Kết quả phẫu thuật nội soi điều trị u tuyến thượng thận tại bệnh viện ung bướu Nghệ An
TÓM TẮT Từ 01/2015 - 08/2020 có 63 bệnh nhân bị u tuyến thượng thận được điều trị bằng PTNS tại bệnh viện Ung Bướu Nghệ An. Kết quả: Tuổi thường gặp từ 40 - 70 tuổi chiếm 83,2%; tuổi trung bình là 46,8 tuổi; tỷ lệ nam/nữ là 1/3,4; nhóm bệnh Pheochromocytoma (41,5%) gặp nhiều nhất; kích thước u từ 2 - 5cm thường gặp (68%); thời gian mổ trung bình là 76,8 ± 29,5 (phút); ngày điều trị trung bình là 5,6 ± 1,6 ngày; tai biến trong mổ gặp 5,7%; biến chứng sau mổ gặp 9,7%; u vỏ thượng thận gặp chủ yếu (55,6%). Kết luận: PTNS điều trị u tuyến thượng thận có tính an toàn và hiệu quả cao, tỉ lệ tai biến biến chứng thấp, mang lại sự hài lòng cho người bệnh
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả phẫu thuật nội soi điều trị u tuyến thượng thận tại bệnh viện ung bướu Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả phẫu thuật nội soi điều trị u tuyến thượng thận tại bệnh viện ung bướu Nghệ An
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 121 KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ U TUYẾN THƯỢNG THẬN TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU NGHỆ AN NGUYỄN ĐÌNH HIẾU1 Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Đình Hiếu Email: bshieu27021986@gmail.com Ngày nhận bài: 06/10/2020 Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 ThS. Trưởng Khoa Ngoại - Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An ĐẶT VẤN ĐỀ Tuyến thượng thận (TTT) là tuyến nội tiết có tính sinh mạng đối với cơ thể, nó nằm sâu sau phúc mạc và có vai trò cực kỳ quan trọng đối với hoạt động sống[1],[2]. Sự tăng tiết các nội tiết tố do u tuyến thượng thận đã gây nên nhiều hội chứng bệnh lý khó có thể điều trị triệt để bằng nội khoa[2],[3]. Các bệnh lý thường gặp nhất có thể giải quyết bằng phẫu thuật là bệnh Conn (cường aldosterone nguyên phát) do TTT, hội chứng Cushing do u TTT, u sắc bào tủy TTT và các loại ung thư TTT[4],[5],[8]. Năm 1926, Roux.S và Mayo.C thực hiện thành công phẫu thuật cắt bỏ u tuyến thượng thận. Năm 1992, Gagner[4] thực hiện thành công phẫu thuật cắt bỏ u TTT qua nội soi, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử điều trị ngoại khoa u tuyến thượng thận. Tại bệnh viện Ung Bướu Nghệ An, phẫu thuật nội soi cắt u TTT được tiến hành từ ngày đầu thành lập, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục đích: “Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi điều trị u tuyến thượng thận tại bệnh viện Ung Bướu Nghệ An từ 01/2015 đến 8/2020”. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả bệnh nhân u tuyến thượng thận được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật nội soi trong thời gian 01/2015 - 08/2020 tại bệnh viện Ung Bướu Nghệ An. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân được chuyển mổ mở ngay sau khi thám sát ổ bụng bằng nội soi đánh giá không thể mổ nội soi được, BN có GPB sau mổ không phải u TTT. Phương pháp nghiên cứu Hồi cứu, mô tả cắt ngang, lấy tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn trong thời gian nghiên cứu. Các bước tiến hành phẫu thuật (Phẫu thuật cắt U TTT bên phải) Tư thế bệnh nhân BN nằm nghiêng trái, thân tạo với mặt bàn mổ góc 600, kê gối ngang mức xương sườn XII. Vị trí đặt các trocart Sử dụng bốn trocart được đặt theo sơ đồ hình (hình 1). TÓM TẮT Từ 01/2015 - 08/2020 có 63 bệnh nhân bị u tuyến thượng thận được điều trị bằng PTNS tại bệnh viện Ung Bướu Nghệ An. Kết quả: Tuổi thường gặp từ 40 - 70 tuổi chiếm 83,2%; tuổi trung bình là 46,8 tuổi; tỷ lệ nam/nữ là 1/3,4; nhóm bệnh Pheochromocytoma (41,5%) gặp nhiều nhất; kích thước u từ 2 - 5cm thường gặp (68%); thời gian mổ trung bình là 76,8 ± 29,5 (phút); ngày điều trị trung bình là 5,6 ± 1,6 ngày; tai biến trong mổ gặp 5,7%; biến chứng sau mổ gặp 9,7%; u vỏ thượng thận gặp chủ yếu (55,6%). Kết luận: PTNS điều trị u tuyến thượng thận có tính an toàn và hiệu quả cao, tỉ lệ tai biến biến chứng thấp, mang lại sự hài lòng cho người bệnh. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 122 Mở phúc mạc thành bụng sau Hạ dây chằng tam giác tới chỗ bám vào chân cơ hoành (p). Mở phúc mạc thành bụng sau theo đường bắt đầu từ mặt trước cực trên thận (p), chạy sát bờ (p) của TMCD. Phẫu tích kẹp tĩnh mạch thượng thận chính (TMTTC) Bộc lộ TMTTC tại nguyên ủy TMCD và kẹp lại bằng 3 clip 10mm: Hai Clip đặt phía đầu trung tâm, một clip đặt ở đầu xa (hình 2). Phẫu tích ĐMTT giữa và trên: Phẫu tích dọc bờ phải TMCD, theo hướng từ dưới lên bờ trên tuyến, ĐMTT giữa nằm trong tổ chức mỡ sau phúc mạc và kẹp nó lại bằng 2 clip 5mm. Phẫu tích ĐMTT dưới, giải phóng sau tuyến: ĐMTT dưới đi vào tuyến ở ngay bờ dưới của tuyến, nó được thắt lại trước khi cắt bởi 3 clip 5mm. Tuyến thượng thận được nâng cao và đẩy ngược lên, dùng dao điện giải phóng dễ dàng các tổ chức lỏng lẻo kết nối mặt sau tuyến với thành bụng sau. Lấy bỏ bệnh phẩm và gửi xét nghiệm GPB. Dẫn lưu và khâu các lỗ trocart. Hình 1. vị trí các trocard Hình 2. Kẹp TMTTC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ 1/2015 đến 8/2020 tại bệnh viện Ung Bướu Nghệ An có 63 bệnh nhân u tuyến thượng thận được phẫu thuật nội soi, thu được các kết quả sau: Đặc điểm phân bố u tuyến thượng thận theo tuổi, giới, vị trí u Độ tuổi thường gặp 40 đến 70 tuổi, chiếm tỉ lệ 83,2%. Tuổi trung bình của NC: 46,8 ± 11,8 (tuổi), BN nhỏ nhất 19 tuổi, lớn nhất 73 tuổi. Nữ gặp nhiều hơn nam (48 nữ - 76,1%, 15 nam - 23,8%). Vị trí u bên phải (42 BN - 66,7%) nhiều hơn bên trái (21 BN - 33,3%). Đặc điểm lâm sàng và hình ảnh u tuyến thượng thận Bảng 1. Phân loại u tuyến thượng thận BN UTTT N (63) Tỉ lệ (100%) H/C Cushing 9 14,2 H/C Conn 13 20,6 H/C Apert – Gallais 0 0 Pheochromocytoma 26 41,5 U TTT không chế tiết 15 23,7 Bảng 2. Kích thước u trên siêu âm và CLVT Kích thước N (63) Tỉ lệ (100%) Dưới 2cm 9 14,3 2 - 5cm 39 61,9 Trên 5cm 15 23,8 Số 1 Số 2 Số 3 Số 4 1 Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 123 Kết quả phẫu thuật Tất cả BN đều sử dụng 4 trocart, đường vào trong ổ bụng, thời gian mổ trung bình của u TTT là: 76,8 ± 29,5 (phút), bên trái: 71,5 ± 28,9 (phút), bên phải: 86,3 ± 39,4 (phút), 100% bệnh nhân có sử dụng dao hamonic scaple hỗ trợ, thời gian điều trị TB: 5,6 ± 1,6 (ngày), ngắn nhất 4 ngày, dài nhất 13 ngày, chuyển mổ mở 1 trường hợp, không có bệnh nhân nào phải truyền máu trong mổ. Bảng 3. Tai biến trong mổ Tai biến N (63) Tỉ lệ (100%) Chảy máu trong mổ 4 6,3 Tổn thương tạng khác 3 4,8 Không tai biến 56 88,9 Có 4 BN chảy máu trong mổ và 3 BN rách nhu mô gan P. Bảng 4. Biến chứng sau mổ Loại biến chứng N (63) Tỉ lệ (100%) Hạ kali máu 1 1,5 Hạ Glucose máu 1 1,5 Nhiễm trùng lỗ trocart 2 3,0 Không biến chứng 59 94 Có 1 BN (1,5%) hạ kali sau mổ, có 1 BN (1,5%) hạ Glucose máu sau mổ, nhiễm trùng lỗ trocard rốn có 2 BN (3,0%). Bảng 5. Giải phẫu bệnh u TTT sau mổ Tổn thương GPB N (63) Tỉ lệ (100%) U tủy 16 25,4 U vỏ 35 55,6 Dạng nang 12 19,0 Giải phẫu bệnh sau mổ u vỏ TT chiếm đa số với 35 BN (55,6%). Bảng 6. Liên quan kết quả phẫu thuật với vị trí và kích thước u Yếu tố liên quan Kích thước p Vị trí U P ≤ 50mm > 50mm Phải Trái Thời gian mổ 65 105 0,03 86,3 71,5 0,6 Rối loạn HA trong mổ 3 4 0,63 4 3 0,7 Tai biến 3 2 0,81 1 4 0,3 Lượng máu mất trong mổ 50 65 0,4 80 45 0,7 Biến chứng 1 3 0,23 3 1 0,3 Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm kích thước u về thời gian mổ, còn lại các yếu tố khác không có sự khác biệt giữa kích thước và vị trí khối u. BÀN LUẬN Đặc điểm chung Trong nghiên cứu này, chúng tôi thu thập được 63 trường hợp u tuyến thượng thận được điều trị bằng phương pháp phẫu thuật nội soi. Trong đó có 9 BN H/C Cushing, 13 BN H/C Conn, 26 BN Pheochromocytomavà 15 trường hợp u TTT không bài tiết phát hiện ngẫu nhiên, chúng tôi không gặp trường hợp nào hội chứng Apert - Gallais. Kết quả cho thấy bệnh lý u tuyến thượng thận thường gặp ở lứa tuổi từ 40 đến 70 với tỷ lệ 83,2%. Gặp ở nữ nhiều hơn nam với tỷ lệ nữ/nam là 3,4/1. Kết quả của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu của tác giả trong và ngoài nước[3],[4]. Tuổi trung bình theo tác giả trong nước là 38,6 tuổi[3] và theo tác giả nước ngoài là 47,7 tuổi[5],[6], kết quả của nhóm nghiên cứu của chúng tôi là 46,8 tuổi. Vị trí u gặp bên phải nhiều hơn bên trái. Đặc điểm lâm sàng Bệnh nhân có hội chứng Cushing Biểu hiện hình thể Các dấu hiệu béo cục bộ gây ra do tác dụng cường cortisol, chúng tôi gặp 100% các trường hợp. Kết quả nghiên cứu phù hợp với NC của Aron và cộng sự gặp 85%[9], Orth có 100% trường hợp mặt tròn, 86% u mỡ gáy[8], Đỗ Trung Quân gặp 91,5%[3] tăng cân, 100% các trường hợp béo cục bộ và mặt tròn đỏ. Tăng huyết áp Tăng huyết áp là do cường chức năng vỏ thượng thận gây tăng tiết Steroid, nhóm NC gặp ở Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 124 2/3 BN chiếm 66,6%, phù hợp với NC của Đỗ Trung Quân 50,2%, Mai Thế Trạch 64,3%[3]. Bệnh nhân có hội chứng Conn Theo nhiều tác giả cao huyết áp là dấu hiệu thường gặp dẫn bệnh nhân tới khám thầy thuốc[1],[2]. Nghiên cứu của chúng tôi gặp 100% bệnh nhân có cao huyết áp phù hợp kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trinh Cơ[3] Lê Ngọc Từ[2], Mellon[9] là 100%. Bệnh nhân Pheochromocytome Tăng huyết áp Tăng huyết áp là dấu hiệu lâm sàng chủ yếu và thường gặp. Cơ chế do sự tăng cao catécholamine trong máu. Tăng huyết áp biểu hiện các hình thái khác nhau: + Cơn tăng huyết áp kịch phát. + Tăng huyết áp thường xuyên. U phát hiện ngẫu nhiên: Qua siêu âm hay đi khám sức khỏe định kỳ chúng không có dấu hiệu đặc trưng, đôi khi có dấu hiệu mỏi lưng và hội chứng sau phúc mạc. Vì thế chúng thường được phát hiện tình cờ hoặc sau biến chứng. Để chẩn đoán được u tuyến thượng thận phát hiện ngẫu nhiên chỉ có thể dựa vào chẩn đoán hình ảnh. Theo Copeland[8] tỷ lệ phát hiện được nhóm u này qua chụp CLVT là 0,6 - 1,35%, kết quả gần với nghiên cứu khi mổ tử thi phát hiện 1 - 2% có u tuyến thượng thận. Đặc điểm chẩn đoán hình ảnh U TTT Các triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm sinh hóa rất cần thiết để chẩn đoán loại u ở tuyến thượng thận nhưng để định vị chính xác tổn thương thì các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh đóng một vai trò hết sức quan trọng, nó còn giúp đánh giá tình trạng khối u, ảnh hưởng của khối u đối với các cơ quan lân cận. Sự ra đời của siêu âm và CT scan được coi là cuộc cách mạng trong chẩn đoán vị trí u tuyến thượng thận. Trong nghiên cứu này 100% bệnh nhân được làm siêu âm chẩn đoán kết quả của chúng tôi với độ nhạy 88,5% phù hợp với nghiên cứu các tác giả trên. 3BN phát hiện được tổn thương nhưng định dạng sai vị trí cơ quan bị tổn thương. Hiện nay chụp CLVT là phương pháp chẩn đoán hình ảnh được chọn đầu tiên trong chẩn đoán u tuyến thượng thận. Kết quả nghiên cứu cho thấy chụp CLVT u tuyến thượng thận có độ nhạy 100% phù hợp nghiên cứu của Marois. C 100%[7], của Nguyễn Duy Huề là 96,4%[3]. Kết quả phẫu thuật Thời gian mổ Thời gian phẫu thuật trung bình trong nhóm NC 76,8 ± 29,5 (phút). Thời gian mổ U TTT bên trái: 71,5 ± 28,9(phút), mổ U TTT bên phải: 86,3 ± 39,4 (phút), phù hợp với các kết quả của Gagner. M[4] là 123 phút, (n = 118), là 92,5 phút và Trần Bình Giang[3] là 80 phút (n = 100), của Nguyễn Đức Tiến là 86 phút. Thời gian phẫu thuật phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Kinh nghiệm của phẫu thuật viên, thể trạng bệnh nhân, vị trí của u, kích thước của u, bản chất khối u..., chúng tôi có 1 trường hợp phải chuyển mổ mở do trong quá trình phẫu tích u to và dính, không thể tiếp tục phẫu tích bằng nội soi. Rối loạn huyết động trong mổ Tăng huyết áp khi phẫu tích: Hầu như tất cả các u chế tiết khi mổ đều tăng huyết áp. Cơn cao huyết áp có thể xảy ra khi phẫu tích chạm vào u được rất nhiều tác giả quan tâm tới vì nếu sự phóng thích catecholamine không được kiểm soát tốt thì tính mạng bệnh nhân sẽ nguy hiểm. Kết quả nghiên cứu có 11/63 BN (17,4%) trường hợp huyết áp >200/100mmHg, cơn cao nhất gặp trong mổ là 240/120mmHg, đa số ở nhóm BN Pheochromocytoma. Tai biến trong mổ Kết quả của nhóm NC tỷ lệ tai biến chung là 11,1%, chảy máu trong mổ, chảy máu từ diện bóc tách và tuột clips trong mổ (6,3%) với những u >50mm, được khâu cầm máu bằng chỉ prolen 4.0, 3 BN tổn thương gan (4,8%) do dụng cụ nội soi dùng vén gan làm rách nhu mô gan, chèn gạc tự cầm máu. Kết quả NC tai biến trong mổ của Chapus là 33%, Gagner là 12%[4], Trần Bình Giang[3] là 1,9%. Kết quả NC cho thấy về chỉ định cũng như kĩ thuật phải thận trọng với u > 50mm, lưu ý u bên phải. Các biến chứng và diễn biến sau mổ NC của chúng tôi cho thấy biến chứng sau mổ nhìn chung không gây hậu quả nghiêm trọng (tỉ lệ biến chứng là 6,0%). Kết quả nhóm NC phù hợp với tác giả Trần Bình Giang[3] biến chứng sau mổ là 7%, Brunt[9] là 12,5%, Nguyễn Đức Tiến là 14,7%[2]. Biến chứng sa lồi, thoát vị ở lỗ trocar nhóm NC không gặp trường hợp nào. Xâm phạm thành bụng tối thiểu đó là ưu thế nổi bật của phẫu thuật nội soi u tuyến thượng thận vì thế tỷ lệ nhiễm trùng thành bụng rất thấp[3],[6],[7]. Kết quả NC chỉ gặp 2 trường hợp nào bị nhiễm trùng lỗ trocart, phù hợp với NC của một số tác giả. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 125 Kết quả giải phẫu bệnh Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ: U vỏ TT chiếm đa số với 35/63 BN chiếm 55,6%, u tủy TT 16/63 BN (25,4%), u nang TT 12/63 BN (19%). Giải phẫu bệnh là tiêu chuẩn duy nhất có giá trị chẩn đoán xác định u TTT (u vỏ hay u tủy thượng thận). Đối với u vỏ thượng thận, trong điều kiện khó khăn về phương tiện và hóa chất đã không cho phép nhóm nghiên cứu có được chẩn đoán chính xác giải phẫu bệnh u có nguồn gốc từ lớp nào của vùng vỏ, vì thế việc chẩn đoán các hội chứng gây ra do u vỏ thượng thận (hội chứng Cushing, hội chứng Conn, hội chứng Aipert - Gallais) chủ yếu dựa vào lâm sàng, sinh hóa đặc trưng, chẩn đoán hình ảnh và trả lời kết quả giải phẫu bệnh là u vỏ TTT. Thời gian nằm viện Kết quả của nhóm NC số ngày điều trị TB: 5,6 (ngày) phù hợp NC của Gagner[4] là 4,5 ngày, Bennett[5] là 6,4 ngày, Trần Bình Giang[3] là 4,4 ngày. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu 63 trường hợp U tuyến thượng thận được chẩn đoán và phẫu thuật nội soi điều trị tại bệnh viện Ung Bướu Nghệ An từ 01/2015 đến 08/2020 cho thấy cắt u tuyến thượng thận qua nội soi là phẫu thuật an toàn, hiệu quả cao với tỉ lệ tai biến, biến chứng thấp, đạt được các yêu cầu về điều trị bệnh cũng như đảm bảo tính thẩm mĩ cho người bệnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Bình Giang, Hoàng Long, Lê Ngọc Từ (2000), “Cắt u tuyến thượng thận qua nội soi nhân hai trường hợp”, Ngoại khoa số đặc biệt- chuyên đề nội soi, tr 16-18. 2. Trần Bình Giang, Nguyễn Đức Tiến, Lê Ngọc Từ, Tôn Thất Bách, Đỗ Kim Sơn, Nguyễn Bửu Triều (2000), “Phẫu thuật nội soi cắt u tuyến thượng thận”, Ngoại khoa, tập 44, số 6, tr 13-17. 3. Trần Bình Giang, Nguyễn Đức Tiến (2004), “100 trường hợp cắt u tuyến thượng thận qua nội soi ổ bụng tại Bệnh viện Việt-Đức”, Y học thực hành 4. Gagner.M, Lacroix.A, Botle.A (1992), “Laparoscopic Adrenalectomy in cushing’s syndrome and Pheochromoccytoma”, N.Eng.J.Med, PP 327-1033. 5. Ianc.Bennett and Mark Ray (2002), “Hand- Assisted Laparoscopic Adrenalectomy: An alternative minimal invasive surgical technique for the adrenal gland”, ANZJ.Surg, N072, PP 801-805. 6. Beninca G, Garrone C, Rebecchi F, Giaccone C, Morino.M (2003), “Robot-assisted laparoscopic surery, Premary results at our center”, Chir Ital, N05, PP 321-331. 7. Hubens G, Coverlirs H, Balliu L, Ruppert M, Vaneerdewg W (2003), “A performance study coparing manual and robotically assisted laparoscopic surgery using da Vinci system”, Surg Endosc N017, PP 1595-1599. 8. William E, Grizzle (1988), “Pathology of adrenal grands, Seminas in Roentgenology”, N023, PP 323-331. 9. Brunt L.M. (2006), "Minimal access adrenal surgery", Surg Endosc, 20 (3), 351-61. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 126 ABSTRACT Laparoscopic Adrenal Surgery At Nghe An Oncology Hospital Purpouse: To evaluate short term outcomes of laparoscopic adrenalectomy (LA) at Nghe An Oncology Hospital. Results: 63 patients underwent LA with mean age of 46,8, range: 40 - 70 from 01/2015 to 08/2020; men/women rate was 1/3,4; A right adrenal gland tumor in 42 patients (66,7%), a lelf adrenal gland tumor in 21 patients (33,3%); Pheochromocytoma patients were present most (41,5%), follow by incidentaloma patients (33,3%); tumor size range 2 - 5cm were present most (68%); mean time operative was 76,8 ± 29,5 (min); mean hospital stay was 5,6 ± 1,6 (days); cortex adrenal glands were most common (55,6%): There were no major intraoperative accidents and post operative complications. Conclusions: LA is a safe, effective and well tolerated procedure for the treatment of adrenal tumor with low intraoperative accidents and post complications rate. Key words: Laparoscopic adrenalectomy, adrenal tumor.
File đính kèm:
- ket_qua_phau_thuat_noi_soi_dieu_tri_u_tuyen_thuong_than_tai.pdf