của mô bệnh học Carcinôm vòm hầu. Trong đó LMP1 của EBV được biết đến với vai trò chính trong cơ chế bệnh sinh NPC qua việc ảnh hưởng đến sự tăng sinh, khả năng sống còn, hoạt động của tế bào và trình trạng xâm lấn của bệnh. Mục tiêu nghiên cứu Khảo sát tỷ lệ mô bệnh học của NPC theo phân loại WHO 2017, tương quan với tuổi, giới tính và biểu hiện LMP1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 80 trường hợp được chẩn đoán Carcinôm vòm hầu bằng mẫu nội soi sinh thiết ở bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) từ 01/06/2018 đến 31/12/2019. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Phương pháp tiến hành Thu thập thông tin bệnh án: tuổi, giới tính, phân giai đoạn TNM (AJCC 8th), chẩn đoán giải phẫu bệnh dựa vào hồ sơ bệnh án. Thu thập khối nến mô bướu đủ mẫu tại bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. Thực hiện kỹ thuật TMAs (Tissue microarrays) cho các mẫu bướu nghiên cứu. Nhuộm HE và hóa mô miễn dịch EBV thông qua LMP1 (CS1 - 4, hãng Dako). Kết quả đánh giá lại bởi 1 bác sĩ giải phẫu bệnh có kinh nghiệm ở bệnh viện Ung Bướu TP.HCM. Dữ liệu được phân tích bằng STADA/IC 13.0.2. Khảo sát mối tương quan giữa các biến số bằng phép kiểm 2, phép kiểm 2 có hiệu chỉnh Fisher. Tương quan có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. Độ tin cậy 95%, sai lầm loại I là 5%. KẾT QUẢ Loại mô bệnh học không sừng hóa (NKSCC) chiếm tỷ lệ cao nhất ... quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có mối liên hệ giữa các loại mô bệnh học NPC với di căn hạch (N). Tuy nhiên kết quả của các nghiên cứu dưới đây đều cho kết quả ngược lại với kết quả của chúng tôi. Trong nghiên cứu của tác giả Xu Y khi đánh giá mối tương quan với tình trạng di căn hạch với các loại mô bệnh học NPC (KSCC, NKSCC và BSCC) cho thấy BSCC cho di căn hạch ít hơn hẳn so với loại NKSCC và KSCC (p = 0,004)[19]. Nghiên cứu của tác giả Rui G năm 2019 trên 2845 bệnh nhân NPC ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa khi nhóm NKSCC (DKSCC và UKSCC) chiếm ưu thế tương đối hơn so KSCC đối với tình trạng di căn hạch (p = 0,047) bên cạnh đó tác giả kết luận rằng di căn hạch (N3) có liên quan đến việc làm giảm khả năng sống còn với ung thư vòm hầu (NPC - specific survival, NPC-SS) ở nhóm NKSCC, nhưng không có đối với nhóm KSCC (p = 0,001)[15]. Tương tự tác giả Reddy S P ghi nhận tỷ lệ di căn hạch thấp hơn đáng kể ở loại KSCC (29%) so với NKSCC (70%), tuy nhiên tỷ lệ kiểm soát hạch ở nhóm KSCC (76%) thấp hơn so với nhóm NKSCC (85%) (p = 0,001)[14]. Tuy nhiên, tác giả Rui G nhận định rằng bệnh nhân nhóm KSCC có tỷ lệ di căn hạch thấp hơn nhưng có tỷ lệ sống còn cũng thấp hơn so với NKSCC vì tác giả cho rằng bướu nguyên phát khó được kiểm soát. Do đó, tác giả Rui G kết luận rằng di căn hạch không ảnh hưởng đến sống còn của nhóm KSCC mà do nhóm KSCC đáp ứng kém với hóa xạ trị[15]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có mối liên hệ giữa các loại mô bệnh học NPC với di căn xa (M), có lẽ do mẫu nghiên cứu của chúng tôi nhỏ không đủ để nói lên sự khác biệt. Tác giả Anwar A nghiên cứu trên 256 bệnh nam NPC có di căn xa ghi nhận đối với di căn xương thì Carcinôm không biệt hóa (Undifferentiated Carcinoma,UC) chiếm tỷ lệ cao nhất (28%) trong khi đó loại Carcinôm tế bào gai (Squamous Cell Carcinoma, SCC) chỉ chiếm 17% (p = 0,011), do đó tác giả đề nghị rằng nên tầm soát thường quy di căn xương ở nhóm mô bệnh học UC. Bên cạnh đó đối với di căn phổi ghi nhận SCC (17%) chiếm ưu thế hơn so với UC (6%) (p = 0,011), ở những vị trí di căn khác như gan và hạch dưới xương đòn không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa giữa các loại mô bệnh học (p > 0,05)[3]. Nghiên cứu của tác giả Reddy S P ghi nhận ở loại KSCC có 6% di căn xa thấp hơn nhiều so với loại NKSCC (DNKSCC và UNKSCC) có 33% di căn xa (p = 0,001), tuy nhiên không có sự khác biệt giữa DNKSCC và UNKSCC[14]. So với nghiên cứu của chúng tôi, các nghiên cứu nêu trên ủng hộ cho giả thiết di căn xa (M) thường xảy ra hơn ở loại NKSCC so với KSCC, qua đó chúng tôi nghĩ rằng có thể mẫu nghiên cứu của chúng tôi chưa đủ lớn để nói lên sự khác biệt. Bên cạnh đó vẫn có sự trái ngược ý kiến, tác giả Anwar A[3] cho rằng di căn xa thường gặp ở nhóm UNKSCC nhưng tác giả Reddy S P[14] phủ nhận rằng không có sự khác biệt di căn xa giữa DNKSCC và UNKSCC. Sự khác biệt trên có thể do sự khác nhau của 2 thiết kế nghiên cứu, nghiên cứu của tác giả Anwar A[3] thực hiện trên mẫu hoàn toàn là nam giới trong khi đó của tác giả Reddy S P[14] thì mẫu nghiên cứu có cả 2 giới. Từ những kết quả trên, chúng tôi nhận thấy rằng loại mô bệnh học KSCC có thể có tỷ lệ di căn hạch, di căn xa thấp hơn và có tỷ lệ sống còn thấp hơn so với NKSCC, điều này được quy cho việc bướu không đáp ứng với điều trị và không có nghiên cứu nào chứng minh được vai trò của mô bệnh học với tiến triển của bướu (T). Về vai trò tiên lượng của mô bệnh học, trong nghiên cứu của tác giả Rui G năm 2019 ghi nhận ở nhóm UNKSCC có NPC-SS tốt hơn so với KSCC (p < 0,001) và DNKSCC (p < 0,001). Kết quả cũng tương tự đối với NPC - SS trong 5 năm là KSCC (75,2%), DNKSCC (77,9%), UNKSCC (88,9%) (p < 0,001), đồng thời tác giả kết luận mô bệnh học là yếu tố tiên lượng độc lập đối với NPC[15],[18]. Biểu hiện LMP1 Nghiên cứu của chúng tôi khi đánh giá biểu hiện của vi rút EBV thông qua LMP1 với các loại mô bệnh học NPC, chúng tôi chỉ đánh giá được đối với loại mô bệnh học NKSCC, vì 2 trường hợp KSCC sau khi thực hiện hóa mô miễn dịch không còn đủ mẫu để đánh giá. Kết quả cho thấy có sự khác biệt tương đối về biểu hiện LMP1 giữa 2 nhóm phụ DNKSCC và UNKSCC (p = 0,01). Khi dựa vào kết quả nghiên cứu của bệnh viện Chợ Rẫy sau khi Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 224 khảo sát gen EBNA1 của vi rút EBV bằng phương pháp PCR trên mẫu mô sinh thiết vòm hầu lại cho thấy EBV liên quan nhiều đến KSCC, với tỷ lệ EBV ở các loại mô bệnh học NPC lần lượt là KSCC (100%), DNKSCC (78,57%) và UNKSCC (93,33%)[1]. Mối liên quan giữa LMP1 và KSCC được tác giả Ou S H lý giải rằng ở những vùng không phải dịch tễ của NPC, KSCC có liên quan đến hút thuốc lá và nghiện rượu nặng, nhưng khi đánh giá ở những vùng bệnh khác nhau của NPC thì tác giả ghi nhận mối liên hệ của KSCC và EBV có tỷ lệ dương tính cao nhất ở những vùng được xem là dịch tễ của NPC[12]. Dựa vào những kết quả trên cho thấy EBV không chỉ liên quan với loại mô bệnh học NKSCC mà có thể có liên quan với KSCC. Nhưng trong nghiên cứu của tác giả Beena U ghi nhận EBV có mối liên hệ chặt chẽ với NKSCC hơn so với KSCC, chính sự không hằng định trong mối liên quan của vi rút EBV với KSCC này giúp đưa ra giả thiết ngoài vi rút EBV có thể còn một cơ chế sinh ung thư khác đối với KSCC[4]. Khi so sánh những kết quả ghi nhận đối với loại mô bệnh học NKSCC, các nghiên cứu cho thấy sự khác biệt không đồng nhất. Nghiên cứu của tác giả Parikhit B ghi nhận biểu hiện LMP1 (+) nhiều nhất đối với loại mô học UC (17 trường hợp), kế đến Carcinôm không sừng hóa (Non Keratinizing Carcinoma, NKC) (11 trường hợp) và thấp nhất là SCC (8 trường hợp), sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (p = 0,005)[13]. Nghiên cứu của tác giả Gerald N khảo sát EBV - DNA bằng phương pháp lai màu (ISH) cho rằng có mối liên hệ chặt chẽ giữa EBV và loại mô bệnh học NPC, đặc biệt là loại UC[5]. Nghiên cứu của tác giả Hu L F và Sarp S cho thấy tỷ lệ cao LMP1 (+) ở loại mô bệnh học UC (66% và 73,2%)[7],[16]. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả Vera–Sempere F J khi đánh giá mối tương quan giữa biểu hiện LMP1 với các loại mô bệnh học NPC ghi nhận không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa biểu hiện LMP1 với các loại mô bệnh học NPC (KSCC, DNKSCC, UNKSCC) ở cả bướu nguyên phát và trên mẫu bướu di căn[17]. Tương tự nghiên cứu của các tác giả Horikawa T[6], Jeon Y K[8], Abdelmajid K[2] không ghi nhận được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa biểu hiện LMP1 và mô bệnh học NPC. Mặc dù vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nghiên cứu nhưng nhìn chung các kết quả gợi ý đến mối liên hệ giữa vi rút EBV và loại mô bệnh học NKSCC, đặc biệt là UNKSCC. Qua kết quả gợi ý phát triển vắc xin như một phương thức điều trị mới giúp hạn chế phát triển bướu và phòng ngừa di căn ở nhóm NPC có mô bệnh học NKSCC, đặc biệt là UNKSCC. KẾT LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có mối tương quan giữa mô bệnh học Carcinôm vòm hầu với giai đoạn TNM tuy nhiên về mặt tiên lượng, mô bệnh học vẫn cho thấy khả năng tiên lượng độc lập đối với NPC. Bên cạnh đó yếu tố tuổi và giới tính có thực sự liên quan với mô bệnh học hay không cần được nghiên cứu thêm. Do đó việc chẩn đoán loại mô bệnh học NPC phù hợp giúp góp phần đưa ra tiên lượng của bệnh, bên cạnh những yếu tố tiên lượng khác như tuổi, giai đoạn TNM. Biểu hiện LMP1 trong nghiên cứu của chúng tôi nói lên được vai trò của EBV với NPC, đặc biệt là loại mô bệnh học không sừng hóa (NKSCC). Mặc dù kết quả biểu hiện LMP1 nhiều ở nhóm DNKSCC hơn so với UNKSCC nhưng để có kết luận chính xác cần có thêm nhiều bằng chứng nghiên cứu vì theo kết quả của những nghiên cứu trên thế giới cho thấy EBV có liên hệ chủ yếu ở loại mô bệnh học UNKSCC. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Trọng Minh, Nguyễn Hữu Dũng, Trần Ngọc Quỳnh (2017), "Khảo sát sự hiện diện của Epstein-Barr Virus trên mẫu sinh thiết bệnh nhân ung thư vòm mũi họng tại khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy", Phụ Bản tập 21, số 1, chuyên đề Mắt-Tai Mũi Họng, trang 129-132. 2. Abdelmajid K, et al., (2005), "EBV latent membrane protein 1 abundance correlates with patient age but not with metastatic behavior in north African nasopharyngeal carcinomas", Virology journal, 2 (1), 39. 3. Anwar A (1986), "Distant metastases of nasopharyngeal carcinoma: a study of 256 male patients", Journal of surgical oncology, 33 (3), 194-197. 4. Beena U (2014), "Nasopharyngeal carcinoma, an analysis of histological subtypes and their association with EBV, a study of 100 cases of Pakistani population", Asian Journal of Medical Sciences, 5 (4), 16 - 20. 5. Gerald N, et al., (1991), "Epstein - Barr virus and carcinomas: undifferentiated carcinomas but not squamous cell carcinomas of the nasopharynx are regularly associated with the virus", The Journal of pathology, 165 (1), 17 - 24. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 225 6. Horikawa T, et al., (2001), "Induction of c-Met proto-oncogene by Epstein-Barr virus latent membrane protein-1 and the correlation with cervical lymph node metastasis of nasopharyngeal carcinoma", The American journal of pathology, 159 (1), 27 - 33. 7. Hu L F, et al., (1995), "Differences in the growth pattern and clinical course of EBV-LMP1 expressing and non-expressing nasopharyngeal carcinomas", European Journal of Cancer, 31(5), 658-660. 8. Jeon Y K, et al., (2004), "Molecular characterization of epstein‐barr virus and oncoprotein expression in nasopharyngeal carcinoma in Korea", Head & Neck: Journal for the Sciences and Specialties of the Head and Neck, 26 (7), 573 - 583. 9. Lu X, et al., (2013), "Favorable prognosis of female patients with nasopharyngeal carcinoma", Chinese journal of cancer, 32 (5), 283. 10. Marks J E, et al., (1998), "The National Cancer Data Base report on the relationship of race and national origin to the histology of nasopharyngeal carcinoma", Cancer: Interdisciplinary International Journal of the American Cancer Society, 83 (3), 582 - 588. 11. Miia R, et al., (2018), "Outcome of nasopharyngeal carcinoma in Finland: a nationwide study", Acta Oncologica, 57 (2), 251- 256. 12. Ou S I, et al., (2006), "Epidemiology of nasopharyngeal carcinoma in the United States: improved survival of Chinese patients within the keratinizing squamous cell carcinoma histology", Annals of oncology, 18 (1), 29 - 35. 13. Parikhit B, et al., (2016), "Expression of Epstein Barr Virus encoded EBNA1 and LMP1 oncoproteins in nasopharyngeal carcinomas from Northeast India", Asian Pac J Cancer Prev, 17 (7), 3411-3416. 14. Reddy S P, et al., (1995), "Prognostic significance of keratinization in nasopharyngeal carcinoma", American journal of otolaryngology, 16 (2), 103 - 108. 15. Rui G, et al., (2019), "Lymph Node Status and Outcomes for Nasopharyngeal Carcinoma According to Histological Subtypes: A SEER Population-Based Retrospective Analysis", Advances in Therapy, 36 (11), 3123 - 3133. 16. Sarp S, et al., (2001), "Bcl-2 and LMP1 expression in nasopharyngeal carcinomas", American journal of otolaryngology, 22 (6), 377- 382. 17. Vera-Sempere F J, et al., (1996), "Immunohistochemical expression of Epstein- Barr virus-encoded latent membrane protein (LMP-1) in paraffin sections of EBV-associated nasopharyngeal carcinoma in Spanish patients", European Journal of Cancer Part B: Oral Oncology, 32 (3), 163 - 168. 18. Wu S G, et al., (2019), "The effect of histological subtypes on survival outcome in nasopharyngeal carcinoma after extensive follow up", Annals of Translational Medicine, 7 (23). 19. Xu Y, et al., (2019), "Patterns and Prognostic Value of Lymph Node Metastasis on Distant Metastasis and Survival in Nasopharyngeal Carcinoma: A Surveillance, Epidemiology, and End Results Study, 2006 - 2015", Journal of Oncology, 2019. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 226 ABSTRACT Histopathology of nasopharyngeal carcinoma correlations with clinical features and LMP1 expression Aims: Survey the histopathological rate of nasopharyngeal carcinoma (NPC) (WHO 2017) and the correlations with clinical features and LMP1 expression. Materials and methods: Cross-sectional study of 80 biopsies of nasopharyngeal carcinoma at Ho Chi Minh Oncology Hospital from June 1, 2018 to December 31, 2019. Results: Non-keratinized Squamous Cell Carcinoma (NKSCC) accounted for the highest rate of 97.5% (46.25% of DNKSCC and 51.25% of UNKSCC), KSCC was only 2.5% and no case of BSCC is recorded. The proportion of people aged ≤ 40 years old had the rate of UNKSCC (76.47%) was more than the rate of DNKSCC (23.53%) beside that the group >40 years old had the rate of DNKSCC (54.1%) was more than the rate of UNKSCC (45.9%) (p = 0.03). The expression of LMP1 (+) in the UNKSCC group (18 cases, 66.67%) had higher rate than the expression LMP1 (+) in the UNKSCC group (9 cases, 33.33%), while the expression of LMP1 (-) in the UNKSCC group (29 cases, 64.44%) had higher rate than the expression of LMP1 (-) in the DNKSCC group (16 cases, 35.56%) (p = 0.01). Conclusions: The results of our study do not prove that nasopharyngeal carcinoma histopathology correlation with age and stage of TNM. The correlation of nasopharyngeal carcinoma histopathology with the sex needs to be studied further. The result of LMP1 expression showed the role of EBV with NPC, especially with NKSCC type, however the difference in LMP1 expression between the two groups of DNKSCC and UNKSCC should be investigated further.
File đính kèm:
- mo_benh_hoc_cua_carcinom_vom_hau_moi_tuong_quan_voi_dac_diem.pdf