Khả năng ứng phó với chẩn đoán – điều trị và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ về khả năng ứng phó với chẩn đoán - Điều trị và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại Bệnh Viện Ung Bướu Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 261 bệnh nhân ung thư vú đang điều trị tại Khoa Nội 4, Ngoại 4, Xạ 4 của bệnh viện Ung Bướu TPHCM. Lấy mẫu bằng phương pháp phân tầng tỷ lệ theo từng khoa, sau đó lấy mẫu thuận tiện tại các khoa. Nghiên cứu sử dụng thang đo Brief-COPE để đánh giá khả năng ứng phó, thang APGAR đo mức độ hỗ trợ gia đình, thang HADS đánh giá mức độ trầm cảm - lo âu, thang GHSQ đo lường tìm kiếm trợ giúp. Kết quả: Độ tuổi trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 51,29 ± 9,56. Đa số đối tượng có khả năng ứng phó vừa (88,51%), khả năng ứng phó thấp (11,11%), khả năng ứng phó cao (0,38%). Phần lớn đối tượng sử dụng chiến lược ứng phó Hỗ trợ cảm xúc, Tự phân tâm và Nhận sự hỗ trợ. Có mối liên quan giữa khả năng ứng phó với nhóm tuổi, tình trạng kinh tế, tôn giáo, hình thức điều trị, mức độ trầm cảm. Kết luận: Kết quả khả năng ứng phó ở bệnh nhân ung thư vú có chiều hướng tích cực. Những bệnh nhân bị trầm cảm thì khả năng ứng phó thấp. Nghiên cứu chỉ ra rằng chăm sóc bệnh nhân ung thư vú cần quan tâm về sức khỏe thể chất, tâm lý, xã hội, đồng thời áp dụng chiến lược ứng phó cá nhân để hạn chế tác động của ung thư vú đối với tâm lý bệnh nhân
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khả năng ứng phó với chẩn đoán – điều trị và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 463 KHẢ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI CHẨN ĐOÁN – ĐIỀU TRỊ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÕ Ý LAN1 Địa chỉ liên hệ: Võ Ý Lan Email: ylan.pharm@gmail.com Ngày nhận bài: 08/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 CN Khoa Y tế Công cộng - Đại học Y Dược TP. HCM ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư ngày càng phổ biến, là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 2 trên thế giới và ước tính khoảng 9,6 triệu ca tử vong trong năm 2018[12]. Việt Nam cũng không ngoại lệ, ung thư vú đứng đầu trong các ung thư ở nữ giới ở Miền Bắc với tỉ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 27,3/ 100.000 người, ở Miền Nam tỉ lệ này là 17,1/ 100.000 người. Trung bình có khoảng 15.000 ca mắc mới mỗi năm, trong đó tỷ lệ tử vong khoảng 35%, cao hơn các nước phát triển, bệnh có xu hướng trẻ hóa và tăng dần qua các năm[1]. Hầu hết, các bệnh nhân ung thư cảm thấy sốc khi nhận được chẩn đoán của bác sĩ. Họ rơi vào tình trạng lo âu, sợ hãi, không kiểm soát được hành vi và cảm xúc bản thân. Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu, cho thấy việc can thiệp khả năng ứng phó ở bệnh nhân ung thư vú có thể thúc đẩy các khía cạnh tích cực, giúp bệnh nhân cảm thấy tốt hơn và mạnh mẽ hơn. Khả năng ứng phó giúp họ nhận ra sự sống không phải là mục tiêu quan trọng duy nhất; mà chất lượng cuộc sống, các mối quan hệ, giá trị cuộc sống và tâm linh cũng xứng đáng để họ chú ý và nỗ lực[3]. Chính rào cản tâm lý góp phần tiêu cực vào quá trình phục hồi về thể lý và tâm lý của bệnh nhân/người thân, đặc biệt trong giai đoạn điều trị, phục hồi và tái hòa nhập cuộc sống sau một thời gian dài. Trên thế giới hiện đã có nhiều nghiên cứu đánh giá khả năng ứng phó của bệnh nhân ung thư vú. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các nghiên cứu về khả năng TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tỷ lệ về khả năng ứng phó với chẩn đoán - điều trị và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại Bệnh Viện Ung Bướu Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 261 bệnh nhân ung thư vú đang điều trị tại Khoa Nội 4, Ngoại 4, Xạ 4 của bệnh viện Ung Bướu TPHCM. Lấy mẫu bằng phương pháp phân tầng tỷ lệ theo từng khoa, sau đó lấy mẫu thuận tiện tại các khoa. Nghiên cứu sử dụng thang đo Brief-COPE để đánh giá khả năng ứng phó, thang APGAR đo mức độ hỗ trợ gia đình, thang HADS đánh giá mức độ trầm cảm - lo âu, thang GHSQ đo lường tìm kiếm trợ giúp. Kết quả: Độ tuổi trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 51,29 ± 9,56. Đa số đối tượng có khả năng ứng phó vừa (88,51%), khả năng ứng phó thấp (11,11%), khả năng ứng phó cao (0,38%). Phần lớn đối tượng sử dụng chiến lược ứng phó Hỗ trợ cảm xúc, Tự phân tâm và Nhận sự hỗ trợ. Có mối liên quan giữa khả năng ứng phó với nhóm tuổi, tình trạng kinh tế, tôn giáo, hình thức điều trị, mức độ trầm cảm. Kết luận: Kết quả khả năng ứng phó ở bệnh nhân ung thư vú có chiều hướng tích cực. Những bệnh nhân bị trầm cảm thì khả năng ứng phó thấp. Nghiên cứu chỉ ra rằng chăm sóc bệnh nhân ung thư vú cần quan tâm về sức khỏe thể chất, tâm lý, xã hội, đồng thời áp dụng chiến lược ứng phó cá nhân để hạn chế tác động của ung thư vú đối với tâm lý bệnh nhân. Từ khóa: Ứng phó, ung thư vú, Brief-COPE, trầm cảm, Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 464 ứng phó trên bệnh nhân ung thư còn khá hiếm. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá khả năng ứng phó với chẩn đoán - điều trị và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Đối tượng Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vú và đang điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh Tiêu chí chọn vào Bệnh nhân nữ đang điều trị ngoại trú, nội trú bệnh ung thư vú tại Bệnh Viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian nghiên cứu. Bệnh nhân đủ 18 tuổi trở lên. Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chí loại ra Bệnh nhân đang bị rối loạn tâm thần hoặc rối loạn nhận thức, khiếm thính hoặc khiếm thị, không có khả năng nói và nghe hiểu tiếng Việt. Bệnh nhân đang trong tình trạng quá yếu, không thể tham gia nghiên cứu, bệnh nhân đang ở giai đoạn IV. Phương pháp Thời gian và địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 3/2020 đến tháng 6/2020. Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu Cỡ mẫu được xác định trên công thức ước lượng một tỉ lệ cho nghiên cứu cắt ngang mô tả, với xác suất sai lầm loại I là 0,05 (α = 0,05), sai số biên là 0,05 (d = 0,05) và dự trù mất mẫu 5% tính được cỡ mẫu tối thiểu là 248 người. Chọn mẫu thuận tiện phân tầng theo 3 khoa Xạ 4 (nội - ngoại trú), Nội 4, Ngoại 4 dựa theo số lượt khám bệnh của bệnh nhân ung thư vú ở mỗi khoa phòng, đưa ra tỷ lệ: 27,3% Xạ 4 - Ngoại trú, 0,8% Xạ 4 - Nội trú, 70,3% Nội 4, 1,6% Ngoại 4. Thiết kế nghiên cứu: Sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả. Công cụ nghiên cứu Sử dụng thang đo khả năng ứng phó Brief- COPE. Thang gồm 28 câu hỏi thuộc 14 khía cạnh đánh giá khả năng ứng phó cá nhân tương đối ổn định trên các loại yếu tố gây căng thẳng khác nhau. Kết quả được tính tổng điểm các câu. Có 4 mức độ khả năng ứng phó: Không có khả năng ứng phóm (≤28 điểm), Có khả năng ứng phó thấp (29 - 56 điểm), Có khả năng ứng phó vừa (57 - 84 điểm), có khả năng ứng phó cao (≥85 điểm). Sử dụng thang đo lo âu, trầm cảm tại bệnh viện HADS (Hospital Anxiety and Depression Scale). Có 14 câu trong đó 7 câu đánh giá về lo âu, 7 câu đánh giá về trầm cảm. Thang đo tập trung ở các triệu chứng chủ yếu liên quan tới lo âu, trầm cảm. Kết quả được phân tích theo tổng điểm các câu theo 3 mức độ: Không (≤7 điểm), Có triệu chứng của trầm cảm / lo âu (8 - 10 ... hấp Giá trị P PR (KTC 95%) n % n % Nhóm tuổi <40 tuổi 27 100 0 0 1 40 - 49 tuổi 76 88,37 10 11,63 0,002 0,88(0,82 - 0,95) 50 - 59 tuổi 79 86,81 12 13,19 0,001 0,87(0,80 - 0,94) ≥ 60 tuổi 50 87,72 7 12,28 0,008 0,88(0,79 - 0,97) Nơi sống TPHCM 52 89,66 6 10,34 Khác 180 88,67 23 11,33 0,83 0,99 (0,89 - 1,09) Dân tộc Kinh 221 88,4 29 11,6 Khác 11 100 0 0 0,62** 1,13 (1,08 - 1,18) Tôn giáo Không tôn giáo 46 90,2 5 9,8 1 Phật giáo 144 85,71 24 14,29 0,363 0,95 (0,85 - 1,06) Khác 42 100 0 0,026 1,1 (1,01 - 1,21) Học vấn Mù chữ, biết đọc -viết 26 78,79 7 21,21 0,038* 1 Cấp I 64 85,33 11 14,67 1,05 (1 - 1,11) Cấp II 83 93,26 6 6,74 1,11 (1 - 1,22) ≥ Cấp III 59 92,19 5 7,81 1,17 (1 - 1,36) Đặc điểm KNUP vừa - cao KNUP thấp Giá trị P PR (KTC 95%) n % n % Nghề nghiệp Không đi làm 75 92,59 6 7,41 Đi làm 157 87,22 23 12,78 0,20 0,94 (0,87 - 1,02) Kinh tế Không đủ sống 161 93,6 11 6,4 Đủ sống 71 79,78 18 20,22 0,001 0,85 (0,76 - 0,95) Con/Cháu Không 53 84,13 10 15,87 Có 179 90,4 19 9,6 0,17 1,07(0,96 – 1,2) *Phân tích theo khuynh hướng **Kiểm định Fisher Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 466 Kết quả bảng 1 cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa khả năng ứng phó với nhóm tuổi, tôn giáo, kinh tế. Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa khả năng ứng phó trên bệnh nhân ung thư vú với nơi sống, dân tộc, học vấn, nghề nghiệp, sống cùng con cháu (p>0,05). Bảng 2. Mối liên quan giữa khả năng ứng phó và tình trạng bệnh Đặc điểm KNUP vừa – cao KNUP thấp Giá trị P PR (KTC 95%) n % n % Hình thức điều trị Nội trú 5 100 0 0 Ngoại trú 227 88,67 29 11,33 <0,001 0,89 (0,85 - 0,93) Khoảng thời gian mắc bệnh < 1 năm 153 90 17 10 1 1 - <3 năm 62 88,57 8 11,43 0,749 0,98 (0,89 - 1,08) ≥3 năm 17 80,95 4 19,05 0,332 0,89 (0,72 - 1,11) Giai đoạn Giai đoạn 1 18 94,74 1 5,26 1 Giai đoạn 2 120 88,89 15 11,11 0,305 0,93 (0,83 - 1,05) Giai đoạn 3 81 87,1 12 12,9 0,212 0,92 (0,8 - 1,05) Chưa xác định 13 92,86 1 7,14 0,827 0,98 (0,82 - 1,17) Hóa trị Không 77 92,77 6 7,23 Có 155 87,08 23 12,92 0,173 0,94 (0,86 - 1,02) Kết quả bảng 2 cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa khả năng ứng phó với hình thức điều trị. Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa khả năng ứng phó trên bệnh nhân ung thư vú với khoảng thời gian mắc bệnh, giai đoạn, hóa trị (p>0,05). Bảng. Mối liên quan giữa khả năng ứng phó với các thang Đặc điểm KNUP vừa - cao KNUP thấp Giá trị P PR (KTC 95%) n % n % Chức năng hỗ trợ gia đình Không gắn kết 9 75 25 1 Gắn kết không tốt 21 61,76 13 38,24 0,366 0,82 (0,54 - 1,25) Gắn kết tốt 232 88,89 13 11,11 0,18 1,25 (0,9 - 1,74) Trầm cảm Không bị trầm cảm 178 93,19 13 6,81 0,004* 1 Có triệu chứng 37 84,09 7 15,91 0,86 (0,77 - 0,95) Bị trầm cảm 17 65,38 9 34,62 0,73 (0,59 - 0,91) Lo âu Không bị lo âu 160 90,4 17 9,6 1 Có triệu chứng 51 92,73 4 7,27 0,572 1,02 (0,94 -1,12) Bị lo âu 21 72,41 8 27,59 0,059 0,8 (0,64 - 1) Tìm kiếm sự hỗ trợ (GHSQ) 0,004* 1,01 (1 - 1,01) *Phân tích theo khuynh hướng Kết quả bảng 3 cho thấy có mối liên quan có tính khuynh hướng giữa khả năng ứng phó và trầm cảm. Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa khả năng ứng phó trên bệnh nhân ung thư vú với chức năng hỗ trợ gia đình, lo âu, tìm kiếm sự hỗ trợ (p>0,05). Bảng 4. Mô hình hồi quy đa biến giữa khả năng ứng phó với các yếu tố (n = 261) Khả năng ứng phó Giá trị P PR (KTC 95%) Mức độ trầm cảm Không bị trầm cảm 1 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 467 Có triệu chứng 0,303 0,93 (0,81 - 1,07) Bị trầm cảm 0,011 0,71 (0,55 - 0,92) Nhóm tuổi <40 tuổi 1 40 - 49 tuổi 0,001 0,86 (0,78 - 0,94) 50 - 59 tuổi 0,003 0,87 (0,79 - 0,95) ≥ 60 tuổi 0,007 0,86 (0,77 - 0,96) Tôn giáo Không tôn giáo Phật giáo 0,77 0,98 (0,88 - 1,09) Tôn giáo khác 0,016 1,13 (1,02 - 1,24) Kinh tế Không đủ sống Đủ sống 0,01 0,87 (0,78 - 0,97) Hình thức điều trị Nội trú Ngoại trú 0,023 0,82 (0,7 - 0,97) Sau khi kiểm soát các yếu tố liên quan theo mô hình hồi quy đa biến Poisson (bảng 4), yếu tố có mối liên quan chặt chẽ nhất với khả năng ứng phó ở bệnh nhân ung thư vú là mức độ trầm cảm, nhóm tuổi, tôn giáo, kinh tế, hình thức điều trị. BÀN LUẬN Điểm Brief-COPE trung bình của nghiên cứu này là 65,24 ± 7. Kết quả nghiên cứu tương đối cao hơn nghiên cứu năm 2017 tại Iran được thực hiện trên 187 bệnh nhân ung thư vú, có điểm khả năng ứng phó trung bình trước khi điều trị là 46,37 ± 11, và sau khi điều trị là 51,48 ± 9[7]. Bên cạnh đó, một nghiên cứu tại Ấn Độ trên đối tượng bệnh nhân ung thư và bệnh nhân sống sót sau ung thư có điểm khả năng ứng phó lần lượt là 33,27 ± 4,18 và 55,13 ± 4,02[6].Trong nghiên cứu này, tỉ lệ bệnh nhân ung thư vú sử dụng chiến lược đối phó Hỗ trợ cảm xúc cao nhất (6,41 ± 1,16). Tương đồng với nghiên cứu của Kershaw là 6,86 ± 1,6[11] và nghiên cứu của Silva[8]. Được sử dụng phổ biến thứ hai là chiến lược Tự phân tâm (6,37 ± 1,28). Bên cạnh đó, chiến lược ứng phó Nhận sự hỗ trợ (6,33 ± 1,23) và Chấp thuận (5,77 ± 0,95) cũng được đối tượng tham gia nghiên cứu sử dụng phổ biến. Khi xem xét trong mô hình đa biến, kết quả nghiên cứu đã tìm thấy mối liên quan giữa khả năng ứng phó và nhóm tuổi, nhóm tuổi càng cao thì khả năng ứng phó càng thấp, nhóm tuổi trên 40 có tỷ lệ khả năng ứng phó thấp hơn 11% - 13% so với nhóm dưới 40 tuổi. Theo nghiên cứu của Rudolf H. Moos, người lớn tuổi sẽ có nhiều vấn đề cá nhân và tài chính / công việc, người cao tuổi đánh giá các vấn đề sức khỏe là mối đe dọa đáng quan tâm nhất và có xu hướng tránh né giải quyết vấn đề đó[13]. Theo nghiên cứu của Carolyn, người cao tuổi ít nỗ lực đối phó hơn người trung niên và trẻ tuổi[4]. Có mối liên quan giữa khả năng ứng phó và tôn giáo, người theo nhóm tôn giáo khác có khả năng ứng phó cao hơn người không theo tôn giáo 13%, KTC 95% là (1,02 - 1,25). Kết quả tương tự đã được báo cáo trong một nghiên cứu khác, và đã được báo cáo rằng sử dụng tôn giáo và tâm linh làm nguồn lực và cách đối phó là phổ biến ở bệnh nhân, và nó cũng có thể có vai trò trong việc điều chỉnh lâu dài đối với bệnh ung thư bằng cách mang lại sự thoải mái về cảm xúc và cảm giác hy vọng[10]. Có mối liên quan giữa khả năng ứng phó và tình trạng kinh tế, người có kinh tế đủ sống có khả năng ứng phó thấp hơn người kinh tế không đủ sống 13%, KTC 95% là (0,79 - 0,97). Tương đồng với nghiên cứu của Phillip (2002), cho thấy cá nhân thu nhập thấp sử dụng chiến lược ứng phó nhiều hơn thu nhập cao. Một lời giải thích cho sự phát hiện này là các đối tượng thu nhập thấp được báo cáo bệnh mãn tính và căng thẳng hằng ngày cao, mà mức độ căng thẳng cao sẽ tạo điều kiện sử dụng nhiều hơn các chiến lược ứng phó, với mục đích làm giảm trạng thái căng thẳng, chống chọi bệnh tật và cải thiện chất lượng cuộc sống[5]. Người bị trầm cảm sẽ giảm khả năng ứng phó đi 28% so với người không bị trầm cảm, KTC 95% (0,55 - 0,94). Theo nghiên cứu của Stanton (2019), thì khả năng ứng phó càng cao thông qua chấp nhận tích cực thì triệu chứng trầm cảm càng giảm[9]. Nghiên cứu Orzechowska (2013), nhận định rằng bệnh nhân trầm cảm trong các tình huống căng thẳng thường sử dụng các chiến lược dựa trên sự tránh né và từ chối và gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm kiếm các khía cạnh tích cực của các vấn đề căng thẳng[2]. Bệnh nhân ngoại trú có tỉ lệ khả năng ứng phó thấp hơn 16% so bệnh nhân bệnh nhân Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 468 điều trị nội trú, KTC 95% 0,71 - 0,99. Việc xếp hàng chờ đợi đến lượt khám và không khí đông đúc của bệnh viện tạo nên cảm giác mệt mỏi và căng thẳng ở bệnh nhân. Bệnh nhân điều trị ngoại trú hạn chế việc chia sẻ cảm xúc, nhận được sự đồng cảm từ người khác. Bên cạnh đó, việc phân tầng chọn mẫu theo khoa, các bệnh nhân nội trú được đưa vào nghiên cứu chủ yếu từ Khoa Ngoại 4, bệnh nhân thường áp dụng phương pháp điều trị phẫu thuật và ở giai đoạn đầu nên có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Điểm mạnh và điểm hạn chế Điểm mạnh của nghiên cứu là nghiên cứu tiến hành với cỡ mẫu vừa đủ, phù hợp với nhiều nghiên cứu liên quan về khả năng ứng phó trên bệnh nhân. Nghiên cứu viên thu thập thông tin bằng phương pháp phỏng vấn mặt đối mặt nên thông tin chính xác và đầy đủ. Nghiên cứu áp dụng đầy đủ các biện pháp kiểm soát sai lệch thông tin, sai lệch chọn lựa, nên kết quả nghiên cứu có tính khách quan và khoa học. Điểm hạn chế là nghiên cứu đã áp dụng lấy mẫu thuận tiện nên ảnh hưởng đến tính đại diện của nghiên cứu. Mặc khác, nghiên cứu chỉ thực hiện tại 3 khoa của bệnh viện Ung Bướu TP. HCM và bộ câu hỏi Brief - COPE chưa được chuẩn hóa tại Việt Nam. KẾT LUẬN Kết quả khả năng ứng phó ở bệnh nhân ung thư vú có chiều hướng tích cực (88,51% bệnh nhân có khả năng ứng phó vừa). Những bệnh nhân bị trầm cảm thì khả năng ứng phó thấp. Nghiên cứu chỉ ra rằng chăm sóc bệnh nhân ung thư vú cần quan tâm về sức khỏe thể chất, tâm lý, kinh tế - xã hội, đồng thời bệnh nhân nên áp dụng chiến lược ứng phó cá nhân để hạn chế tác động của việc điều trị và chẩn đoán ung thư vú lên tâm lý bệnh nhân. Mặt khác, cộng đồng kết nối với đội công tác xã hội tạo điều kiện, hỗ trợ bệnh nhân về mặt kinh phí hoặc quy trình khá chữa bệnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2018) Ung thư vú, https://mch.moh.gov.vn/pages/news/17188/Ung- thu-vu.html, 2. A. Orzechowska, Zajączkowska, M., Talarowska, M., & Gałecki, P (2013) "Depression and ways of coping with stress: A preliminary study". Medical Science Monitor, 19, PP.1050-1056. 3. Andrew K. , Ernest R., Isadora R.R. (2019) Coping with Cancer, with-cancer/coping-with-cancer.html, 4. Carolyn M.A, Karen J.S., Gina C., and Avron Spiro (1996) "Age Differences in Stress, Coping, and Appraisal: Findings From the Normative Aging Study". Journal of Gerontology: PSYCHOLOGICAL SCIENCES, 51B, PP179 - 188. 5. Phillip J. B. , Erin L. O., Glenn J.and Dan J. M. (2002) "The Influence of Income Level and Ethnicity on Coping Strategies". Journal of Psychopathology and Behavioral Assessment, 24, PP.39 - 45. 6. Ravindran OS, Shankar A, Murthy T. (2019) "A Comparative Study on Perceived Stress, Coping, Quality of Life, and Hopelessness between Cancer Patients and Survivors". Indian J Palliat Care, 25 (3), PP.414 - 420. 7. Sajadian A , RajiLahiji M, Motaharinasab A, Kazemnejad A, Haghighat S. (2017) "Breast Cancer Coping Strategies after Diagnosis: A Six- month Follow-up.". Multidiscip Cancer Investig, 1 (4), PP.12-16. 8. Silva SM, Crespo C, Canavarro MC (2012) "Pathways for psychological adjustment in breast cancer: a longitudinal study on coping strategies and posttraumatic growth.". Psychol Health, 27 (11), PP.1323 - 1341. 9. Stanton, Annette L et al. (2018) "Cancer-related coping processes as predictors of depressive symptoms, trajectories, and episodes.". Journal of consulting and clinical psychology, 86 (10), PP.820-830. 10. Thuné-Boyle IC , Stygall J, Keshtgar MR, Davidson TI, Newman SP. (2011) "Religious coping strategies in patients diagnosed with breast cancer in the UK". Psychooncology, 20 (7), PP.771 - 782. 11. Trace Kershaw, Laurel N., Charuwan K., Ann S. & Darlene M. (2004) "Coping strategies and quality of life in women with advanced breast cancer and their family caregivers". Psychology & Health, 19 (2), PP.139 - 155. 12. WHO (2019) Cancer, https://www.who.int/health- topics/cancer#tab=tab - 1, 08/11/2019. 13. Moos RH, Brennan PL, Schutte KK, Moos BS (2006) "Older adults' coping with negative life events: common processes of managing health, interpersonal, and financial/work stressors". Int J Aging Hum Dev, 62 (1), PP.39 - 59. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 469 ABTRACT Ability of response with diagnosis - treatment and associated factors in breast cancer patients at Oncology Hospital Ho Chi Minh City Objective: Determine the proportion of response to diagnosis - treatment and associated factors in breast cancer patients at Oncology Hospital Ho Chi Minh city in 2020. Method: Cross-sectional study was conducted on 261 breast cancer patients being treated at the Department of Internal Medicine 4, External 4, X-ray 4 of the HCM City Oncology Hospital. Sampling was based on the proportion of stratification by each department, then convenient sampling in the departments. The study utilized the Brief-COPE scale to measure responsiveness, the level of family support was measured by the APGAR scale, the HADS scale was utilized to measure the level of depression - anxiety, and the GHSQ scale was utilized to measure the seeking help. Result: The mean age was 51.29 years (sd = 9.56). The proportion of ability of response among breast cancer patients in medium, low, high were 88.51%, 11.11%, 0.38%, respectively. Majority of response ability among breast cancer patients were Emotional Support, Self-Distraction and Instrumental Support. There were significant difference in response ability between age group, economic status, religion, type of treatment, and severity of depression. Discussion: The result of response ability in breast cancer patients tend to be positive. Depressed patients had a low coping capacity. This study shows that caring for breast cancer patients needs to be concerned about physical, psychological and social health, and apply individual response strategies to limit the impact of breast cancer on psychology patient. Keywords: Cope, breast cancer, Brief-COPE, depression, Oncology Hospital.
File đính kèm:
- kha_nang_ung_pho_voi_chan_doan_dieu_tri_va_cac_yeu_to_lien_q.pdf