Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt

Trong bài viết này, chúng tôi nghiên cứu các yếu tố không gian tri nhận của động từ tri giác

tiếng Việt và tiếng Anh dựa trên ngữ liệu là 3.946 câu đã khảo sát có chứa động từ tri giác trong

hai bộ tác phẩm song ngữ Anh - Việt, Việt - Anh: Những cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes và

Tình yêu sau chiến tranh.

Qua nghiên cứu, chúng tôi đã ghi nhận được các yếu tố chi phối không gian tri nhận của động

từ tri giác gồm có các yếu tố bên trong và bên ngoài. Dựa trên những đặc điểm tri nhận rút ra từ

nghiên cứu này, chúng ta có thể giải thích được nhiều vấn đề ngôn ngữ như ẩn dụ, hoán dụ, ý niệm

hóa, cách thức ngôn ngữ được hình thành trong tâm thức chúng ta và được hiểu giữa người nghe

và người nói, cách chúng ta tạo ra và tri nhận ngôn ngữ,.

Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt trang 1

Trang 1

Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt trang 2

Trang 2

Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt trang 3

Trang 3

Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt trang 4

Trang 4

Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt trang 5

Trang 5

Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt trang 6

Trang 6

Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt trang 7

Trang 7

Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt trang 8

Trang 8

Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 7940
Bạn đang xem tài liệu "Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt

Không gian tri nhận của động từ tri giác Tiếng Việt
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 
17 
KHÔNG GIAN TRI NHẬN CỦA ĐỘNG TỪ TRI GIÁC TIẾNG VIỆT 
Nguyễn Hoàng Phương 
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh 
nguyenhoangphuong@hcmussh.edu.vn 
Ngày nhận bài: 17/9/2018; Ngày duyệt đăng: 17/12/2018 
Tóm tắt 
Trong bài viết này, chúng tôi nghiên cứu các yếu tố không gian tri nhận của động từ tri giác 
tiếng Việt và tiếng Anh dựa trên ngữ liệu là 3.946 câu đã khảo sát có chứa động từ tri giác trong 
hai bộ tác phẩm song ngữ Anh - Việt, Việt - Anh: Những cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes và 
Tình yêu sau chiến tranh. 
Qua nghiên cứu, chúng tôi đã ghi nhận được các yếu tố chi phối không gian tri nhận của động 
từ tri giác gồm có các yếu tố bên trong và bên ngoài. Dựa trên những đặc điểm tri nhận rút ra từ 
nghiên cứu này, chúng ta có thể giải thích được nhiều vấn đề ngôn ngữ như ẩn dụ, hoán dụ, ý niệm 
hóa, cách thức ngôn ngữ được hình thành trong tâm thức chúng ta và được hiểu giữa người nghe 
và người nói, cách chúng ta tạo ra và tri nhận ngôn ngữ,... 
Từ khóa: không gian tinh thần, không gian tri nhận, động từ tri giác, quá trình tâm thức, các 
yếu tố chi phối 
The cognitive space of the Vietnamese perception verbs 
Abstract 
In this article, we examine the cognitive space elements of the Vietnamese and English perception 
verbs, based on the research data of 3,946 surveyed statements with perception verbs from two sets 
of English-Vietnamese, Vietnamese-English novels: The adventures of Sherlock Holmes and Love 
after war. 
Through this research, the cognitive space elements of the perception verbs including internal 
and external factors are recognized. Based on the perceived characteristics drawn from this study, 
many linguistic problems such as metaphor, metonymy, conceptualization are explained and how 
language is formed in our mind and how it is understood between speakers and listeners, and how 
perceive language is created. 
Keywords: mental space, cognitive space, perception verbs, mental process, dominant factors 
1. Lý thuyết không gian tri nhận 
Trong mối tương tác giữa thực tế và ngôn ngữ 
chúng ta có không gian khách quan, không gian 
tâm thức phản ánh bên trong nhận thức của chúng 
ta và không gian ngôn ngữ. 
Fauconier (1995) cho rằng một biểu thức ngôn 
ngữ bất kỳ nào cũng sẽ gợi lên một vùng không 
gian tinh thần trong tâm thức của chủ thể tiếp 
nhận. Chẳng hạn với biểu thức ngôn ngữ Tôi thấy 
cây, chúng ta có một không gian cơ sở hay không 
gian thực trong đó có hai thực thể là a: tôi và b: 
cây. Từ không gian cơ sở này đã phản ánh vào tâm 
thức của chủ thể một không gian tinh thần có hai 
yếu tố a’: tôi và b’: cây với ý niệm là Tôi thấy cây. 
 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 
18 
Trong phạm vi của bài báo này, chúng tôi 
nghiên cứu về không gian tri nhận của động từ 
tri giác tiếng Việt theo quan điểm của Giles 
Fauconier. 
2. Đặc điểm của không gian tri nhận 
Không gian tri nhận còn có thể coi là không 
gian giả lập của không gian thực được tạo dựng 
nên trong tâm thức của người sử dụng ngôn ngữ. 
Không gian giả lập đôi khi không nhất thiết phải 
trùng khớp hoàn toàn với không gian thực. Tính 
chân ngụy của nó đối với không gian thực đôi 
khi chỉ là tương đối. Nó chỉ có giá trị trong ngôn 
ngữ, trong tâm thức của người sử dụng ngôn 
ngữ, không đòi hỏi cao về khoa học tự nhiên, 
chính xác. Chẳng hạn các ý niệm “con rồng”, 
“con kỳ lân” chỉ tồn tại trong không gian tinh 
thần mà thôi. Và cũng chẳng ai nghi vấn gì với 
câu nói “Trong ký ức tôi thấy tháp Eiffel chỉ mới 
xây dựng được một nửa thôi.” dù ai cũng có thể 
dễ dàng nhận ra cái không gian giả lập mà câu 
này tạo ra hoàn toàn không đúng với sự thực 
hiện tại. 
Không gian tri nhận là một chỉnh thể phối 
cảnh lớn có thể có nhiều tầng nhiều lớp. Trong 
mỗi không gian tri nhận chứa đựng các thành tố 
của nó và các không gian này được dựng lên từ 
các khung tri nhận và mô hình tri nhận mà biểu 
thức ngôn ngữ phản ánh. 
Không gian tri nhận được dựng nên phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố như khả năng lược đồ 
hóa, tri thức nền, phương thức phân tích, tổng 
hợp, ánh xạ, phân vùng ý niệm, văn hóa, kinh 
nghiệm của chủ thể. 
Vì có nhiều yếu tố đa đạng phức tạp chi phối 
không gian tri nhận nên trong ngôn ngữ các phát 
ngôn chịu sự tác động của nhiều hệ quy chiếu 
không gian khác nhau như không gian quyền lực 
hay địa vị, không gian địa lý, không gian văn 
hóa, không gian kinh nghiệm, không gian tri 
thức Chẳng hạn với cùng một đối thể là Ủy 
ban Phường nhưng sẽ có thể có nhiều phát ngôn 
khác nhau: 
Tôi lên Phường. (1) 
Tôi xuống Phường. (2) 
Tôi ra Phường. (3) 
Tôi vào Phường. (4) 
Tôi đến Phường. (5) 
Trong năm ví dụ vừa nêu có sự đan xen chi 
phối của không gian quyền lực, không gian địa 
lý và không gian văn hóa. 
Ứng dụng không gian tri nhận có thể giải 
thích được rất nhiều vấn đề trong ngôn ngữ 
chẳng hạn như vấn đề tri nhận vị trí không gian, 
vấn đề năng lực ngôn ngữ hay vấn đề cụ thể 
như phân biệt ẩn dụ và hoán dụ. Ẩn dụ là phép 
chuyển đổi tiêu điểm từ không gian tri nhận này 
sang một không gian tri nhận khác. Hoán dụ là 
phép chuyển đổi tiêu điểm trong cùng một 
không gian tri nhận. 
3. Các yếu tố trong không gian tri nhận 
của động từ tri giác 
Các yếu tố trong không gian tri nhận hay 
cũng có thể coi là các yếu tố trong khung tri 
nhận như cách gọi trong nhiều công trình nghiên 
cứu đã quen thuộc với chúng ta. 
Trong Khung ngữ nghĩa học, các từ được 
hiểu trong mối liên hệ với cấu trúc chìm. Khung 
(phông, mô hình) sẽ cung c ... ng ta mới có thể phân biệt 
được ý nghĩa khác nhau giữa hai câu sau: 
 He smells good. 
và He smells well. 
3.11. Tiêu điểm tri nhận 
Theo lý thuyết thông tin thì mọi thông điệp 
phát ra đều có tiêu điểm thông tin của nó. Với 
nhóm động từ tri giác cũng vậy. Trong các phát 
ngôn của nó đều có tiêu điểm tri nhận. 
Vd: Tôi thấy chiếc xe đậu trong sân. 
Với ví dụ này thì cái tiêu điểm tri nhận cần 
tập trung là chiếc xe, còn sân chỉ là bối cảnh nền 
mà thôi. 
Trong ngôn ngữ, khi sử dụng thao tác chuyển 
đổi tiêu điểm tri nhận trong cùng không gian tri 
nhận để đại diện cho một tiêu điểm tập hợp thì 
đó là phép hoán dụ. 
Vd: Tôi thấy đó là chân sút chủ lực của đội 
bóng. 
Với ví dụ này thì không gian tri nhận là một 
cầu thủ nhưng người nói đã hướng tiêu điểm của 
mình vào chân của cầu thủ vì đã là cầu thủ đá 
bóng thì chân là một tiêu điểm rất có giá trị về 
mặt ý nghĩa thông tin. 
Trường hợp khác nếu chuyển đổi một tiêu 
điểm tri nhận trong một không gian tri nhận này 
để áp lên một tiêu điểm tri nhận trong một không 
gian khác thì đó là phép ẩn dụ. 
Vd: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng, 
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. 
(Viếng lăng Bác, Viễn Phương) 
Ở đây chúng ta cũng cần phải hiểu rõ là tiêu 
điểm và điểm nhìn là hai khái niệm khác nhau. 
Tiêu điểm là mục tiêu còn điểm nhìn là khởi 
phát. Nếu như nhìn là một quá trình thì tiêu điểm 
là ngọn, là đích còn điểm nhìn là gốc. Điểm nhìn 
là chỗ từ đó người ta hướng đi đến đích còn tiêu 
điểm là đích mà người ta muốn hướng đến. 
Ngoài ra, tiêu điểm là cái luôn nằm bên trong 
không gian tri nhận còn điểm nhìn có thể nằm 
ngoài không gian tri nhận. 
Vd: Arthur nói, đôi mắt nhìn xuống. 
Với ví dụ này thì tiêu điểm thông tin là đôi 
mắt nhìn xuống, nhưng điểm nhìn thì có thể là 
từ Arthur nhìn xuống, nhưng cũng có thể là từ 
nhân vật bên ngoài quan sát Arthur. 
3.12. Độ nét 
 Không gian tri nhận có chứa đựng nhiều 
thông tin nên chắc chắn nó sẽ được phản ánh 
qua độ nét tức là mức độ thông tin có được. 
Vd: thấy rõ, thấy không rõ, thấy hơi mờ, 
không thấy gì, thấy rất rõ từng chi tiết 
3.13. Phân lớp 
Là một phối cảnh không gian phức tạp nên 
chắc chắn sẽ có sự phân lớp không gian. Chúng 
ta hoàn toàn có thể kiểm chứng điều đó trong 
ngôn ngữ. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 
23 
Vd: nhìn bên ngoài, nhìn bên trong, nhìn 
từng mặt, nhìn sâu hơn 
Không gian tri nhận có thể bố trí đa phân lớp. 
Vd: Tôi thấy hắn nhìn cô gái. 
Phân lớp 1 
Phân lớp 2 
3.14. Quy hoạch 
Quy hoạch là cách bố trí không gian. Vì 
không gian tri nhận phản ánh không gian thực 
nên nó cũng sẽ có quy hoạch. Trong ngôn ngữ 
chúng ta thấy có nhiều cách diễn đạt quy hoạch 
không gian. 
Vd: nhìn tổng thể, nhìn chi tiết, nhìn ngang, 
nhìn dọc, nhìn từ dưới lên, nhìn từ trên xuống, 
nhìn toàn cảnh, nhìn toàn cục, nhìn tổng quan, 
nhìn cụ thể 
3.15. Cách thức tri nhận 
Là cái cách mà hoạt động tri nhận được tiến 
hành, cách thức diễn ra sự tình. 
Vd: - Hắn cay đắng nhìn nàng. 
- Tay cầm ngược tờ báo mà miệng gã cứ há 
hốc nghe nàng cười nói. 
- Mì rút tay khỏi áo Ngoan, sờ nhẹ lên môi 
Ngoan. 
3.15.1. Tri nhận trực tiếp 
Là cách thức mà chủ thể tri nhận được đối 
tượng một cách trực tiếp ngay sau một hoạt 
động tri giác. 
Vd: Nhìn qua vai anh, tôi thấy một thiếu phụ, 
thân hình đẫy đà, đang đứng trên lề đường đối diện. 
Ở đây quá trình tri nhận có thể được diễn giải 
như sau: Tôi nhìn qua vai anh rồi tôi thấy một 
thiếu phụ, thân hình đẫy đà, đang đứng trên lề 
đường đối diện. Đó là tri nhận trực tiếp, vì tôi 
trực tiếp nhìn thấy điều đó. 
3.15.2. Tri nhận gián tiếp 
Thế nhưng không phải lúc nào cũng sau một 
hoạt động tri giác là chủ thể đã tri nhận được đối 
tượng một cách dễ dàng mà nhiều khi đó là cả 
một quá trình phức tạp của phán đoán, suy luận, 
so sánh đối chiếu, tổng hợp, phân tích, bằng cả 
một kiến thức, một kinh nghiệm sống phong phú 
mới rút ra được kết quả tri nhận. 
Vd 1: Trăng sáng quá, sáng đến nỗi từ xa, rất 
xa vẫn thấy máu trong ngực bà đang chảy. 
Ở đây chắc chắn là chúng ta không thể nào 
nhìn thấy máu trong ngực bà đang chảy một 
cách trực tiếp được. Mà điều đó chỉ có thể thấy 
được bằng một kinh nghiệm sống mà thôi. Nếu 
so sánh câu ví dụ trên với câu sau: 
Vd 2: Nhưng vừa thấy cô, tôi biết mình 
không thể làm chuyện đó. 
Rõ ràng chúng ta thấy ví dụ 1 là một câu có 
chứa đựng hoạt động tri nhận gián tiếp còn ở ví 
dụ 2 chứa đựng một hoạt động tri nhận trực tiếp. 
3.16. Logic tri nhận 
Mỗi sự vật hiện tượng khi được con người tri 
giác rồi tri nhận đều theo những cách thức đặc 
trưng nào đó. Tiếp theo đến quá trình chuyển đổi 
thông tin tri nhận thành mã ngôn ngữ để phát 
thông tin đến đối tượng giao tiếp rồi đối tượng 
đó sẽ tiếp nhận mã, giải mã để thấu hiểu thông 
tin từ đó mới có thể thực hiện chu trình ngược 
lại. Thế nên cái quá trình giao tiếp đó chắc chắn 
phải có những quy tắc của nó. Để giao tiếp thành 
công, để các đối tượng giao tiếp hiểu nhau thì 
cần phải có hệ thống các quy tắc logic tri nhận. 
Đối với nhóm động từ tri giác đang nghiên 
cứu thì logic tri nhận của chúng cũng có nhiều 
điểm vô cùng thú vị. Chẳng hạn xét các ví dụ 
sau đây: 
Mary sees every frog jump. (1) 
Mary sees nobody dance. (2) 
Every frog is seen by Mary to jump. (3) 
There is nobody there, so, Mary can see 
nobody dance. (4) 
There is nobody who Mary sees dance. (5) 
There is somebody dance, however, Mary 
can’t see any. (6) 
Đối với câu (1) thì mọi việc đã quá rõ ràng, 
vì thế câu (3) là câu chuyển đổi hoàn toàn chính 
xác của (1). Tuy nhiên, đến câu (2) thì vấn đề sẽ 
phức tạp hơn. Với một phát ngôn bất chợt như 
(2) thì chúng ta sẽ có đến ba cách thông hiểu 
phát ngôn này như ở (4), (5) và (6). 
Logic tri nhận của động từ tri giác thuộc về 
cả logic hình thức và logic phi hình thức. Trong 
nhiều trường hợp tính chân ngụy của nó không 
đóng vai trò gì và chẳng đóng góp ý nghĩa gì để 
quyết định một phát ngôn là đúng hay sai. Trên 
thực tế giao tiếp thì sẽ cần thêm nhiều thao tác 
khác để có thể hiểu và tương tác ngôn ngữ, giao 
 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 
24 
tiếp với nhau thành công. Ví dụ như với trường 
hợp sau: “Hắn nhìn mãi mà không thấy có cây 
bút trên bàn.” thì việc trên bàn thực sự có “cây 
bút” hay không chẳng ảnh hưởng gì đến tính 
chân ngụy của phát ngôn này. Và sẽ không thể 
hiểu trọn vẹn hết các nét nghĩa của phát ngôn 
này nếu không có sự liên kết thông tin, các thao 
tác phối cảnh khác chằng hạn như kết nối tiếp 
với một trong hai trường hợp sau đây: 
- Hắn đành qua phòng bên tìm. (1) 
- Hắn thật là sơ xuất. (2) 
4. Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng không 
gian tri nhận của động từ tri giác 
4.1. Văn hóa 
Văn hóa là một yếu tố chi phối tri nhận ngôn 
ngữ. Chẳng hạn với cùng một biểu thức ngôn 
ngữ “Tôi thấy một con rồng.”, tuy nhiên tiếp 
nhận nó là hai người khác nhau, một người châu 
Á và một người châu Âu, thì ngay lập tức cái 
không gian tri nhận được dựng lên trong tâm 
thức hai người này về hình ảnh và các thuộc tính 
của con rồng sẽ là rất khác nhau. 
4.2. Trí tuệ 
Trí tuệ cũng là một yếu tố chi phối tri nhận 
ngôn ngữ. Ví dụ với cùng một biểu thức ngôn 
ngữ là “ngôi sao”, nhưng với hai người khác 
nhau, một người có kiến thức hiểu biết tốt về vật 
lý học, về khái niệm và định nghĩa thế nào là 
một ngôi sao và một người chưa có kiến thức 
vật lý đó, thì khả năng tri nhận của hai người 
này về ngôi sao sẽ rất khác nhau. Người có kiến 
thức vật lý thì biết rằng trong Thái dương hệ chỉ 
có một ngôi sao duy nhất là Mặt trời. Còn người 
kia cho rằng Thái dương hệ có mười ngôi sao 
chẳng hạn. 
4.3. Dân tộc 
Yếu tố dân tộc cũng chi phối tri nhận ngôn 
ngữ. Ví dụ như người châu Á, châu Âu và châu 
Phi vì thuộc các dân tộc khác nhau có các thuộc 
tính giống nòi khác nhau nên trong tri nhận của 
từng giống người này về ý niệm ‘cao’ sẽ rất khác 
nhau về chuẩn mực mà một người sẽ được coi 
là ‘cao’. 
4.4. Địa lý 
Yếu tố địa lý cũng tác động sâu sắc tới khả 
năng tri nhận, từ đó ảnh hưởng đến việc chủ thể 
phát ngôn sẽ lựa chọn biểu thức ngôn ngữ như 
thế nào. Ví dụ người Tây nguyên nói là ‘xuống 
Sài Gòn’ trong khi đó người miền Tây nói là ‘lên 
Sài Gòn’. Nói như thế thì hoàn toàn là do yếu tố 
địa lý chi phối. 
4.5. Tư duy 
Con người có tư duy. Con người khi sử dụng 
ngôn ngữ có ý thức thì càng cần phải có tư duy. 
Tư duy là một yếu tố chi phối mạnh đối với ngôn 
ngữ. So sánh đối chiếu tiếng Anh và tiếng Việt 
chúng ta thấy có điểm thú vị về tư duy. Ví dụ 
trong tiếng Việt chúng ta nói ‘một ngôi nhà đẹp’ 
nghĩa là chúng ta tư duy đi từ tổng thể rồi mới 
đến thuộc tính. Trong khi đó với tiếng Anh thì 
nói là ‘a beautiful house’. Đây là tư duy đi từ 
thuộc tính rồi mới đến tổng thể. Như vậy người 
Việt thích tư duy diễn dịch trong khi người Anh 
lại có lối tư duy quy nạp? Điều này cần phải 
được khảo sát, nghiên cứu và chứng minh. Tuy 
nhiên qua đây cũng phần nào cho thấy tư duy có 
chi phối ngôn ngữ và tri nhận ngôn ngữ. 
5. Kết luận 
Tổng kết lại qua những gì đã nghiên cứu, 
khảo sát được chúng ta thấy không gian tri nhận 
là một lý thuyết hoàn toàn đúng đắn trong 
nghiên cứu ngôn ngữ học theo quan điểm tri 
nhận, đã được kiểm chứng không chỉ riêng trong 
lĩnh vực ngôn ngữ mà cả tâm lý học, thần kinh 
học, văn hóa học, triết học, dân tộc học Vận 
dụng đặc điểm không gian tri nhận có thể giải 
thích các vấn đề ngôn ngữ khác nhau vô cùng 
hiệu quả. 
Đi vào nghiên cứu cụ thể chúng ta cũng đã 
thấy không gian tri nhận của động từ tri giác là 
một chỉnh thể phức hợp bao gồm nhiều yếu tố 
cả bên trong và bên ngoài như chủ thể tri nhận, 
thực thể được tri nhận, cơ quan tri giác, cách 
thức tri nhận, vị trí tri nhận, đường dẫn tri nhận, 
nguồn, chiều tri nhận, cơ chế nhận – phát, điểm 
nhìn, khoảng cách tri nhận, tri nhận trực tiếp và 
tri nhận gián tiếp, tính tri giác, độ nét, quy 
hoạch, phân lớp, văn hóa, trí tuệ, địa lý, dân tộc, 
tư duy... 
Thêm nữa, không gian tri nhận của động từ 
tri giác có logic tri nhận riêng của nó. Qua kết 
quả nghiên cứu không gian tri nhận của động từ 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 
25 
tri giác chúng ta có cơ sở để đi sâu vào nghiên 
cứu các cơ chế ẩn dụ của động từ tri giác cũng 
như có thể ứng dụng các kết quả đó vào việc 
nghiên cứu giảng dạy tiếng một cách tốt nhất, 
hiệu quả nhất, tránh được các sai lầm cũng như 
các khập khiễng về tri nhận ngôn ngữ và đồng 
thời có thể đánh giá chính xác tri năng ngôn ngữ 
của người học. 
Tài liệu tham khảo 
Dirk, G. and Hubert, C. (2007). The Oxford 
Handbook of Cognitive Linguistics. Oxford 
University Press. 
Doyle, A. C. (1999). The adventures of Sherlock 
Holmes, The Project Gutenberg. 
Doyle, A. C. (2009). Những cuộc phiêu lưu của 
Sherlock Holmes. Nxb Văn học. 
Fillmore, C. J. (1971). Verbs of judging: An exercise 
in semantic description. In Fill more, C.J. and 
Langendoen, eds., Studies in Linguistics 
Semantics, New York. 
Fillmore, C. J. (1977). Senes-and-frames semantics. 
In Zampolli, A. (ed.), Linguistic Structures 
Processing, Amsterdam, North-Holland, pp. 
55-81. 
Fillmore, C. J. (1982a). Frame Semantics. In The 
Linguistic Society of Korea (ed.), Linguistics 
in the Morning Calm. Korea, Hanshin 
Publishing Company, pp. 111-137. 
Fillmore, C. J. (1982b). Towards a Descriptive 
Framework for Spatial Deixis. Speech, Place 
and Action, New York. 
Fillmore, C. J. and Atkins, B.T.S. (1994). Starting 
where dictionaries stop: the challenge of corpus-
lexicography. In: Atkins, B.T.S. and Zampolli 
A. (Eds), Computational Approaches to the 
Lexicon, Oxford University Press, pp. 319-393. 
Fauconnier, G. (1995). Mental Spaces, 2nd ed. 
Cambridge University Press, pp. 16-21. 
Fauconnier, G. (1997). Mappings in Thought and 
Language. Cambridge University Press. 
Leech, G. N. (2004). Meaning and the English Verb. 
3rd ed. Longman, pp. 23-28. 
Palmer, F. R. (1966). A Linguistic Study of the 
English Verbs, Longman, p. 99. 
Rogers, A. (1971). Three kinds of physical 
perception verbs. Chicago Linguistics Society 
7, pp. 206 - 223. 
Rojo, A. and Valenzula, J. (2005). Verbs of sensory 
perception: An English – Spanish comparison. 
Languages in contrast, 5(2), pp. 219-243. 
Lý Toàn Thắng (2005). Ngôn ngữ học tri nhận. Từ lý 
thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt. Nxb 
Khoa học xã hội. Hà Nội. 
Viberg, A. (1983). A Universal lexicalization 
hierarchy for the verbs of perception. In: 
Karlsson, F (ed.) Papers from the Seventh 
Scandinavian Conference of Linguistics. 
Helsinki, University of Helsinki, pp. 123. 
Wayne K. and Ho Anh Thai (ed.) (2003). Love after 
war. Curbstone Press. 
Wayne, K. và Hồ Anh Thái (cb.) (2004). Tình yêu 
sau chiến tranh. Nxb Hội Nhà văn. 
Vendler, Z. (1957). Verbs and Times. The 
Philosophical Review; Cornell University, 66 
(2), pp. 143-160.

File đính kèm:

  • pdfkhong_gian_tri_nhan_cua_dong_tu_tri_giac_tieng_viet.pdf