Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của đỗ tiến thụy nhìn từ diễn ngôn nghệ thuật
Lời văn nghệ thuật là yếu tố quan trọng hàng đầu trong hình thức tác phẩm. Nó có
vai trò nối kết các yếu tố hình thức khác để cấu thành nên một tác phẩm văn học hoàn
chỉnh. Nghiên cứu về lời văn nghệ thuật sẽ có nhiều hướng đi khác nhau. Với bài viết này,
chúng tôi sẽ xem xét lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy từ góc nhìn
diễn ngôn nghệ thuật với ba biểu hiện cơ bản: kết hợp diễn ngôn người kể chuyện và nhân
vật, đan xen diễn ngôn đối thoại và độc thoại, hòa phối diễn ngôn kể và tả.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của đỗ tiến thụy nhìn từ diễn ngôn nghệ thuật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của đỗ tiến thụy nhìn từ diễn ngôn nghệ thuật
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 76 LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ TIẾN THỤY NHÌN TỪ DIỄN NGÔN NGHỆ THUẬT Trần Văn Hải Trường THPT Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Tp. Hồ Chí Minh tranvanhai438@gmail.com Ngày nhận bài: 27/02/2019, Ngày duyệt đăng: 23/07/2019 Tóm tắt Lời văn nghệ thuật là yếu tố quan trọng hàng đầu trong hình thức tác phẩm. Nó có vai trò nối kết các yếu tố hình thức khác để cấu thành nên một tác phẩm văn học hoàn chỉnh. Nghiên cứu về lời văn nghệ thuật sẽ có nhiều hướng đi khác nhau. Với bài viết này, chúng tôi sẽ xem xét lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy từ góc nhìn diễn ngôn nghệ thuật với ba biểu hiện cơ bản: kết hợp diễn ngôn người kể chuyện và nhân vật, đan xen diễn ngôn đối thoại và độc thoại, hòa phối diễn ngôn kể và tả. Từ khóa: diễn ngôn nghệ thuật, Đỗ Tiến Thụy, lời văn nghệ thuật. The artistic style in the novel of Do Tien Thuy from artistic discourse Abstract The artistic style is the most important factor in the form of work that has the role of linking other formal factors to constitute a complete literary work. Study on artistic style will have many different directions. In this article, a review of creative style in Do Tien Thuy's novel is considered from perspective of artistic discourse with three basic expressions: combining discourse of storytellers and characters, interplaying discourse of dialogue and monologue, harmonizing discourse of narrative and description. Keywords: artistic discourse, Do Tien Thuy, artistic style. 1. Mở đầu “Mọi tác phẩm văn học đều được viết hoặc kể bằng lời: lời thơ, lời văn, lời tác giả, lời nhân vật gộp chung lại gọi là lời văn. Nếu ngôn từ - tức là lời nói, viết trong tất cả tính chất thẩm mỹ của nó là chất liệu của sáng tác văn học, thì lời văn là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học” (Phương Lựu, 2006: 313). Hình thức ngôn từ nghệ thuật này được coi là chiếc chìa khóa mở cánh cửa dẫn đắt độc giả vào không gian rộng lớn, hấp dẫn của thế giới văn chương. Thấu hiểu được điều đó, người nghệ sĩ đã sử dụng lời văn như một công cụ hữu hiệu để chuyển tải những tư tưởng, chủ đề trong các sáng tác của mình. Khi nhìn lời văn từ góc độ diễn ngôn nghệ thuật, chúng ta sẽ có cơ hội khám phá ra nhiều vẻ đẹp khác nhau của ngôn từ cũng như giá trị ẩn chứa trong mỗi “đứa con tinh thần” của các nhà văn. Với bài viết này, chúng tôi tập trung tìm hiểu lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy nhìn từ diễn ngôn nghệ thuật. VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 77 Hy vọng, nó sẽ giúp cho độc giả củng cố thêm những hiểu biết về lời văn nghệ thuật, diễn ngôn nghệ thuật cũng như thấy được vẻ sáng đẹp trong tiểu thuyết Màu rừng ruộng và Con chim joong bay từ A đến Z của nhà văn hiện đang khoác áo lính. 2. Khái lược về lời văn nghệ thuật và diễn ngôn nghệ thuật Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa: “Lời văn nghệ thuật là dạng phát ngôn được tổ chức một cách nghệ thuật, tạo thành cơ sở ngôn từ của văn bản nghệ thuật” (Lê Bá Hán, 2010: 129). Nó thực chất là lời nói tự nhiên nhưng đã được tổ chức theo một quy luật nghệ thuật về mặt nội dung, phương pháp, phong cách, thể loại. Muốn hiểu được lời văn nghệ thuật, chúng ta phải đặt vào trong toàn bộ ngữ cảnh mà văn bản nghệ thuật đó tồn tại. Có thể xem văn học là nghệ thuật diễn ngôn. Lời văn nghệ thuật là một chỉnh thể được cấu thành từ một hay nhiều thành phần diễn ngôn. Các thành phần diễn ngôn trong tác phẩm văn học rất đa dạng như: diễn ngôn thơ, diễn ngôn văn xuôi, diễn ngôn trần thuật, diễn ngôn thoại (đối thoại, độc thoại) Nghiên cứu lời văn nghệ thuật từ góc nhìn diễn ngôn nghệ thuật, chúng ta sẽ thấy được mối quan hệ giữa văn học và văn hóa, ngôn ngữ và văn học, tính xã hội và tính thẩm mỹ của văn học Theo Phương Lựu (2006), lời văn nghệ thuật có hai đặc trưng quan trọng. Thứ nhất, là nó mang tính hình tượng từ trong nội dung của lời nói. Tính hình tượng này bắt nguồn từ chỗ lời văn là lời của một chủ thể tư tưởng thẩm mỹ xã hội có tầm khái quát nhất định. Nhờ thế, lời của một người dễ dàng đi vào lòng người, trở thành lời nói của muôn người. Nó còn bắt nguồn từ sự truyền đạt sự vận động, động tác nội tại của toàn bộ thế giới, cảnh vật, con người được tái hiện trong tác phẩm. Thứ hai là lời văn nghệ thuật có tính tổ chức cao nhằm mục đích giải phóng tính hình tượng của ngôn từ. Đặc trưng này xuất phát từ yêu cầu khắc phục ý nghĩa thông thường của chất liệu lời nói. Khi được tổ chức chặt chẽ, mạch lạc, lời nói sẽ trở thành lời văn có tính nghệ thuật. Nó khiến cho người ta cảm nhận hiện thực đời sống cũng như lời nói một cách mới mẻ nhưng không kém phần sâu sắc. Lời văn nghệ thuật có vai trò rất quan trọng trong nghệ thuật tự sự. Nhà văn đã tư duy nghệ thuật dựa trên khả năng biểu đạt của chất liệu ngôn từ. Vì vậy, qua lời văn, toàn bộ thế giới nghệ thuật sẽ được định hình. Để từ đó, độc giả có cơ sở tìm hiểu, khám phá thế giới hình tượng và các lớp nội dung ý nghĩa của văn bản nghệ thuật. Nó còn truyền cho độc giả một điểm nhìn cá thế hóa theo ý đồ, cá tính sáng tạo của nhà văn, nhân vật hoặc có sự kết hợp đan xen cả hai nhằm mục đích đưa độc giả xâm nhập vào cuộc đời nhân vật văn học, sống cùng nhân vật và thấu cảm được những vấn đề nhân sinh. Diễn ngôn là khái niệm có nội hàm rất rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo tác giả Diệp Quang Ban (2009) trong công trình Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản, người đầu tiên sử dụng diễn ngôn như một khái niệm chuyên môn là nhà ngôn ngữ học người Bỉ E. Buysen. Nó được đề cập đến trong tác phẩm Hoạt động nói năng và văn bản (1943). Hiện nay, khái niệm diễn ngôn có ba hướng tiếp cận chủ yếu. Hướng thứ nhất từ ngôn ngữ học. Nền tảng của hướng tiếp cận này là những luận điểm của F. de Saussure trong Giáo trình ngôn ... ệc mình có vội vàng chấp nhận ly hôn không? Câu hỏi của một người đã lấy lại được bình tĩnh sau những rối ren. Hỏi rồi chính ông tự trả lời quyết định đó là đúng, không hề vội vàng VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 85 đâu. Cố gắng đến ngày hôm nay cũng là hay lắm rồi. Với ông, giàu sang, quý tộc không phải là mục tiêu. Tuy nhiên, điều ông hối hận lớn nhất là chưa chuẩn bị gì cho tình huống này nên phải rơi vào cảnh lang thang cơ nhỡ. Bao năm qua ông chỉ đắm đuối với lý tưởng, với công việc mà không hề bận tâm đến cơm áo gạo tiền. Giờ đây, trắng tay ông mới thấm thía tất cả. Dẫu vậy, ông cũng tự động viên mình cố gắng chịu đựng chút nữa rồi về quê sống an nhàn. Hàng loạt những nghĩ suy xuất hiện trong nhân vật Khoa bằng độc thoại ở dạng đối thoại tưởng tượng cho thấy đời sống nội tâm phong phú, phức tạp cũng như cách sống lương thiện, chuẩn mực của nhân vật trong mọi hoàn cảnh. Nếu diễn ngôn đối thoại hướng đến những tranh luận, xung đột căng thẳng, chát chúa; diễn ngôn độc thoại trực tiếp dẫn đến thế giới tâm hồn nhân vật thì sự đan xen giữa hai dạng diễn ngôn trên đã đưa người đọc đến từng cung bậc cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. Dù được lắp ghép, hòa phối, xâm nhập theo cách nào thì mục đích cuối cùng cũng là hướng tới thế giới nội tâm sâu kín của những chủ thể trong tác phẩm. Qua đó, chúng giúp Đỗ Tiến Thụy có thể gia tăng thêm nồng độ cảm xúc cho lời văn tự sự; kết dính các ý tứ trong cấu trúc diễn ngôn; thế giới nhân vật hiện lên sống động, rõ nét; lôi cuốn độc giả cùng tham gia vào hành trình khám phá từng phận người trong bức tranh hiện thực rộng lớn của tiểu thuyết Màu rừng ruộng và Con chim joong bay từ A đến Z. 3.3. Hòa phối diễn ngôn kể và tả Lại Nguyên Ân cho rẳng: “Nét đặc thù của tự sự là vai trò tổ chức của trần thuật: nó thông báo về các biến cố, các tình tiết như thông báo về một cái gì đó đã xảy ra và được nhớ lại, đồng thời mô tả hoàn cảnh hành động và dáng nét nhân vật, nhiều khi còn thêm cả những lời bình luận” (Lại Nguyên Ân, 2017: 455). Như vậy, bản thân nghệ thuật tự sự đã thống hợp trong nó diễn ngôn kể và diễn ngôn tả. Diễn ngôn kể đảm nhiệm chức năng trình bày diễn biến sự kiện, nhân vật, hành động, lời nói trong không gian, thời gian theo trật tự tuyến tính, sao cho người đọc có thể hiểu được. Diễn ngôn tả thì tái hiện trạng thái con người, sự vật, hành động trong không gian, thời gian. Ranh giới giữa hai hình thức diễn ngôn này luôn có chỗ giao nhau. Khi kể chi tiết thì đi gần đến tả, tả sơ lược thì chuyển sang kể. Vì vậy, khái niệm sự hòa phối diễn ngôn kể và tả được hiểu là sự hòa trộn, phối hợp, xen kẽ giữa kể, tả trong lời văn tự sự. Nói đến diễn ngôn kể là nhắc đến ngôi kể và điểm nhìn. Còn diễn ngôn tả cũng sẽ gắn với điểm nhìn của người kể chuyện hoặc nhân vật. Họ có thể tả ngoại cảnh, ngoại hình, nội tâm nhân vật một cách chi tiết, cụ thể. Sự hòa phối giữa chúng tạo sự sinh động, hấp dẫn cho câu chuyện. Một người kể chuyện khéo léo không chỉ biết dẫn đắt người đọc đi vào câu chuyện của mình một cách tự nhiên, đầy sự tò mò, thích thú mà còn biết dừng lại để chêm xen vào những diễn ngôn tả để tăng sức gợi cho lời kể, giúp người đọc hình dung chi tiết về bối cảnh diễn ra câu chuyện, về nhân dáng, về những ngõ ngách trong tâm hồn vốn nhiều bí ẩn của nhân vật. Thấu triệt được điều đó, Đỗ Tiến Thụy đã sử dụng sự hòa phối giữa diễn ngôn kể và tả rất đa dạng với nhiều cách thức khác nhau. Đó có thể là kể trước tả sau hoặc tả trước kể sau. Tất cả giúp cho cảnh vật, con người hiện ra không đơn điệu, nhàm chán. Để hiện thực hóa tình yêu đầu đời với chị Miền, Vinh trong Màu rừng ruộng đã TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 86 đi mua hoa hồng về trồng ở bãi đất ven sông: “Bãi sông hoang hoải. Những cây trúc quân tử thẳng nuột rào cánh sẻ. Những cây cải bắp giống KK81 Vinh mua tận Bắc Ninh bén rễ vào phù sa mơn mởn. Sớm tinh mơ Vinh đã trở dậy gánh đôi ô – roa ra bãi sông. Những giọt sương mai long lanh đậu trên cành lá tinh khôi như nước mắt chị Miền. Nước sông mùa đông buốt ngắt, mỗi lần thò xuống tưởng đâu rụng cẳng nhưng cũng không ngăn được ý chí của Vinh. Chị thấy chưa hở chị? Những bông hồng xanh đang ngày đêm xòe cánh, lớn lên” (Đỗ Tiến Thụy, 2017a: 93). Trong đoạn văn trên, diễn ngôn kể thông báo cho độc giả biết địa điểm trồng hoa ở bãi sông; nó có các loại cây như trúc quân tử, cải bắp giống KK81, hoa hồng xanh; Vinh đang cùng chị Miền ở đấy vào buổi sáng sớm tinh mơ. Còn diễn ngôn tả (được in đậm) đi vào miêu tả chi tiết hình dáng của cảnh vật và khung cảnh ven sông. Chúng hiện lên thật đẹp đẽ, thuần khiết, tinh khôi dù đang vào mùa đông. Cái mơn mởn của những cây cải bắp, giọt sương long lanh đậu trên cành lá và những bông hồng xanh ngày đêm xòe cánh, lớn lên bất chấp giá rét tượng trưng cho sự chân thành, ấm áp trong trái tim của cậu trai mới lớn dành cho chị Miền. Chính sự hòa phối giữa kể và tả đã mang lại giọng điệu trữ tình, nhẹ nhàng đầy chất thơ cho đoạn văn. Đồng thời, nó toát lên vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, đầy mộng mơ của nhân vật chính. Khi một mình, một voi đối đầu với đàn voi rừng hung dữ, Krol biết trước hậu quả. Thế nhưng, cậu vẫn chiến đấu như một Laigang thực thụ. Cái chết của cậu là cái chết vinh quang: “Đuốc được đốt lên. Đoàn săn lặng phắc cúi đầu trước cảnh tượng bi tráng. Chiếc ngà voi xuyên thấu thân cây giữ nguyên dáng chết của thớt voi dũng mãnh. Không thấy Krol đâu. Đoàn săn túa ra xung quanh soi từng gốc cây bụi cỏ. Họ chỉ thấy máu thịt chàng đỏ chói tóe lên cây lá thành những tia mặt trời, thành những đóa hoa bất tử. Trong ánh đuốc, nước mắt bò trên những khuôn mặt thợ săn đỏ lừ như nham thạch” (Đỗ Tiến Thụy, 2017a: 249). Lời kể chùng xuống nhưng không bi lụy. Bởi nó vừa kể vừa tả về cảnh tượng bi tráng ngay giữa núi rừng Tây Nguyên bạt ngàn. Lửa đuốc đốt lên cháy sáng một góc rừng. Cả đoàn săn voi túa ra đi tìm Krol nhưng không thấy chàng còn vẹn nguyên trong hình hài mà nó đã “tóe lên cây lá thành những tia mặt trời, những đóa hoa bất tử”. Những Laigang, những người đàn ông chân chính của tộc người M’Nông Yook Đôn đã khóc. Giọt nước mắt ấy đỏ lừ như nham thạch để xót thương cho một chàng trai dũng cảm vì một chút bồng bột của yêu thương mà phải trả giá bằng mạng sống của mình. Nhưng đó còn là những giọt nước mắt đầy cảm phục, trân trọng. Bởi họ hiểu, chàng trai trẻ ấy đã hóa thành những đóa hoa bất tử của lòng dũng cảm, ý chí sắt đá, kiên cường, của thái độ dám chịu trách nhiệm về những gì mình làm. Nhờ sự hòa phối giữa kể và tả, chúng ta còn nhận ra màu sắc huyền hoặc, kỳ ảo đậm chất Tây Nguyên trong lời kể ở đoạn văn này. Với hơn mười năm đóng quân ở Tây Nguyên, Đỗ Tiến Thụy khá am hiểu về thiên nhiên, con người, phong tục tập quán nơi đây. Vậy nên, những lời kể, lời tả trong tiểu thuyết của anh đều phảng phất dấu ấn văn hóa của vùng đất đỏ bazan. “Ông men theo lối cuội trắng sạch tinh ngắm suối. Dòng nước lững lờ hoa trôi đưa chân ông ngược nguồn. Sau lúc khom mình chui qua một vạt rừng ven suối có thân cây già đanh VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 5 87 quằn quại, mặc dù đã biết trước nhưng ông vẫn ngẩn người. Ngực ông giật lên những nhịp bồi hồi. Nơi này, ông và nàng đã từng có những giờ phút thần tiên. Ông đã cùng nàng bước như mơ giữa triệu triệu con bướm tím than nhịp cánh trên miên man hoa cỏ. Bao năm rồi cảnh vẫn hoang miên thế. Chỉ có người làÔng giật mình dụi mắt. Bóng sơn nữ bước ra từ xa xưa. Sơn nữ mê mải lựa những búp hoa vừa hé đưa lên mặt hít hà rồi thả nhẹ vào lưng gùi. Chiếc gùi đã ăm ắp sắc màu, trên tay cũng bộn bề hoa, sơn nữ rời gót” (Đỗ Tiến Thụy, 2017b: 146). Đó là lời của con chim joong trong tiểu thuyết Con chim joong bay từ A đến Z kể về lúc ông Khoa “chạy trốn” những rắc rối ở hiện tại. Ông chọn Tây Nguyên để lánh nạn. Đây là vùng đất hẻo lánh, nơi có thiên nhiên chan hòa, cuộc sống yên bình, thanh thản. Lời kể cho ta biết ông đi men theo một con suối, rồi chui qua vạt rừng và hồi tưởng lại thời khắc gặp được nàng (Y Linh) trong sự ngỡ ngàng, hạnh phúc ngất ngây. Xâm nhập vào diễn ngôn kể đó là những diễn ngôn tả về thiên nhiên ở hiện tại, thiên nhiên ở quá khứ, về hành động sơn nữ hái hoa bỏ vào gùiNhững chi tiết ấy dẫn dắt nhân vật quay trở về với thời quá khứ– thời ông và Y Linh có một mối tình đẹp đẽ, nguyên sơ, thuần khiết. Cũng trong dòng hồi tưởng miên man, ở một đoạn khác, ông tiếp tục nhớ về lần gặp lại Y Linh sau hơn mười năm. Điều ngạc nhiên là nàng vẫn sống một mình, cách xa với dân làng và chờ đợi ông. Thế là, sau bao kìm nén, bức bối trong đời sống vợ chồng với bà Nga, ông đã “lao vào nàng” với tất cả sự cuồng say: “Đó là lần đầu tiên trong đời ông mới biết thế nào là khoái cảm tuyệt đỉnh. Nằm ngửa bên nhau trên thảm cỏ dập ứa mùi hăng ngọt nhìn mây trắng bay lâng lâng trên trời xanh thênh thang, nàng thủ thỉ kể về mình. Nàng bị vu là ma lai từ năm mười ba tuổi. Cái lí những người đàn bà trong làng đưa ra không ai cãi được. Không là ma lai thì tại sao người nó lại tỏa ra mùi ma, đi đến đâu bướm theo đến đó. Không là ma lai thì tại sao đàn ông có vợ nhìn thấy nó là bỏ bê nương rẫy, ở nhà ôm ghè rượu tới say rồi chửi vợ mắng con. Không là ma lai thì tại sao trai tráng nhìn nó là không còn muốn đi săn, mà dùng lao dùng nỏ đánh nhau náo loạn buôn làng Ông lật người nằm nghiêng, một tay chống đầu, tay kia đặt lên bầu ngực no nê còn ửng hồng dưới nắng, hấp háy nhìn vào mắt nàng tủm tỉm cười. Nàng bật hỏi cười gì thế. Ông không trả lời. Ông không thể nói cho nàng nghe cái ý nghĩ vừa vụt đến trong đầu. Nhan sắc là thứ bị đố kỵ bậc nhất. Đời ông thậm ghét sự đố kỵ, nhưng lúc đó ông lại thầm biết ơn. Nhờ nó mà nàng được đẩy ra rừng để dành riêng cho ông” (Đỗ Tiến Thụy, 2017b: 170 - 171). Trường hợp này có ba người kể chuyện. Một là nhân vật Khoa kể lại ký ức gặp Y Linh. Hai là Y Linh kể cho Khoa nghe vì sao mình bị dân làng vu là ma lai. Ba là con chim joong kể lại lời của hai người kia cho chúng ta nghe. Lời kể chậm rãi, đầy chất thơ, xốn xang cảm xúc. Nó được đan xen với lời tả về những hành động của ông Khoa khi nằm bên cạnh Y Linh. Hành động của kẻ đang ngất ngây, rạo rực trong men say của ái tình: “Nằm ngửa bên nhau trên thảm cỏ dập ứa mùi hăng ngọt nhìn mây trắng bay lâng lâng trên trời xanh thênh thang Ông lật người nằm nghiêng, một tay chống đầu, tay kia đặt lên bầu ngực no nê còn ửng hồng dưới nắng, hấp háy nhìn vào mắt nàng tủm tỉm cười”. Ngoài ra, diễn ngôn tả còn cho biết những nghĩ suy diễn ra đầu Khoa. Ông TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 5 88 thấu hiểu vì sao những người đàn bà trong buôn làng lại vu cho Y Linh là ma lai. Vì họ đố kỵ với nhan sắc của nàng. Nhưng cũng chính nhờ thế, nàng mới dành cho riêng ông. Phải chăng đây là định mệnh? Định mệnh này mang đến cho ông một quãng đời đẹp nhất, đong đầy men say của hạnh phúc. Thứ hạnh phúc mà khi quay trở về với công việc, với gia đình ở Hà Nội ông sẽ không bao giờ có. Sự hòa phối giữa diễn ngôn kể và tả trong hai cuốn tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy là điều hiển nhiên. Nó hiện tồn như điều bắt buộc phải có trong nghệ thuật tự sự. Không thể nói cái nào quan trọng hơn cái nào. Bởi độ đậm – nhạt khi hòa phối chúng còn tùy thuộc vào ngữ cảnh, vào ý đồ của người sáng tác. Dù ở mức độ nào thì chúng cũng luôn song hành, bổ trợ cho nhau giúp cho câu chuyện được kể thêm hay hơn, lôi cuốn hơn; hiện thực đời sống đi vào chi tiết, cụ thể; thế giới nhân vật hiện lên chân thực, góc cạnh. 4. Kết luận Lời văn thuộc về hình thức nên nó phải gắn bó chặt chẽ và phục tùng nội dung tác phẩm. Các phương tiện, phương thức được sử dụng chỉ trở thành lời văn nghệ thuật khi nó gắn liền với một nội dung cụ thể và biểu hiện đắc lực cho nó. Nghiên cứu lời văn nghệ thuật nhìn từ diễn ngôn nghệ thuật trong tiểu thuyết Màu rừng ruộng và Con chim joong bay từ A đến Z của Đỗ Tiến Thụy, mọi người sẽ thấy chúng đều biểu đạt những nội dung cụ thể. Đó có thể là nỗi day dứt, đớn đau của người cha khi thấy con mình dang dở đường công danh; sự ê chề của người chồng khi bị vợ xỉa xói; niềm hả hê của người nông dân lúc giành lại việc làm cho đàn trâu làng; tâm trạng bức xúc khi thấy con cháu mình trắng trợn tham nhũng, nhận hối lộ; lòng dũng cảm, tự trọng của một thợ săn voi; vẻ đẹp mê hồn của thiên nhiên Bắc Bộ và Tây Nguyên Vì vậy, sự kết hợp diễn ngôn người kể chuyện và nhân vật, đan xen diễn ngôn đối thoại - độc thoại, hòa phối giữa diễn ngôn kể - tả đã góp phần không nhỏ làm nên thành công trong nghệ thuật tự sự ở tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy. Tài liệu tham khảo Lại Nguyên Ân (2017). 150 thuật ngữ văn học. Hà Nội, Nxb Văn học. Diệp Quang Ban (2009). Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản. Hà Nội, Nxb Giáo dục. Lê Bá Hán (chủ biên) (2010). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà Nội, Nxb Giáo dục. Đoàn Thị Minh Huyền (2014). Đặc điểm diễn ngôn trần thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Luận văn Thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh. Phương Lựu (chủ biên) (2006). Lý luận văn học. Hà Nội, Nxb Giáo dục. David Numan (1997). Hồ Mỹ Huyền, Trúc Thanh dịch. Dẫn nhập phân tích diễn ngôn. Hà Nội, Nxb Giáo dục. Pilin, I. P. và Tzurganova, E. A. (-). Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân, Trần Hồng Vân dịch (2003). Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX. Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Đỗ Tiến Thụy (2017a). Màu rừng ruộng. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ. Đỗ Tiến Thụy (2017b). Con chim joong bay từ A đến Z. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ.
File đính kèm:
- loi_van_nghe_thuat_trong_tieu_thuyet_cua_do_tien_thuy_nhin_t.pdf