Khảo sát việc thực hiện hướng dẫn giáo dục sức khỏe cho người bệnh - người nuôi bệnh của điều dưỡng tại Bệnh viện Chợ Rẫy
Hướng dẫn giáo dục sức khỏe (GDSK) cho người bệnh và người nuôi bệnh để họ có các kiến thức và kỹ năng cần thiết cùng tham gia vào quá trình chăm sóc, điều trị, giúp người bệnh và gia đình phát hiện bệnh, khám và điều trị sớm, biết cách tự theo dõi và chăm sóc tại nhà, phòng ngừa phát hiện sớm các biến hứng,
giảm tỉ lệ tái nhập viện, giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình và xã hội.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát việc thực hiện hướng dẫn giáo dục sức khỏe cho người bệnh - người nuôi bệnh của điều dưỡng tại Bệnh viện Chợ Rẫy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát việc thực hiện hướng dẫn giáo dục sức khỏe cho người bệnh - người nuôi bệnh của điều dưỡng tại Bệnh viện Chợ Rẫy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 286 KHẢO SÁT VIỆC THỰC HIỆN HƯỚNG DẪN GIÁO DỤC SỨC KHỎE CHO NGƯỜI BỆNH - NGƯỜI NUÔI BỆNH CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY Vương Thị Nhật Lệ*, Nguyễn Thị Oanh*, Lâm Đình Tuấn Hải** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hướng dẫn giáo dục sức khỏe (GDSK) cho người bệnh và người nuôi bệnh để họ có các kiến thức và kỹ năng cần thiết cùng tham gia vào quá trình chăm sóc, điều trị, giúp người bệnh và gia đình phát hiện bệnh, khám và điều trị sớm, biết cách tự theo dõi và chăm sóc tại nhà, phòng ngừa phát hiện sớm các biến chứng, giảm tỉ lệ tái nhập viện, giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình và xã hội. Bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) có rất nhiều bệnh nhân nặng đến từ các tỉnh nên việc trang bị kiến thức và kỹ năng tự chăm sóc cho người bệnh và người nuôi bệnh là vô cùng quan trọng.Tuy nhiên hiện nay công tác GDSK chưa được tất cả các điều dưỡng (ĐD) quan tâm thực hiện, tài liệu sử dụng để GDSK cũng mang tính riêng lẻ, chưa có sự đồng bộ, ĐD chưa được huấn luyện các kỹ năng tư vấn GDSK và chưa có hoạt động nào để đánh giá công tác GDSK tại BVCR. Nghiên cứu này thực hiện để đánh giá hiện trạng việc thực hiện công tác GDSK của ĐD tại các khoa nhằm tìm ra giải pháp nâng cao công tác tư vấn GDSK tại BVCR. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp cắt ngang, mô tả, thu thập thông tin từ ĐD, người bệnh nội trú và người nuôi bệnh tại 31 khoa lâm sàng của BVCR từ tháng 9 đến tháng 11/2016. Phân tích thông tin theo nhóm đối tượng người thực hiện là ĐD và người nhận là người bệnh và người nuôi bệnh để đánh giá việc thực hiện công tác hướng dẫn GDSK. Kết quả nghiên cứu: có 400 ĐD tham gia nghiên cứu, đa số là nữ chiếm (85,8%), tuổi trung bình 33,04 ± 6,5 tuổi, kinh nghiệm làm việc đa số 5 đến 15 năm (56%), trình độ chuyên môn trung cấp chiếm 62,8% - cao đẳng đại học chiếm 36,3%; 78,3% ĐD được đào tạo về GDSK và tỉ lệ ĐD có thực hiện hướng dẫn GDSK là 93,3%, thời điểm thực hiện hướng dẫn GDSK chủ yếu là khi thăm khám và chăm sóc người bệnh chiếm 59,5%. Có mối tương quan giữa việc ĐD thực hiện GDSK với việc ĐD được đào tạo GDSK và sự tự tin của ĐD. Phân tích trên 211 người bệnh và 200 người nuôi bệnh, tuổi trung bình 45,5 ± 15,4 tuổi; 58,9% có trình độ học vấn chưa tốt nghiệp phổ thông trung học, nghề nghiệp đa số là làm nông và nghề tự do khác, thời gian người bệnh nằm viện trung bình là 9,2 ± 7,9 ngày. Tỉ lệ người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn GDSK là 65,9%. Thông tin liên quan đến chăm sóc sức khỏe người bệnh và người nuôi bệnh nhận được ở mức trung bình (50 - 51%), thông tin về thuốc đang sử dụng cho người bệnh còn thấp (21,2%). Kết luận: Tỉ lệ ĐD có thực hiện hướng dẫn GDSK là cao. Tuy nhiên, tỉ lệ người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn GDSK ở mức trung bình, thông tin người bệnh và người nuôi bệnh nhận được ở mức trung bình và thấp. Cần có kế hoạch triển khai thực hiện tư vấn GDSK và có giám sát đánh giá hiệu quả việc thực hiện để nâng cao chất lượng công tác tư vấn GDSK. Từ khóa: Điều dưỡng, tư vấn, truyền thông, giáo dục sức khỏe, chất lượng chăm sóc. *Phòng Điều dưỡng, Bệnh viện Chợ Rẫy. **Trung tâm Đào tạo, Bệnh viện Chợ Rẫy. Tác giả liên lạc: ThS.ĐD. Vương Thị Nhật Lệ ĐT: 0908147548 Email: vuongnhatle@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 287 ABSTRACT SURVEY THE IMPLEMENTATION ABOUT HEALTH EDUCATION OF NURSES FOR PATIENTS AND RELATIVES AT CHO RAY HOSPITAL Vuong Thi Nhat Le, Nguyen Thi Oanh, Lam Dinh Tuan Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 286 - 294 Background: Health education for patients and relatives will helping them have the knowledge and skills that they could to participate or decisions in the process of care, treatment with health care workers, helping them to detect their illness, early diagnosis and treatment, knowing how to monitoring and care at home, prevention and early detection of complications, reduce the rate of re-hospitalization, reducing the economic burden for the family and society. Cho Ray Hospital has many severe patients move from the province hospitals, so that to furnish the knowledge and self-care skills for patients and their relatives is very important. However, now a day health education are not interested by all of nurses, documentation used to health education was sporadic in the hospital, the information are not synchronous between the medical staff in the hospital. Nurses are not trained in counseling skills and health education skills. Don't have any activities to evaluate the performance of health education at Cho Ray hospital. This study carried out to assess the current conditions implementation of the health education activities of nurses to find solutions to improve health education quality at Cho Ray hospital. Methods: Cross-sectional study, description, information collected from the nurse, patients and relatives in 31 clinical department of Cho Ray hospital from September to November - 2016. Nurses are implementing and patients and relatives are recipients that are to assess the current conditions implementation of the health education activities. Results: 400 nurses participated in the study, most them are female (85.8%), the average age is 33.04 ± 6.5 years, work experience from 5 to 15 years (56%), professional qualification are 62.8% technical secondary; 36.3% college and university; 78.3% nurses have been trained in health education and they has been implemented for health education were 93.3%. The time that they perform health education mainly on when they examination and take care for patients (59.5%). There is a correlation between the implementation of health education of nurse with health education trained and the confidence of nurses. Analysis on 211 patients and 200 relatives, the ave ... ản thân khi thực hiện GDSK Có thực hiện GDSK Pearson Correlation 1 -0,022 -0,014 0,213 ** 0,285 ** Sig0,(2-tailed) 0,664 0,774 0,000 0,000 N 400 400 400 400 400 Trình độ chuyên môn Pearson Correlation -0,022 1 0,044 -0,111 * -0,082 Sig0,(2-tailed) 0,664 0,379 0,026 0,102 N 400 400 400 400 400 Thời gian công tác Pearson Correlation -0,014 0,044 1 0,049 -0,047 Sig0,(2-tailed) 0,774 0,379 0,331 0,352 N 400 400 400 400 400 Được đào tạo GDSK Pearson Correlation 0,213 ** -0,111 * 0,049 1 0,217 ** Sig0,(2-tailed) 0,000 0,026 0,331 0,000 N 400 400 400 400 400 Nhận xét bản thân khi thực hiện GDSK Pearson Correlation 0,285 ** -0,082 -0,047 0,217 ** 1 Sig0,(2-tailed) 0,000 0,102 0,352 0,000 N 400 400 400 400 400 **. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed). *. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed). Bảng 5. Trình độ học vấn và nghề nghiệp của người bệnh và người nuôi bệnh. Thông tin Tần số (n=411) Tỉ lệ (%) Trình độ chuyên môn Chưa tốt nghiệp phổ thông TH 242 58,9 Tốt nghiệp phổ thông TH 83 20,2 Trung cấp 18 4,4 Cao đẳng 19 4,6 Đại học 46 11,2 Sau đại học 3 0,7 Nghề nghiệp Làm nông 104 25,3 Công nhân/viên chức 86 20,9 Nội trợ 65 15,8 Buôn bán 51 12,4 Nghề khác 105 25,6 Có 179 người tham gia đã từng nằm viện hoặc nuôi người bệnh tại BVCR chiếm 43,6%. Trong đó tỉ lệ người trả lời có được hướng dẫn GDSK trong lần nằm điều trị trước chiếm 65,9%; không được hướng dẫn GDSK là 26,3% và 7,8% trả lời không nhớ. Người thực hiện hướng dẫn GDSK: có 69,5% người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn GDSK bởi cả BS và ĐD; 22% được BS hướng dẫn; 7,6% được ĐD hướng dẫn và 0,8% là NVYT khác. Thời điểm người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn GDSK là trong lúc thăm khám, làm thủ thuật hoặc chăm sóc chiếm (48,3%); Trong lúc thăm khám, làm thủ thuật hoặc chăm sóc và trước khi ra viện (28%); Trong khi thăm khám/thủ thuật/chăm sóc; Trước khi ra viện và trong họp HĐNB (11,9%); chỉ hướng dẫn GDSK trước khi ra viện (5,1%); chỉ hướng dẫn GDSK trong họp HĐNB (4,2%); Trong họp HĐNB và trước khi ra viện (2,5%). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 291 Bảng 6. Người bệnh đã từng nằm viện tại BVCR và được hướng dẫn GDSK từ NVYT. Thông tin Tần số (n=411) Tỉ lệ(%) Người bệnh đã từng nằm viện tại BVCR Có 179 43,6 Không 232 56,4 Được hướng dẫn GDSK (n = 179) Có 118 65,9 Không 47 26,3 Không nhớ 14 7,8 NVYT hướng dẫn GDSK (n = 118) Bác sĩ 26 22 Điều dưỡng 9 7,6 Cả bác sĩ và điều dưỡng 82 69,5 NVYT khác 1 0,8 Thời điểm người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn GDSK (n = 118) Khi thăm khám/thủ thuật/chăm sóc 57 48,3 Trước khi ra viện 6 5,1 Trong họp HĐNB 5 4,2 Khi thăm khám/thủ thuật/chăm sóc và trước khi ra viện 33 28 Trong họp HĐNB và Trước khi ra viện 3 2,5 Khi thăm khám/thủ thuật/chăm sóc; Trước khi ra viện và trong họp HĐNB 14 11,9 Bảng 7. Những nội dung người bệnh và người nuôi bệnh nhận được tại bệnh viện. Thông tin Tần số (n=411) Tỉ lệ (%) Tên, tác dụng các loại thuốc người bệnh đang sử dụng Có 87 21,2 Có nhưng không đầy đủ 118 28,9 Không 204 49,9 Chế độ ăn phù hợp bệnh lý của người bệnh Có 209 51,1 Có nhưng không đầy đủ 97 23,7 Không 103 25,2 Chế độ vận động – nghỉ ngơi phù hợp Có 212 51,8 Có nhưng không đầy đủ 68 16,6 Không 129 31,5 Cách theo dõi và phòng ngừa bệnh Có 207 50,5 Có nhưng không đầy đủ 82 20 Không 121 29,5 Những thông tin liên quan đến nội dung cần hướng dẫn GDSK cho người bệnh tại bệnh viện: - Hướng dẫn tên, tác dụng các loại thuốc người bệnh đang sử dụng: 49,9% trả lời không; 28,9% trả lời có nhưng không đầy đủ; 21,2% trả lời có. - Được hướng dẫn chế độ ăn phù hợp với bệnh lý của người bệnh: 51,1% trả lời có; 25,2% trả lời không; 23,7% trả lời có nhưng không đầy đủ. - Được hướng dẫn chế độ vận động – nghỉ ngơi phù hợp với bệnh lý của người bệnh: 51,8% trả lời có; 31,5% trả lời không; 16,6% trả lời có nhưng không đầy đủ. - Được hướng dẫn cách theo dõi và phòng ngừa bệnh cho người bệnh: 50,5% trả lời có; 29,5% trả lời không; 20% trả lời có nhưng không đầy đủ. BÀN LUẬN Đặc điểm của ĐD Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ĐD tham gia nghiên cứu đa số là nữ chiếm 85,8%; tuổi trung bình của ĐD tham gia nghiên cứu là 33,04 ± 6,5 tuổi;Kinh nghiệm làm việc từ 5 đến 15 năm chiếm 56% (Bảng 1). Kết quả này phản ánh được đặc thù nghề ĐD đòi hỏi phải có tính kiên nhẫn, khéo léo, nhẹ nhàng điều này phù hợp với giới nữ. Lực lượng ĐD của BVCR hiện nay là lực Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 292 lượng trẻ, kinh nghiệm làm việc chưa nhiều, nhưng cũng đã qua giai đoạn thực hành tay nghề cơ bản, đến giai đoạn phát huy vai trò cá nhân vì vậy cần quan tâm đến công tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và các kỹ năng khác nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc. Trình độ chuyên môn phản ánh kiến thức và khả năng thực hành của ĐD theo chương trình đào tạo từ các trường y tế. Kết quả (Bảng 1) cho thấy trình độ chuyên môn hiện nay của ĐD tại BVCR đa số là trung cấp, tỉ lệ ĐD có trình độ cao đẳng và đại học (36,3%) khá cao so với các BV khác tại Việt Nam như nghiên cứu của Nguyễn Trịnh Cương (2010) có 94% ĐD có trình độ là trung cấp(10); nghiên cứu của Nguyễn Thị Long (2013) có 94,23% số ĐD trình độ trung cấp; 3,84% ĐD có trình độ đại học và 1,93% ĐD có trình độ cao đẳng(7); Kết quả trên cho thấy đây cũng là điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện hướng dẫn GDSK, tuy nhiên so với các nước trên thế giới thì tỉ lệ ĐD có trình độ đại học tại BVCR còn hạn chế vì vậy chúng ta cần chú trọng hơn cho công tác đào tạo, tạo điều kiện cho ĐD có cơ hội học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Có 78,3% ĐD có được đào tạo kỹ năng hướng dẫn GDSK; Tỉ lệ ĐD có thực hiện hướng dẫn GDSK là 93,3% (Bảng 2), trong đó chỉ có 44,3% ĐD trả lời là tự tin khi thực hiện hướng dẫn GDSK (Bảng 3); Thời điểm thực hiện hướng dẫn GDSK chủ yếu là khi thăm khám và chăm sóc người bệnh chiếm 59,5% (Bảng 2) điều này cũng cho thấy công tác GDSK chưa được đầu tư nhiều, chưa có kế hoạch, chương trình cụ thể mà chủ yếu chỉ là công tác giao tiếp, hướng dẫn, giải thích những công việc đang làm; chưa có tài liệu hướng dẫn cụ thể và thống nhất đồng thời sự quan tâm đến công tác hướng dẫn GDSK của ĐD cũng chưa cao, đa số các ý kiến cho là công việc quá tải, bệnh nhân đông, không có thời gian để thực hiện, chưa tự tin khi thực hiện, cần được đào tạo thêm về kỹ năng GDSK. Đây cũng là vấn đề người quản lý cần quan tâm khi triển khai cho ĐD thực hiện hướng dẫn GDSK. Kết quả phân tích mối tương quan (Bảng 4) cho thấy có mối tương quan giữa việc ĐD có thực hiện GDSK với việc ĐD được đào tạo GDSK và sự tự nhận xét bản thân của ĐD khi thực hiện GDSK. Điều này cho thấy nếu được đào tạo các kỹ năng hướng dẫn GDSK, kết hợp với kiến thức về chuyên môn sẽ giúp ĐD sẽ cảm thấy tự tin hơn khi thực hiện GDSK. Kết quả phân tích cũng cho thấy không có sự tương quan giữa việc ĐD có thực hiện GDSK với trình độ chuyên môn và thời gian công tác của ĐD. Đặc điểm của người bệnh và người nuôi bệnh Kết quả phân tích trên trên 211 người bệnh và 200 người nuôi bệnh, giới tính không có sự chênh lệch nhiều,tuổi trung bình 45,5 ± 15,4. Kết quả này phù hợp với đặc điểm của bệnh viện là không có khoa Nhi. Thời gian người bệnh nằm viện tại BVCR trung bình là 9,2 ± 7,9 ngày, dài hơn so với số ngày điều trị trung bình của BVCR năm 2016 là 7,1 ngày vì tiêu chuẩn chọn mẫu của chúng tôi chọn những người bệnh nằm viện ≥ 3 ngày, để người bệnh có thời gian đánh giá được hoạt động GDSK của ĐD. Kết quả (Bảng 5) cho thấy đa số người bệnh và người nuôi bệnh có trình độ học vấn chưa tốt nghiệp phổ thông trung học, nghề nghiệp đa số là làm nông và nghề tự do khác, điều này cũng phù hợp với đặc điểm người bệnh của BVCR phần lớn là ở các tỉnh, huyện vùng xa chuyển đến. Đây cũng là cơ sở để chúng tôi xây dựng, lựa chọn hình thức, phương pháp hướng dẫn, tư vấn GDSK phù hợp với đối tượng: hướng dẫn cặn kẽ, lời nói cụ thể, từ ngữ dễ hiểu kết hợp với tranh ảnh, tờ rơi, posterPhân tích kết quả (Bảng 6) cho thấy tỉ lệ người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn GDSK đạt 65,9% (thực hiện bởi BS là 91,5% và ĐD là 77,1%). Thời điểm người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn GDSK đa số là trong lúc thăm khám, làm thủ thuật hoặc chăm sóc, các Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 293 thời điểm khác rất ít, tỉ lệ người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn GDSK trong quá trình nằm viện và lúc ra viện chỉ đạt 11,9%. Nếu đánh giá chất lượng về hoạt động ĐD và chăm sóc người bệnh theo Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện (2016) với tiêu chí người bệnh được tư vấn, GDSK khi điều trị và trước khi ra viện (C6.2), thì chúng ta chỉ đạt chất lượng đến mức 3 (tỉ lệ người bệnh nội trú được ĐD tư vấn, truyền thông GDSK chiếm từ 50% trở lên, cùng với những tiểu mục khác), để đạt mức 4 thì người bệnh phải được tư vấn, GDSK phù hợp với bệnh khi vào viện, trong quá trình điều trị và lúc ra viện(1). Như vậy, để nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác tư vấn GDSK thì chúng ta cần phải tập trung vào triển khai cả nội dung và hình thức tư vấn GDSK. Khảo sát những thông tin liên quan đến nội dung cần hướng dẫn GDSK cho người bệnh tại bệnh viện (Bảng 7) cho thấy tỉ lệ người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn các chế độ ăn phù hợp với bệnh lý, chế độ vận động – nghỉ ngơi phù hợp, cách theo dõi và phòng ngừa bệnh, thông tin người bệnh và người nuôi bệnh nhận được có tỉ lệ gần bằng nhau và ở mức trung bình (50-51%). Tuy nhiên tỉ lệ người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn tên, tác dụng các loại thuốc người bệnh đang sử dụng chỉ có 21,2%. Kết quả này cho chúng tôi thấy việc cung cấp thông tin về thuốc đang sử dụng cho người bệnh của ĐD còn chưa hiệu quả, đây cũng là vấn đề người quản lý cần quan tâm kiểm tra, giám sát tìm ra nguyên nhân để có giải pháp khắc phục thích hợp. KẾT LUẬN Tỉ lệ ĐD có thực hiện hướng dẫn GDSK là 93,3%. Có mối tương quan giữa việc ĐD có thực hiện GDSK với ĐD được đào tạo các kỹ năng GDSK và sự tự tin của ĐD. Không có sự tương quan giữa việc ĐD thực hiện GDSK với trình độ chuyên môn và thâm niên công tác của ĐD. Tỉ lệ người bệnh và người nuôi bệnh được hướng dẫn GDSK là 65,9%. Thông tin liên quan đến chăm sóc sức khỏe người bệnh và người nuôi bệnh nhận được ở mức trung bình (50 – 51%), thông tin về thuốc đang sử dụng cho người bệnh còn thấp (21,2%). Cần tổ chức các lớp huấn luyện đào tạo về kỹ năng tư vấn GDSK cho ĐD, tạo điều kiện cho ĐD tham gia thực hiện hướng dẫn GDSK; Xây dựng bộ tài liệu hướng dẫn nội dung tư vấn GDSK thống nhất trong toàn bệnh viện; Có kế hoạch triển khai thực hiện công tác tư vấn GDSK bằng nhiều hình thức và có đánh giá hiệu quả việc thực hiện và tăng cường kiểm tra, giám sát việc hướng dẫn sử dụng thuốc, thực hiện quy định công khai thuốc và y cụ hàng ngày của các khoa và có biện pháp khắc phục thích hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y Tế (2013). Ban hành thí điểm bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện. Quyết định số 4858/QĐ-BYT. 2. Bùi Thị Bích Phượng, Nguyễn Minh Tuấn, Nguyễn Hoàng Mai Anh (2011). Lượng giá hoạt động giáo dục sức khỏe cho thân nhân bệnh nhi về sốt xuất huyết tại khoa Sốt xuất huyết Bệnh viện Nhi Đồng 1. Tạp chí Y Học TP.HCM, 15:110-115. 3. Kargar JM, Ramezanli S, Taheri L (2014). Effectiveness of diabetes self-management education on quality of life in diabetic elderly females. Glob J Health Sci, 7(1):10-5. 4. Lê Thị Hoàn, Trần Thiện Trung (2013). Kiến thức, thái độ và thực hành của người bệnh tự chăm sóc hậu môn nhân tạo. Tạp chí Y Học TP.HCM, 17:209-216. 5. Marco Deiana, Simona Calza (2015). Patient and family education: from theory to practice. Gaslini Institute, Genoa Italy. 6. Nguyễn Thị Bích Đào, Vũ Thị Đào (2012). Kiến thức, thái độ và hành vi tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường týp 2 khám và điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy. Tạp chí Y Học TP.HCM, 16:59 -68. 7. Nguyễn Thị Long (2013). Sự thiếu sót của điều dưỡng trong thực hiện các bước tiêm tĩnh mạch tại bệnh viện đa khoa khu vực Nam Bình Thuận. Luận văn thạc sĩ điều dưỡng, tr. 45-47. 8. Nguyễn Thị Oanh (2016). Kiến thức, thái độ và sự tuân thủ về sử dụng thuốc kháng đông đường uống của người bệnh có van tim cơ học điều trị ngoại trú tại BVCR. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, 20:466-467. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 294 9. Nguyễn Thị Thu Thảo, Nguyễn Thanh Minh (2009). Đánh giá ảnh hưởng truyền thông giáo dục về kiến thức, thái độ thực hành và các chỉ số kiểm soát trên bệnh nhân đái tháo đường týp 2. Tạp chí Y Học TP.HCM, 13:71-78. 10. Nguyễn Trịnh Cương (2010). Mức độ chính xác khi thực hiện kỹ thuật tiêm bắp của điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa Bình Định. Luận văn thạc sĩ điều dưỡng, tr.19. 11. Phạm Phương Thảo, Lê Minh Thuận (2015). Giáo trình Truyền Thông Giáo Dục Sức Khỏe, trang 6, giao-duc-suc-khoe.htm. 12. Trương Thị Thùy Dung (2013). Đánh giá hiệu quả chương trình giáo dục sức khỏe cho bà mẹ có con bị sốt tại khoa Hô Hấp bệnh viện nhi Thanh Hóa. Tạp chí Y Học TP.HCM, 17: 53- 59. 13. Volk ML, Fisher N, Fontana RJ (2013). Patient Knowledge about Disease Self-Management in Cirrhosis. Am J Gastroenterol, 108(3):302-5. Ngày nhận bài báo: 16/02/2017 Ngày phản biện đánh giá bài báo: 10/03/2017 Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017
File đính kèm:
- khao_sat_viec_thuc_hien_huong_dan_giao_duc_suc_khoe_cho_nguo.pdf