Lý thuyết tiếp nhận của wolfgang iser
Iser đóng một vai trò tiêu biểu trong lý thuyết tiếp nhận Konstanz, lý luận của ông đặt nền tảng
trên sự nghiên cứu, hiểu biết sâu sắc và tôn trọng vai trò của văn bản trong hoạt động tiếp nhận.
Thời kỳ đầu, Iser tập trung vào việc tìm hiểu quá trình đọc cũng như quá trình xử lý văn bản của
độc giả, phát hiện rằng không chỉ có vấn đề người đọc cải tạo văn bản mà đồng thời với nó còn có
vấn đề văn bản cải tạo người đọc, tức là một mối quan hệ hai chiều. Trong thời kỳ thứ hai, Iser tập
trung nghiên cứu nguyên nhân cũng như mục đích con người tìm đến với văn học, phát hiện hư cấu
và tưởng tượng giúp con người mở rộng, siêu việt những giới hạn trong hiện thực, tự sáng tạo nên
chính mình và thế giới như một trò chơi, từ đó tìm thấy tự do, thoát khỏi những trói buộc và bất mãn
ở thực tại.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Lý thuyết tiếp nhận của wolfgang iser
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 60 LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN CỦA WOLFGANG ISER Lưu Hồng Sơn Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ luuhongson2004@yahoo.com Nhận bài ngày: 6/6/2019; Ngày duyệt đăng: 27/08/2019 Tóm tắt Iser đóng một vai trò tiêu biểu trong lý thuyết tiếp nhận Konstanz, lý luận của ông đặt nền tảng trên sự nghiên cứu, hiểu biết sâu sắc và tôn trọng vai trò của văn bản trong hoạt động tiếp nhận. Thời kỳ đầu, Iser tập trung vào việc tìm hiểu quá trình đọc cũng như quá trình xử lý văn bản của độc giả, phát hiện rằng không chỉ có vấn đề người đọc cải tạo văn bản mà đồng thời với nó còn có vấn đề văn bản cải tạo người đọc, tức là một mối quan hệ hai chiều. Trong thời kỳ thứ hai, Iser tập trung nghiên cứu nguyên nhân cũng như mục đích con người tìm đến với văn học, phát hiện hư cấu và tưởng tượng giúp con người mở rộng, siêu việt những giới hạn trong hiện thực, tự sáng tạo nên chính mình và thế giới như một trò chơi, từ đó tìm thấy tự do, thoát khỏi những trói buộc và bất mãn ở thực tại. Từ khóa: Wolfgang Iser, lý thuyết tiếp nhận Konstanz, hành động đọc, hành động hư cấu. The reception theory of Wolfgang Iser Abstract Iser was a prominent representative of the reception theory – the Konstanz school. He built his theory with a profound understanding of and serious respect for the literary text during the receiving process. In the first period of his studying, Iser focused on the reading and processing the literary text, and discovered that, during the reception, not only did the readers re-create the text but the text also re-cereated the readers, in other words, the re-creation process happened in a two-way manner. In the second period, Iser studied why and for what readers seeked out literature, and concluded that fiction and imagination enabled people to extend or get beyond the limits of reality, empowering them to build their own inner selves and the world as a game, in which they freed themselves from the burden of all disappointments and restrictions in life. Keywords: Wolfgang Iser, Konstanz reception theory, act of reading, act of fictionalizing 1. Cuộc đời và hoạt động học thuật của Iser Lý luận phê bình văn học chú ý đến độc giả (Audience-Oriented Criticism) không phải là một khuynh hướng hay trường phái xuất hiện riêng ở một nhóm nào hay một quốc gia nào, mà có tính phổ biến rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới và được biết đến với cái tên chung phổ biến là “Reception theory” (Lý thuyết tiếp nhận). Ở Đức nó thường được gọi là “Rezeptionsästhetik” (Mỹ học Tiếp nhận) trường phái Konstanz với hai nhân vật đại biểu là Hans Robert Jauss (1921 - 1997) và Wolfgang Iser (1926 - 2007), ở Mỹ thường được gọi là “Reader Response Criticism” (Phê bình phản ứng độc giả) với đại biểu là Stanley Fish. Lý thuyết tiếp nhận trường phái Konstanz ra đời cuối thập niên 1960 tại đại học Konstanz ở Tây Đức do các nhà nghiên cứu, giáo sư đại học như Jauss và Iser sáng lập. Sau đó trường phái này nhanh chóng lan truyền khắp nơi trên thế giới, tạo thành “cơn sốt” ở phương Tây trong thập niên 1970 và từ thập niên 1980 đến nay vẫn gây ảnh hưởng không nhỏ đến nghiên cứu văn học trên thế giới. Đóng góp quan trọng nhất của trường phái Konstanz là chuyển trung tâm chú ý trong TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 61 nghiên cứu văn học từ tác giả, văn bản sang độc giả, xem người tiếp nhận có vai trò mang tính quyết định trong việc tạo nên cuộc đời và sức sống, giá trị của văn học. Trên cơ sở kế thừa thành tựu của nhiều lý thuyết lý luận triết học, mỹ học, văn nghệ khác, các nhà Konstanz đã xây dựng được một hệ thống lý thuyết riêng, có đóng góp mang tính quốc tế về nghiên cứu văn học, đặc biệt là lý luận về quan hệ giữa văn học và lịch sử (Jauss), quan hệ giữa độc giả và văn bản (Iser). Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến lý thuyết tiếp nhận Konstanz tồn tại và phát triển dài lâu, là nhờ chủ trương liên tục thu nhận thành tựu lý luận của các trường phái khác trên hành trình để tự làm mới mình của nó. Lý thuyết tiếp nhận Konstanz không phải chỉ có hai người, mà là một nhóm, nhưng với những đóng góp to lớn và liên tục trong suốt quá trình phát triển, Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser được công nhận là hai nhân vật đại biểu xuất sắc cho lý thuyết tiếp nhận trường phái Konstanz. Jauss và Iser thuộc về hai khuynh hướng lý luận khác nhau nhưng bổ sung cho nhau. Đặc điểm của một trường phái lý luận cũng không chỉ thể hiện ở các tính chất chung, mà còn thể hiện qua những khuynh hướng khác biệt trong nội bộ bản thân trường phái ấy. Trong Konstanz, Jauss và Iser là hai nhân vật tiêu biểu nhất, đồng thời cũng là những người thể hiện rõ nhất những bình diện khác biệt trong lý luận tiếp nhận Konstanz. Điều này được chính Iser nói rõ trong các nghiên cứu của ông. Trong lời tựa cho bản dịch công trình Hành động đọc ra tiếng Trung Quốc năm 1991, Iser (1978: 18) cũng đã nói khá rõ: “Thứ mà chúng ta gọi là Mỹ học tiếp nhận ngày nay có nội dung không thống nhất với tên gọi mà nó mang, về nguyên tắc, tên gọi này đã che mất hai loại phương pháp nghiên cứu khác nhau, dù rằng đó là hai phương pháp có quan hệ mật thiết, song sự khác nhau ấy lại dễ nhận thấy”. Theo Iser, lý thuyết tiếp nhận được hợp thành từ hai khuynh hướng khác nhau là: lý thuyết phản ứng thẩm mỹ của ông và mỹ học tiếp nhận của Jauss, chúng có quan hệ mật thiết, bổ sung cho nhau; điểm khác biệt là lý thuyết phản ứng thẩm mỹ bắt rễ trong văn bản, còn lý thuyết mỹ học tiếp nhận sinh ra từ lịch sử phán đoán tác phẩm của độc giả. Iser lại khẳng định thêm quan điểm đó trong công trình giới thiệu nghiên cứu lý luận văn học phương Tây How to Do Theory, ông đặt tên cho chương viết về trường phái Konstanz do mình và Jauss lập thuyết và phát triển là “Reception theory” (Iser, 2006: 57). Nhiều nhà nghiên cứu đã thử p ... giả muốn đọc?, Tại sao người ta lại say mê văn chương dù họ cũng biết rằng văn chương chỉ là vật hư cấu?” và một câu hỏi quan trọng khác nữa là: “Mục đích của văn học là gì?”. Iser (1991: 12-13) cho rằng, để giải đáp vấn đề đó, việc cần phải làm là tìm hiểu sự ra đời của văn học, mà dù nghiên cứu sự tiếp nhận của độc giả hay nghiên cứu quá trình sản xuất của tác giả, thì việc phân tích văn bản là điều không thể thiếu. Nhưng bản chất của văn bản văn học theo Iser không phải chỉ là hư cấu và là thứ hư cấu đối lập với hiện thực như người ta vẫn nghĩ và tin chắc như một loại “tri thức mặc nhiên” (tacit knowledge). Với Iser, “văn bản văn học là vật hỗn hợp giữa hư cấu và hiện thực, là kết quả bổ sung qua lại, thẩm thấu vào nhau của cái đã biết và cái tưởng tượng, trong văn bản, đặc tính hỗn dung giữa hư cấu và hiện thực vượt xa đặc tính đối lập giữa chúng” (Iser, 1991: 14). Ông phê phán quan điểm đối lập nhị nguyên giữa hư cấu và hiện thực, bởi cái “tri thức mặc nhiên” đó không trả lời được những câu hỏi: “Thực tế giữa cái hư và cái thực có dễ phân biệt rõ ràng rành mạch như trắng với đen được không?”, “Văn bản hư cấu tất nhiên là thứ hư cấu, nhưng văn bản phi hư cấu có tất nhiên không liên hệ gì với hư cấu hay không?”. Và Iser cũng cho rằng, nếu văn bản hư cấu cắt đứt hết liên hệ với hiện thực thì không ai có thể hiểu được, cho nên, khi chúng ta thử miêu tả “cái gì là tính hư cấu của (*) Như câu hỏi của Kim Huệ Mẫn 金惠敏 trong bài phỏng vấn Iser, in đầu bản dịch sang tiếng Trung công trình Das văn bản” thì lý luận cũ về mối quan hệ giữa hư cấu và hiện thực sẽ khó có thể tiếp tục đứng vững hay tồn tại. Vì thế, Iser (1991: 14 -15) đề nghị vứt bỏ quan điểm đối lập hư cấu – hiện thực, mà thay vào đó là quan điểm thống nhất giữa ba nhân tố hiện thực, hư cấu và tưởng tượng, ông cho rằng đây mới là “đặc trưng cơ bản của văn bản”, đồng thời cũng là “cơ sở tồn tại của văn bản văn học”. Bởi theo Iser, ba nhân tố này có chức năng tác dụng riêng, nhưng có sự giao thoa hòa trộn thống nhất để tạo nên văn bản. “Văn bản không chỉ bị giới hạn trong hiện thực đã định như là nhân tố tham chiếu, văn bản cũng không thể chỉ có đặc trưng hư cấu, do đó đối với văn bản, tính hư cấu không phải là thuộc tính cuối cùng của văn bản và cũng không phải là thuộc tính chỉnh thể của văn bản. Thực tế, ngoài việc lấy hiện thực và hư cấu làm trung gian, văn bản còn có nhân tố thứ ba, đó là tưởng tượng” và “việc công nhận quan hệ hợp nhất bộ ba ấy là cách hay nhất khi nghiên cứu vấn đề này”. Nghiên cứu của Iser (1991: 15) chỉ ra, “hiện thực” trong văn bản là những từ ngữ “có nguồn gốc từ xã hội”, có ý nghĩa xác định và chúng chiếm phần lớn trong văn bản, nhưng “bản thân thứ hiện thực ấy không có bao nhiêu ý nghĩa đối với văn bản, vì văn bản không phải là thứ hướng đến hiện thực mà là biểu hiện hiện thực”. Từ đó, Iser rút ra kết luận, văn bản không tất yếu phải dựa vào sự thực có căn cứ (ipso facto) để trở thành vật hư cấu, bởi những yếu tố như ý đồ, thái độ, kinh nghiệm,... của tác giả trong quá trình kiến tạo văn bản không nhất thiết phải phản ánh hiện thực, mà ngay “ý đồ, thái độ, kinh nghiệm ấy trong văn bản rất có thể chỉ là sản phẩm của hành vi hư cấu”. Mối quan hệ giữa “hư cấu” và “tưởng tượng” theo khảo sát của Iser, là ít được chú ý và thường lẫn lộn trong lịch sử tư tưởng, triết học phương Tây. Theo ông, muốn xác định được đặc tính, bản chất của từng nhân tố, phải căn cứ vào quan hệ, chức năng của nó. Về hư cấu, bởi hành vi hư Fiktive und das Imaginäre: Perspektiven literarischer, Anthropologie (Iser, 1991: 12). VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 68 cấu khiến cho một vật đang “định hình” trở thành “đa dạng”, nên từ đó chúng ta có thể rút ra bản chất của nó là “siêu việt giới hạn” (crossing boundaries) hoặc “xâm lấn” (transgression). Như thế, một đặc điểm khác của hành vi hư cấu là tính ý thức, tính chủ động, tính mục đích, chịu sự khống chế và dẫn dắt của chủ thể hành vi. Còn tưởng tượng, theo Iser (1991: 15-16), “như bóng ma bất định thường vụt qua trước mắt ta, có lúc chỉ trong nháy mắt nó biến mất không để lại tăm tích nào, có khi nó biến hóa thành một diện mạo khác”. Vậy nên đặc tính của tưởng tượng là có hình thức tản mạn, thoáng qua, tùy hứng, không có hình thức cố định cụ thể. Như thế chúng ta không thể đánh đồng hành vi hư cấu và tưởng tượng, không thể xem chúng là một, bởi chúng có chức năng cũng như đặc tính bất đồng. Song hư cấu và tưởng tượng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, chúng đều tìm kiếm, kiến tạo một cái gì đó không có hay khác với cái đã có mà chúng ta biết, trong quá trình đó hành vi hư cấu tạo cho tưởng tượng (vốn bất định không thể nắm bắt) một hình thức cụ thể rõ ràng, một “diện mạo chân thực giả định” có thể nắm bắt, như vậy hành vi hư cấu là điểm tựa cơ sở để tưởng tượng cất cánh siêu việt giới hạn hiện thực. Vậy quan hệ giữa ba nhân tố hiện thực – hư cấu – tưởng tượng biểu hiện cụ thể như thế nào? Từ những dẫn giải của Iser, có thể nói, cả hư cấu và tưởng tượng cùng có đặc tính “siêu việt hiện thực”, nhưng đều cùng lấy hiện thực làm cơ sở, không phải hoàn toàn thoát ly cắt đứt với hiện thực. Do đó, trong “tưởng tượng” có những yếu tố “hiện thực”, mà những yếu tố hiện thực này lại do “hư cấu” dẫn dắt, bởi hư cấu kết nối hiện thực và tưởng tượng, hình thức hay tính hiện thực trong tưởng tượng là do hư cấu kiến tạo nên. Song Iser lưu ý rằng, “dù tưởng tượng chắc chắn phải dùng một diện mạo chân thực giả định hoặc dùng cách siêu việt thế giới hiện thực để phản ánh hiện thực, nhưng tưởng tượng không bao giờ đồng đẳng với hiện thực”. Tưởng tượng bắt nguồn từ hiện thực, vậy hiện thực bắt nguồn từ đâu? Theo Iser (1991: 20), “tính hiện thực” (actuality) của văn bản lại bắt nguồn từ “tính hữu hiệu của tưởng tượng về hiện thực”, ông đã dựa vào lý luận “cái chân thực bắt nguồn từ hư cấu” của triết gia Mỹ Nelson Goodman (trong Ways of Worldmaking, 1978) để nhấn mạnh rằng: “tính chân thực ấy sinh ra trong quá trình tác động qua lại giữa các yếu tố liên quan đến văn bản” (Iser, 1991: 22) và nó không phải là sự kết hợp tính chất của các yếu tố có trong văn bản. Theo Iser (1991: 16), trong ba nhân tố hư cấu – hiện thực và tưởng tượng kể trên, thì hư cấu là nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất, bởi nó siêu việt hiện thực và định hình tưởng tượng. Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt thế giới tinh thần của con người, trong văn học, nó được cấu trúc thành văn bản tác phẩm, nhưng “tác dụng của văn bản là có giới hạn” (Iser, 1991: 3), bởi nó có khuôn khổ, trong khi nhu cầu tìm kiếm, mở rộng, siêu việt giới hạn hiện thực, giới hạn nhận thức cũng như phá bỏ cái cũ kiến tạo cái mới của con người thì luôn vô cùng, cho nên người ta phải không ngừng hư cấu và tưởng tượng để thỏa mãn nhu cầu ấy. Chương thứ hai của công trình Hư cấu và tưởng tượng của Iser viết về mục ca thời Phục hưng và xem nó như một mô hình hư cấu văn học (Renaissance pastoralism as a paradigm of literary fictionality). Theo Iser, thế giới trong mục ca bao hàm hai lĩnh vực khác nhau và quan hệ giữa chúng yêu cầu một hình thức giải thích nào đó. Ở đây người chăn cừu được xem như một loại ẩn dụ chứ không phải là biểu hiện cho hình ảnh của người lao động nông thôn. Mục ca cũng không miêu tả cảnh vật đồng quê, lấy chỉ sử dụng các yếu tố của đồng quê để sắp đặt trật tự hình thức cho một thế giới khác, đó là thế giới của linh hồn, của tự do. Mục ca được người sáng tác xem là mô hình tốt trong việc cung cấp một thủ pháp ẩn dụ. Iser dẫn lời Puttenham (1529 - 1590) trong The Arte of English Poesie: “Nhà thơ làm mục ca... không phải để mô phỏng hay biểu hiện tình cảm và đời sống làng quê, mà là để hóa trang thành người bình thường, dùng ngôn ngữ thô tục để ám chỉ một sự việc trọng đại khác” (Iser, 1991: 54). TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 69 Như vậy, mục ca được người sáng tác thời Phục Hưng xem như một cấu trúc ẩn dụ với đặc trưng song trùng hóa (hai mặt) và tính tượng trưng ở đây trở thành một ký hiệu của khát vọng và bất mãn. Con người ở thế giới này không phải tiến đến phía trước, mà lùi về phía sau sống với những ký ức về thời hoàng kim đã qua. Trong mục ca, giữa tác giả và độc giả hình thành một quy ước chung, lúc này độc giả sẽ chú ý đến những ý nghĩa khác, thế giới khác nằm ngoài bản thân người chăn cừu và thế giới được miêu tả trên bình diện văn tự. Và trong mục ca ranh giới giữa hai thế giới: điền viên và lịch sử xã hội trở thành một vấn đề quan trọng. Người ta không thể đạt được sự tự do trong thế giới mà họ rời bỏ, nhưng thế giới ấy lại luôn tồn tại trong thế giới hiện tại của họ. Bởi mục ca ẩn giấu một thế giới khác nên nó kích thích trí tưởng tượng của độc giả. Trên cơ sở phân tích những đặc tính của văn bản và vai trò của hư cấu như thế, Iser (1991: 5- 6) đã đưa đến những kết luận quan trọng trả lời cho vấn đề mà ông đặt ra khi nghiên cứu nhân học văn học là: Tại sao con người lại cần đến văn học và yêu thích nó, dù biết nó là thứ hư cấu? Đó là: “Hành vi hư cấu của chúng ta đưa chúng ta đi thật xa khỏi thế giới này cũng như trạng thái vốn có của chúng ta, đến một thế giới tưởng tượng”. Thế giới tưởng tượng xa xôi huyền viễn ấy hấp dẫn con người bởi nó khắc phục được những giới hạn về thời gian, không gian, nhận thức trong thế giới hiện thực để đạt đến sự tự do nhất, thỏa mãn những ước mơ khát vọng chưa thể hoặc không thể thực hiện được ở hiện tại. Iser cũng cho thấy, hư cấu và tưởng tượng quyết định đặc tính cơ bản của nhân học, vì vậy ảnh hưởng của chúng không giới hạn trong văn học, mà trong cuộc sống của chúng ta, hư cấu và tưởng tượng cũng đóng vai trò quan trọng. Đặc biệt là, quy luật chi phối quan hệ hư cấu và tưởng tượng làm hình thành nên một “kết cấu trò chơi” có tính năng động, nó khiến cho tác dụng của hư cấu và tưởng tượng thu được những hình thức khác nhau mà mỗi hình thức ấy lại mang một bối cảnh lịch sử tương quan. “Như vậy, văn bản là một không gian chơi và điều này có thể cung cấp một đáp án cho nan đề rằng tại sao con người phải cần đến văn học?” (Iser, 1991: 7). Song như chính Iser nói, với tư cách là một nhà nghiên cứu thực thụ, việc trả lời vấn đề này sẽ làm nảy sinh những vấn đề khác và đó là việc hoàn toàn bình thường, cần thiết. Thậm chí người nghiên cứu phải nghi ngờ ngay những câu hỏi, câu trả lời của mình, chứ không phải là quyết liệt bảo vệ nó, chân lý hóa nó, vậy nên Iser (1991: 7) mới có kết luận đầy ưu tư mà sâu sắc về vấn đề, đối tượng mình đã dành cả đời tâm huyết: “Rốt cuộc, hư cấu và tưởng tượng là sự bịa đặt và lừa dối khiến chúng ta siêu việt hiện thực, hay là chúng ta vốn đang ở trong cuộc sống tưởng tượng với những mộng mơ, hoang tưởng và ảo giác?”. 3. Kết luận Wolfgang Iser đóng một vai trò tiêu biểu trong lý thuyết tiếp nhận Konstanz, những nghiên cứu về hành động đọc và hành động hư cấu của ông tạo nên lý luận phản ứng thẩm mỹ của độc giả, cùng với lý luận mỹ học tiếp nhận của Jauss bổ túc cho nhau để củng cố và phát huy giá trị của lý thuyết tiếp nhận Konstanz. Lý thuyết tiếp nhận của Iser không những không phủ nhận vai trò của văn bản, mà còn đặt nền tảng trên sự nghiên cứu, hiểu biết sâu sắc và tôn trọng vai trò của văn bản trong hoạt động tiếp nhận. Thời kỳ đầu, lý luận của Iser tập trung vào việc tìm hiểu quá trình đọc cũng như quá trình xử lý văn bản của độc giả. Ở đây không chỉ có vấn đề người đọc cải tạo văn bản mà đồng thời với nó còn có vấn đề văn bản cải tạo người đọc, tức là một mối quan hệ hai chiều, một quá trình mang tính biện chứng tác động qua lại lẫn nhau giữa người tiếp nhận và văn bản. Cũng có nghĩa là đồng thời với vấn đề độc giả đã đọc văn bản như thế nào? và vấn đề văn bản đã “đọc” (cải biến) độc giả ra sao? Trong thời kỳ thứ hai, Iser tập trung nghiên cứu nguyên nhân cũng như mục đích con người tìm đến với văn học và phát hiện ra vai trò quan trọng của hành động hư cấu, tưởng tượng trong vấn đề này. Theo đó, hư cấu và tưởng tượng giúp con người mở rộng, siêu việt những giới hạn trong hiện thực, tự sáng tạo VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 70 nên chính mình và thế giới, từ đó tìm thấy tự do, thoát khỏi những trói buộc và bất mãn ở thực tại. Tài liệu tham khảo Holub R. C. (1984). Reception theory: Acritical introduction. London and NewYork: Methuen. Trong Kim Nguyên Phố và Chu Ninh (dịch) (1987) 金元浦&周宁(译). Mỹ học tiếp nhận và Lý thuyết tiếp nhận 接受美 学与接受理论. Nxb. Nhân dân Liêu Ninh 辽 宁人民出. Iser, W. (1978). The Act of Reading: A Theory of Aesthetic Response. Kim Huệ Mẫn, Trương Vân Bằng, Trương Dĩnh và Dịch Hiểu Minh (dịch) (1991) 金惠敏&张云 鹏 & 张颖&易 晓明 (译). Hành động đọc 阅读 行为. Nxb. Văn nghệ Hồ Nam 湖南文艺出版社. Iser, W. (1991). The Fictive and The Imaginary: Charting literary anthropology. Trần Định Gia và Uông Chính Long (dịch) (2003) 陈定 家&汪正龙(译). Hư cấu và tưởng tượng: giới hạn của nhân học văn học 虚构与想像:文学 人类学疆界. Nxb. Nhân dân Cát Lâm 吉林 人民出版. Iser, W. (2006). How to Do Theory?. Chu Cương, Cốc Đình Đình và Phan Ngọc Sa (dịch) (2008)朱刚&谷婷婷&潘玉莎(译). Làm lý luận như thế nào? 怎样做理论. Nxb. Đại học Nam Kinh 南京大学出版. Uông Chính Long 汪正龙 (2005). Lý luận hư cấu văn học và ý nghĩa của Iser 沃尔夫冈:伊瑟 尔 的文学虚构理论及其意义. Tạp chí Bình luận Văn học 文学评, số 5. Kim Nguyên Phố 金元浦 (1998). Lý luận phản ứng thẩm mỹ 接受反应文论. Nxb. Giáo dục Sơn Đông 山东教育出版社. Ngô Phục Sinh 吴伏生 (2013). Nghiên cứu Đào Uyên Minh trong thế giới Anh ngữ 英语世界的陶渊 明研究. Nxb. Học phạm 学苑出版社. Huỳnh Vân (2009). Vấn đề Tầm đón đợi và xác định tính nghệ thuật trong Mỹ học tiếp nhận của Hans Robert Jauss. Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3.
File đính kèm:
- ly_thuyet_tiep_nhan_cua_wolfgang_iser.pdf