Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: TP.HCM là đô thị lớn nhất và là trung tâm kinh tế của cả nước với sự đóng góp 20% vào

GDP quốc gia và 30% vào tổng giá trị xuất khẩu. Mặc dù có vai trò quan trọng chiến lược trong nền kinh tế

quốc gia, tuy nhiên TP.HCM lại nằm trên một nền đất thấp và dễ dàng bị ngập do mưa lớn, nước lũ thượng

nguồn hay triều cường. Trước tình trạng ngập úng thường xuyện xảy ra trên diện rộng tại TP.HCM, có thể gây

ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và sức khoẻ của người dân.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định sự thay đổi điểm trung bình chất lượng cuộc sống (CLCS) dựa vào thang

đo WHOQOL-BREF của người dân phường Phú Thuận, Quận 7, TP. HCM tại thời điểm bị ngập lụt so với thời

điểm không bị ngập lụt.

Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng thiết kế theo dõi dọc có bắt cặp và phương pháp phỏng vấn trực tiếp tại

hộ gia đình. Tiến hành thu thập dữ kiện vào 2 thời điểm khi không bị ngập lụt và khi bị ngập lụt. Sử dụng bộ câu

hỏi bộ câu hỏi WHOQOL-BREF đã được chuẩn hóa tại Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu: Điểm CLCS của 3 lĩnh vực Sức khỏe thể chất (SKTC), Sức khỏe tinh thần(SKTT) và

Môi trường sống (MTS) tại thời điểm ngập lụt đều thấp hơn so với thời điểm không bị ngập lụt. Điểm CLCS ở

lĩnh vực MTS của người dân ở khu vực có tình trạng ngập lụt nặng hơn như đường Huỳnh Tấn Phát thấp hơn

so với các khu vực còn lại. Tuổi, giới, trình độ học vấn và thu nhập gây ảnh hưởng tiêu cực tới điểm CLCS ở cả 4

lĩnh vực SKTC, SKTT, QHXH và MTS.

Kết luận: Tình trạng ngập lụt có gây ảnh hưởng tới điểm trung bình CLCS của người dân phường Phú

Thuận, Quận 7, TP. HCM ở 3 lĩnh vực SKTC, SKTT và MTS

Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 8420
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh

Khảo sát điểm chất lượng cuộc sống của người dân ở một số khu vực thường xuyên ngập úng tại phường Phú Thuận, Quận 7, TP. Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 503
KHẢO SÁT ĐIỂM CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI DÂN 
Ở MỘT SỐ KHU VỰC THƯỜNG XUYÊN NGẬP ÚNG 
TẠI PHƯỜNG PHÚ THUẬN, QUẬN 7, TP. HỒ CHÍ MINH 
Đặng Văn Chính*, Đặng Ngọc Chánh*, Lê Việt Anh*, Nguyễn Thị Hồng Diễm* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: TP.HCM là đô thị lớn nhất và là trung tâm kinh tế của cả nước với sự đóng góp 20% vào 
GDP quốc gia và 30% vào tổng giá trị xuất khẩu. Mặc dù có vai trò quan trọng chiến lược trong nền kinh tế 
quốc gia, tuy nhiên TP.HCM lại nằm trên một nền đất thấp và dễ dàng bị ngập do mưa lớn, nước lũ thượng 
nguồn hay triều cường. Trước tình trạng ngập úng thường xuyện xảy ra trên diện rộng tại TP.HCM, có thể gây 
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và sức khoẻ của người dân. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định sự thay đổi điểm trung bình chất lượng cuộc sống (CLCS) dựa vào thang 
đo WHOQOL-BREF của người dân phường Phú Thuận, Quận 7, TP. HCM tại thời điểm bị ngập lụt so với thời 
điểm không bị ngập lụt. 
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng thiết kế theo dõi dọc có bắt cặp và phương pháp phỏng vấn trực tiếp tại 
hộ gia đình. Tiến hành thu thập dữ kiện vào 2 thời điểm khi không bị ngập lụt và khi bị ngập lụt. Sử dụng bộ câu 
hỏi bộ câu hỏi WHOQOL-BREF đã được chuẩn hóa tại Việt Nam. 
Kết quả nghiên cứu: Điểm CLCS của 3 lĩnh vực Sức khỏe thể chất (SKTC), Sức khỏe tinh thần(SKTT) và 
Môi trường sống (MTS) tại thời điểm ngập lụt đều thấp hơn so với thời điểm không bị ngập lụt. Điểm CLCS ở 
lĩnh vực MTS của người dân ở khu vực có tình trạng ngập lụt nặng hơn như đường Huỳnh Tấn Phát thấp hơn 
so với các khu vực còn lại. Tuổi, giới, trình độ học vấn và thu nhập gây ảnh hưởng tiêu cực tới điểm CLCS ở cả 4 
lĩnh vực SKTC, SKTT, QHXH và MTS. 
Kết luận: Tình trạng ngập lụt có gây ảnh hưởng tới điểm trung bình CLCS của người dân phường Phú 
Thuận, Quận 7, TP. HCM ở 3 lĩnh vực SKTC, SKTT và MTS. 
Từ khóa: chất lượng cuộc sống, ngập úng, đô thị 
ABSTRACT 
QUALITY OF LIFE SCORES ASSESSMENT AMONG PEOPLE LIVING IN SOME AREAS 
WITH FREQUENT FLOODING IN PHU THUAN WARD, DISTRICT 7, HO CHI MINH CITY 
Dang Van Chinh, Dang Ngoc Chanh, Le Viet Anh, Nguyen Thi Hong Diem 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 503 – 509 
Background: Ho Chi Minh City is the biggest city and the economic center of Vietnam with its contribution 
of 20 percent to the country’s GDP and 30 percent to the total export value. Despite of its strategic role in the 
national economy, Ho Chi Minh City is located in a lowland area and easily flooded by heavy rains, upstream 
floods, or strong flood tides. The risks of frequent large-scale flooding in Ho Chi Minh City can lead to serious 
impacts on people’s living and health. 
Objectives: To examine changes in the average scores of the quality of life of people living in Phu Thuan 
ward, district 7, Ho Chi Minh City using WHOQOL-BREF instrument by comparing between the flooding 
period and the non-flooding period. 
*Viện Y tế công cộng Thành phố Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Việt An ĐT: 0987123847 Email: levietanh@iph.org.vn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 504
Methods: Using tracking methods and paired comparison and in person interviews with households; 
collecting data in both flooding and non-flooding periods; employing WHOQOL-BREF standardized for 
Vietnam. 
Results: The quality of life (QOL) score in three aspects included physical health, mental health and living 
conditions at flooding time was lower than non - flooding time. The QOL score of living conditions of people who 
living at affected areas was lower than other areas, such as at Huynh Tan Phat road area. There were 4 factors 
including: age, gender, educational level and income have affected to QOL scores in term of physical health, 
mental health and living condition. 
Conclusion: Flooding did affect the average score of people’s quality of life in Phu Thuan ward, district 7, 
Ho Chi Minh City in three aspects of in terms of physical health, mental health and living conditions. 
Keywords: quality of life, flooding, urban 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) là đô thị 
lớn nhất và là trung tâm kinh tế của cả nước với 
sự đóng góp 20% vào GDP quốc gia và 30% vào 
tổng giá trị xuất khẩu. Mặc dù có vai trò quan 
trọng chiến lược trong nền kinh tế quốc gia, tuy 
nhiên TP. Hồ Chí Minh lại nằm trên một nền đất 
thấp và dễ dàng bị ngập do mưa lớn, nước lũ 
thượng nguồn hay triều cường(6). Theo Trung 
tâm Chống ngập của thành phố, 60% diện tích 
toàn thành có cao độ thấp hơn 2 m, trong khi 
mực nước cao nhất tại trạm Phú An trên sông 
Sài Gòn và gần trung tâm thành phố có thể đạt 
1,55 m. Với mực nước 1,55 m cộng thêm 1m 
nước biển dâng cao vào cuối thế kỷ sẽ gây ngập 
phần lớn diện tích thành phố(7). Hơn nữa, tốc độ 
lún gần 15 mm/năm hiện nay tại nhiều điểm 
trong thành phố sẽ làm trầm trọng hơn vấn đề. 
Hiện nay, cả thành phố có hơn 100 điểm 
ngập, tổng cộng 154/322 xã phường đã ghi nhận 
bị ngập lụt thường xuyên. Trong điều kiện khí 
hậu cá biệt như cơn bão Linda năm 1997 thì 48% 
dân số thành phố sẽ chịu cảnh ngập lụt. Một báo 
cáo khác của Ngân hàng Thế giới xếp TP. Hồ 
Chí Minh vào danh sách 25 thành phố rủi ro 
nhất thế giới về quy mô dân số chịu ảnh hưởng 
của các cơn bão liên quan tới BĐKH(4). Nghiên 
cứu của Trung tâm Quản lý Môi trường Quốc tế 
(ICEM 2009) dự báo tới năm 2050, 50% các nhà 
máy nước, 60% các nhà máy xử lý nước thải, 
90% diện tích các bãi rác thải và 30% đến 70% hệ 
thống giao thông bao gồm đường cao tốc, cảng 
và hệ thống metro có nguy cơ ngập lụt(1). Trước 
nguy cơ thường xuyên xảy ra ngập tại TP. Hồ 
Chí Minh trên diện rộng có thể gây ảnh hưởng 
nghiêm trọng đến sinh hoạt, sức khoẻ của người 
dân(3). Tuy nhiên, hiện tại các nhà nghiên cứu chỉ 
tập trung vào việc đánh giá tình trạng ngập lụt  ... ó 
trình độ học vấn từ cấp 3 trở lên, tỉ lệ này 
chiếm gần 75%, chỉ 25,1% có trình độ học vấn 
dưới cấp 3. Có 77,73% các đối tượng được 
phỏng vấn đã kết hôn và có gia đình. Nhóm 
đối tượng làm nghề tự do chiếm tỉ lệ cao nhất 
hơn 31,58%, tiếp đó nhóm công nhân viên 
chức, nhân viên văn phòng chiếm tỉ lệ 29,15% 
và nhóm công nhân chiếm tỉ lệ 27%. Thời gian 
sinh sống của người dân trong khu vực chủ 
yếu là trên 10 năm chiếm 35,22%. Thu nhập 
bình quân theo đầu người hàng tháng của gia 
đình các đối tượng có trung bình là 7,49 triệu, 
thấp nhất là 3,5 triệu đồng và cao nhất là 16 
triệu đồng (Bảng 1). 
Ảnh hưởng của tình trạng ngập lụt lên điểm 
trung bình CLCS của người dân 
Trong vòng 4 tuần (01 tháng), đa số đối 
tượng tham gia trả lời phỏng vấn ở thời điểm 
khộng bị ngập lụt tự đánh giá mức “Tốt” đối với 
chất lượng bản thân (44,9%). Tỉ lệ tự đánh giá 
chất lượng cuộc sống bình thường trong thời 
điểm không bị ngập cũng khá cao (41,3%). Trong 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 506
thời điểm bị ngập lụt thì mức tự đánh giá của 
các đội tượng về chất lượng cuộc sống chủ yếu 
là mức “Bình thường” (50,8%). Mức đánh giá 
chất lượng cuộc sống “Tốt” tại thời điểm này 
giảm xuống còn 29,3%, sự thay đổi này có ý 
nghĩa thống kê (p <0,05) (Bảng 2). 
Bảng 2: Ảnh hưởng của tình trạng ngập lụt đến mức độ tự đánh giá về CLCS trong 1 tháng vừa qua (N=247) 
Chất lượng cuộc sống Rất kém (n,%) Kém (n,%) Bình thường(n,%) Tốt (n,%) Rất tốt (n,%) 
Không ngập lụt 0 22 (8,9) 102 (41,3) 111(44,9) 12 (4,9) 
Ngập lụt 2 (0,8) 42 (17,1) 125 (50,8) 72 (29,3) 5 (2,0) 
X
2
=58,11; p <0,001* 
*Kiểm định Stuart-Maxwell 
Bảng 3: Ảnh hưởng của tình trạng ngập lụt đến mức độ hài lòng về sức khỏe bản thân trong 1 tháng qua 
(N=247) 
Tình trạng sức khỏe 
Rất không hài lòng 
(n,%) 
Không hài lòng 
(n,%) 
Bình thường 
(n,%) 
Hài lòng 
(n,%) 
Rất hài lòng 
(n,%) 
Không bị ngập lụt 1 (0,4) 24 (9,7) 96 (38,9) 108 (43,7) 18 (7,3) 
Bị ngập lụt 5 (2,0) 43 (17,5) 113 (45,9) 78 (31,7) 7 (2,9) 
X
2
=49,2; p <0,001* 
* Kiểm định Stuart-Maxwell 
Tại thời điểm khộng bị ngập lụt mức độ tự 
đánh giá về tình trạng sức khỏe của các đối 
tượng chủ yếu là “Hài lòng” (43,7%). Mức “Bình 
thường” cũng chiếm tỉ lệ khá cao 38,9%. Tại thời 
điểm bị ngập lụt mức độ tự đánh giá về tình 
trạng sức khỏe của các đối tượng chủ yếu là 
“Bình thường” (45,9%). Mức “Hài lòng” giảm 
xuống còn 31,7%, sự thay đổi này cũng có ý 
nghĩa thống kê (p <0,05) (Bảng 3). 
Điểm trung bình CLCS bốn lĩnh vực sức 
khỏe của người dân được khi không bị ngập lụt 
dao động từ 53,02 đến 67,00 điểm. Trong đó, 
điểm trung bình CLCS lĩnh vực SKTC cao nhất 
(67,00 ± 13,44), tiếp theo là điểm trung bình 
CLCS lĩnh vực sức khoẻ tâm thần (54,13 ± 15,06), 
và điểm trung bình CLCS lĩnh vực MTS (53,56 ± 
13,62), thấp nhất là điểm trung bình CLCS lĩnh 
vực QHXH (53,02 ± 13,46). 
Điểm trung bình CLCS bốn lĩnh vực sức 
khỏe của người dân được khi bị ngập lụt dao 
động từ 47,75 đến 63,06 điểm. Trong đó, điểm 
trung bình CLCS lĩnh vực SKTC cao nhất (63,06 
± 14,99), tiếp theo là điểm trung bình CLCS lĩnh 
vực QHXH (53,03 ± 13,74), và điểm trung bình 
CLCS lĩnh vực SKTT (48,33 ± 16,90), thấp nhất là 
trung bình CLCS lĩnh vực MTS (47,75 ± 14,64). 
Bảng 4 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê về điểm CLCS giữa 2 thời điểm ngập 
lụt và không ngập giữa ở các lĩnh vực SKTC, 
SKTT và MTS (p <0,001). Trong đó, điểm CLCS 
của 3 lĩnh vực SKTC, SKTT và MTS tại thời điểm 
ngập lụt đều thấp hơn so với điểm CLCS của 3 
lĩnh vực SKTC, SKTT và MTS tại thời điểm 
không bị ngập lụt. Lĩnh vực QHXH không có 
sức khác biệt giữa 2 thời điểm ngập lụt và không 
ngập lụt (p >0,05). 
Bảng 4: Ảnh hưởng của tình trạng ngập lụt đến 4 lĩnh vực của CLCS (N= 247) 
Lĩnh vực Không ngập lụt (TB ± ĐLC) Ngập lụt (TB ± ĐLC) t p 
Sức khỏe thể chất 67,00 ± 13,45 63,06 ± 14,99 5,66 p <0,001 
Sức khỏe tâm thần 54,13 ± 15,06 48,33 ± 16,9 8,69 p <0,001 
Quan hệ xã hội 53,02 ± 13,46 53,03 ± 13,74 -0,08 0,93 
Môi trường sống 53,56 ± 13,62 47,75 ± 14,64 10,71 p <0,001 
Các yếu tố liên quan tới điểm trung bình CLCS 
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê về điểm CLCS hai lĩnh vực 
SKTC và SKTT giữa 2 nhóm giới tính nam và nữ 
(p <0,05). Hai lĩnh vực QHXH và MTS thì không 
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm 
giới tính nam và nữ (p >0,05). Có sự tương quan 
nghịch có ý nghĩa thống kê về điểm CLCS cả 4 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 507
lĩnh vực với tuổi của đối tượng tham gia nghiên 
cứu (p <0,001). Trong đó, độ tuổi đối tượng càng 
cao thì điểm CLCS tại các lĩnh vực SKTC, SKTT, 
QHXH và MTS càng giảm. 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm 
CLCS ở cả 4 lĩnh vực giữa các nhóm đối tượng 
có trình độ học vấn khác nhau (p <0,001). Trong 
đó, nhóm đối tượng có trình độ học vấn từ cấp 3 
trở lên có điểm CLCS lĩnh vực SKTC, SKTT, 
QHXH và MTS cao hơn nhóm có trình độ học 
vấn từ cấp 2 trở xuống. 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê điểm 
CLCS ở lĩnh vực SKTC giữa nhóm đã kết hôn và 
còn độc thân (p <0,05). Trong đó, nhóm có tình 
trạng hôn nhân đã kết hôn có điểm CLCS ở lĩnh 
vực SKTC thấp hơn nhóm độc thân. 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm 
CLCS ở cả 4 lĩnh vực giữa các nhóm nghề 
nghiệp khác nhau. Trong đó nhóm “Công 
chức/viên chức/nhân viên văn phòng” có điểm 
CLCS ở các lĩnh vực SKTC, SKTT, QHXH và 
MTS cao hơn các nhóm còn lại (p <0,001). 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa khu 
vực sống và điểm CLCS hai lĩnh vực SKTT và 
MTS (p <0,05). Hai lĩnh vực SKTC và QHXH thì 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
các khu vực sống (p >0,05). Trong đó, đối tượng 
sống tại khu vực đường Gò Ô Môi có điểm 
CLCS ở lĩnh vực MTS thấp nhất, còn đối tượng 
sống tại khu vực đường Phú Thuận có điểm 
CLCS ở lĩnh vực SKTT thấp nhất. 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm 
CLCS ở cả 4 lĩnh vực giữa các nhóm có thời gian 
cư ngụ trên địa bàn trên địa bàn khác nhau. 
Trong đó nhóm sống từ 1 đến dưới 5 năm có 
điểm CLCS ở các lĩnh vực SKTC, SKTT, QHXH 
và MTS cao hơn tất các nhóm còn lại. 
Có sự tương quan thuận có ý nghĩa thống kê 
về điểm CLCS cả 4 lĩnh vực với thu nhập hàng 
tháng của gia đinh đối tượng phỏng vấn 
(p<0,001). Trong đó, thu nhập bình quân của gia 
đình đối tượng càng cao thì điểm CLCS tại các 
lĩnh vực SKTC, SKTT, QHXH và MTS càng tăng. 
Bảng 5: Các yếu tố liên quan tới với điểm trung bình CLCS (N=247) 
Đặc tính 
Sức khỏe thể chất 
(TB ± ĐLC) 
Sức khỏe tinh thần 
(TB ± ĐLC) 
Quan hệ xã hội 
(TB ± ĐLC) 
Môi trường 
(TB ± ĐLC) 
Giới 
Nam 66,33 ± 13,25 53,34 ± 15,19 54,08 ± 13,85 51,11 ± 13,96 
Nữ 63,58 ± 15,38 48,93 ± 17,08 51,88 ± 13,23 50,17 ± 14,92 
p 0,03 0,003 0,07 0,47 
Tuổi 
r -0,51 -0,37 -0,25 -0,20 
Hệ số hồi quy -0,87 -0,72 -0,41 -0,34 
p < 0,001 < 0,001 < 0,001 < 0,001 
Trình độ học vấn 
Dưới cấp 3 56,53 ± 13,49 40,90± 14,68 46,26± 11,91 40,06 ± 11,24 
Từ cấp 3 trở lên 67,87 ± 13,51 54,70 ± 15,26 55,30 ± 13,37 54,21 ± 13,61 
p < 0,001 < 0,001 < 0,001 < 0,001 
Hôn nhân 
Độc thân 67,90 ± 12,91 52,47 ± 15,46 53,96 ± 14,86 48,63 ± 13,00 
Có vợ/chồng 64,20 ± 14,66 50,88 ± 16,47 52,76 ± 13,21 51,24 ± 14,77 
p 0,02 0,37 0,41 0,09 
Nghề nghiệp 
Công chức/viên chức/nhân 
viên 
69,53± 13,45 56,56 ± 14,77 57,53 ± 11,87 57,34 ± 13,11 
Công nhân 66,15 ± 11,56 49,87 ± 12,83 50,61 ± 14,48 47,36 ± 12,23 
Nghề tự do 64,58 ± 14,04 51,28 ± 18,72 53,27 ± 14,18 50,62 ± 15,70 
Nội trợ/hưu trí 50,77 ± 15,76 40,10 ± 14,47 46,42 ± 8,99 41,27 ± 10,91 
p < 0,001 < 0,001 < 0,001 < 0,001 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 508
Đặc tính 
Sức khỏe thể chất 
(TB ± ĐLC) 
Sức khỏe tinh thần 
(TB ± ĐLC) 
Quan hệ xã hội 
(TB ± ĐLC) 
Môi trường 
(TB ± ĐLC) 
Khu vực sống 
Huỳnh Tấn Phát 63,40 ± 13,62 51,20 ± 13,96 55,61 ± 14,06 44,79 ± 10,78 
Gò Ô Môi 64,49 ± 15,46 49,44 ± 17,23 52,07 ± 11,82 42,79 ± 14,09 
Hoàng Quốc Việt 65,14 ± 15,95 53,17 ± 18,34 50,98 ± 15,52 59,18 ± 13,92 
Đào Trí 67,06 ± 9,64 54,80 ± 11,42 53,20 ± 13,05 47,02 ± 10,97 
Phú Thuận 65,07 ± 16,13 47,72 ± 18,46 53,20 ± 13,11 59,78 ± 12,34 
p 0,50 0,02 0,49* < 0,001 
Thời gian cư ngụ trên địa 
bàn 
<5 năm 68,41 ± 10,84 55,05 ± 12,90 56,13 ± 13,70 47,31 ± 11,81 
Từ 5 - <10 năm 66,57 ± 14,38 51,44 ± 17,90 52,47 ± 14,36 51,57 ± 15,22 
Trên 10 năm 60,48 ± 16,00 47,53 ± 16,68 50,69 ± 12,22 52,90 ± 15,34 
p < 0,001 0,0001 0,002* 0,001 
Thu nhập bình quân 
r 0,20 0,27 0,29 0,32 
Hệ số hồi quy 0,64 1,00 0,91 1,05 
p < 0,001 < 0,001 < 0,001 < 0,001 
*Kiểm định Kruskal – Wallis
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu cho thấy, điểm trung bình CLCS 
bốn lĩnh vực sức khỏe của người dân được khi 
không bị ngập lụt dao động từ 53,02 đến 67,00 
điểm. Trong đó, điểm trung bình CLCS lĩnh vực 
SKTC cao nhất, tiếp theo là điểm trung bình 
CLCS lĩnh vực sức khoẻ tâm thần, và điểm trung 
bình CLCS lĩnh vực MTS, thấp nhất là điểm 
trung bình CLCS lĩnh vực QHXH. Điểm trung 
bình CLCS bốn lĩnh vực sức khỏe của người dân 
được khi bị ngập lụt dao động từ 47,75 đến 63,06 
điểm. Trong đó, điểm trung bình CLCS lĩnh vực 
SKTC cao nhất, tiếp theo là điểm trung bình 
CLCS lĩnh vực QHXH và điểm trung bình CLCS 
lĩnh vực SKTT, thấp nhất là trung bình CLCS 
lĩnh vực MTS. 
Tình trạng ngập lụt là một trong những 
yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến 
điểm CLCS ở 3 lĩnh vực với p <0,0001. Ở giai 
đoạn ngập lụt, khi xét lĩnh vực SKTC, SKTT, 
MTS, điểm CLCS đều có xu hướng giảm, dao 
động trong khoảng 4-5 điểm so với giai đoạn 
không ngập lụt. Kết quả này tương đồng với 
nghiên cứu năm 2004 của tác giả Tan HZ và 
cộng sự được thực hiện tại khu vực hồ Động 
Đình, Hồ Nam, một trong 4 hồ ngước ngọt lớn 
nhất Trung Quốc(Error! Reference source not found.). 
KẾT LUẬN 
Tình trạng ngập lụt có gây ảnh hưởng tới 
điểm trung bình CLCS của người dân phường 
Phú Thuận, Quận 7, TP. HCM ở 3 lĩnh vực 
SKTC, SKTT và MTS. Trong đó, điểm CLCS của 
3 lĩnh vực SKTC, SKTT và MTS tại thời điểm 
ngập lụt đều thấp hơn so với thời điểm không bị 
ngập lụt. Điểm CLCS ở lĩnh vực MTS của người 
dân ở khu vực có tình trạng ngập lụt nặng hơn 
như đường Huỳnh Tấn Phát thấp hơn so với các 
khu vực còn lại. Tuổi gây ảnh hưởng tiêu cực tới 
điểm CLCS ở cả 4 lĩnh vực SKTC, SKTT, QHXH 
và MTS. Tuổi càng cao thì điểm CLCS cả 4 lĩnh 
vực: SKTC, SKTT, QHXH và MTS càng thấp. Nữ 
giới có điểm CLCS ở hai lĩnh vực SKTC và SKTT 
thấp hơn so với nhóm đối tượng nam giới. 
Nhóm có trình độ học vấn cao có điểm CLCS ở 3 
lĩnh vực SKTT, QHXH và MTS cao hơn so với 
nhóm có trình độ học vấn thấp hơn. Nhóm đối 
tượng công nhân có điểm CLCS ở 4 lĩnh vực 
SKTC, SKTT, QHXH và MTS khá thấp so với 
nhóm công chức/viên chức/nhân viên hành 
chính. Thu nhập bình quân của gia đình có ảnh 
hưởng tốt tới điểm CLCS ở cả 4 lĩnh vực SKTC, 
SKTT, QHXH và MTS. Thu nhập càng cao thì 
điểm CLCS ở cả 4 lĩnh vực SKTC, SKTT, QHXH 
và MTS càng tăng. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 509
KIẾN NGHỊ 
Cần sớm có giải pháp giải quyết tình trạng 
ngập lụt này như xây dựng thêm các hồ điều 
hòa để thu gom và điều tiết nước cho toàn bộ 
khu vực. Đặc biệt ưu tiên giải quyết ở hai khu 
vực đường Huỳnh Tấn Phát và Gò Ô Môi. Đây 
là 2 khu vực này có mức độ ngập nghiêm trọng 
và điểm CLCS của người dân thấp hơn hẳn so 
với các khu vực khác. 
Đẩy mạnh vai trò của các câu lạc bộ trong 
việc nâng cao sức khỏe của người dân, đặc biệt 
trong nhóm người cao tuổi. 
Tăng cường các chiến lược dài hạn trong 
chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ tìm kiếm việc 
làm, duy trì và phát triển các quỹ hỗ trợ cho vay 
xóa đói giảm nghèo. 
Trong các chương trình chăm sóc và nâng 
cao sức khỏe cho người dân, cần quan tâm nhiều 
hơn đến đối tượng nữ giới, trình độ học vấn 
thấp và đối tượng công nhân. 
Hội phụ nữ tại phường cần có nhiều hơn 
các chương trình tư vấn tâm lý, hoạt động vui 
chơi để nhằm tăng CLCS ở lĩnh vực SKTT cho 
nữ giới. 
Cần tiến hành thêm nhiều nghiên cứu với 
quy mô lớn hơn về sức khỏe của người dân ở các 
khu vực thường xuyên ngập lụt trên địa bàn TP 
HCM để có những đánh giá xác thực hơn về 
những ảnh hưởng của hiện tượng ngập lụt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Kỳ Phùng (2011). Biến đổi khí hậu và tác động đến 
thành phố Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố 
Hồ Chí Minh, pp.82-83. 
2. Nguyễn Thị Thanh Hương (2007). Nghiên cứu đánh giá tình 
trạng ngập lụt và đề xuất giải pháp giảm ngập cho quận Bình 
Thạnh. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản Lý Môi Trường, Đại 
học Khoa học Tự nhiên thành phố Hồ Chí Minh. 
3. Nguyễn Thị Thu Hằng, Vũ Thụy Hà Anh và Nguyễn Lê Anh 
Pha (2014). Ảnh hưởng của ngập lụt do triều cường đến đời 
sống người dân quận 8 TP. HCM. Đại học Sài Gòn, pp.17-18. 
4. Susmita Dasgupta and et al (2009). Climate Change and the 
Future Impacts of Storm-Surge Disasters in Developing 
Countries. Center for global development, pp.11-12. 
5. Trung tâm Điều hành chương trình chống ngập nước TP. HCM 
(2014). Chương trình giảm ngập nước giai đoạn 2011-2015 và 
định hướng đến năm 2025. Trung tâm Điều hành chương trình 
chống ngập nước TP. HCM, pp.4-5. 
6. Trương Văn Hiếu (2008). Đánh giá ảnh hưởng của mưa, triều 
đến tình trạng ngập và biện pháp thoát nước đô thị khu vực TP 
Hồ Chí Minh. Viện Khí tượng thủy văn vả môi trường phía 
Nam, pp.8-9. 
7. Vũ Thị Loan (2010). Tình hình ngập lụt ở thành phố Hồ Chí 
Minh và những vấn đề cần giải quyết. Đại học Kĩ thuật Công 
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, pp.2-3. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_diem_chat_luong_cuoc_song_cua_nguoi_dan_o_mot_so_kh.pdf