Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019

Thủng ổ loét tá tràng là một trong những bệnh lý ngoại khoa thường gặp, cần mổ cấp cứu. Phẫu thuật nội soi khâu thủng ngày càng phổ biến trên những đối tượng được lựa chọn mang lại kết quả tốt như nằm viện ngắn ngày, ít đau, giảm nguy cơ dính ruột, nhiễm trùng vết mổ. Nghiên cứu nhằm mô tả kết quả mổ nội soi và mổ mở khâu thủng ổ loét tá tràng bằng phương pháp mô tả hồi cứu các bệnh nhân được phẫu thuật tại Bệnh viện Bạch Mai trong 2 năm từ 1/2018 đến 12/2019. Kết quả: 93 bệnh nhân được phẫu thuật gồm 31 ca mổ mở và 62 ca mổ nội soi. Nhóm mổ nội soi, loét non (72,6%), kích thước ổ loét từ 5-10mm (85,5%), khâu đơn thuần (77,3%), đính mạc nối (22,7%). Nhóm mổ nội soi sử dụng ít dịch rửa hơn nhóm mổ mở. Thời gian mổ nội soi là 69,3 ± 20,1 phút, mổ mở là 59,7 ± 5,4 phút. Biến chứng sau mổ chỉ gặp ở nhóm mổ mở gồm 3 nhiễm trùng vết mổ, 1 rò vết khâu thủng và 1 nặng xin về. Thời gian nằm viện nhóm mổ nội soi 6,0 ± 1,1 ngày và nhóm mổ mở 8,5 ± 4,0 ngày. Kết luận: phẫu thuật nội soi là phương pháp điều trị hiệu quả thủng ổ loét hành tá tràng, nằm viện ngắn ngày, không có biến chứng và tử vong

Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019 trang 1

Trang 1

Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019 trang 2

Trang 2

Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019 trang 3

Trang 3

Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019 trang 4

Trang 4

Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019 trang 5

Trang 5

Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019 trang 6

Trang 6

Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019 trang 7

Trang 7

Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019 trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 5780
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019

Kết quả phẫu thuật khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2018 - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
37TCNCYH 142 (6) - 2021
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT KHÂU THỦNG Ổ LOÉT HÀNH TÁ TRÀNG 
TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI GIAI ĐOẠN 2018-2019
Trần Hiếu Học1,2, Nguyễn Huy Du1 và Trần Quế Sơn1,2, 
1Trường Đại học Y Hà Nội
 2Bệnh viện Bạch Mai
Từ khóa: loét hành tá tràng, thủng ổ loét, phẫu thuật mở, phẫu thuật nội soi. 
Thủng ổ loét tá tràng là một trong những bệnh lý ngoại khoa thường gặp, cần mổ cấp cứu. Phẫu thuật nội soi 
khâu thủng ngày càng phổ biến trên những đối tượng được lựa chọn mang lại kết quả tốt như nằm viện ngắn ngày, ít 
đau, giảm nguy cơ dính ruột, nhiễm trùng vết mổ. Nghiên cứu nhằm mô tả kết quả mổ nội soi và mổ mở khâu thủng 
ổ loét tá tràng bằng phương pháp mô tả hồi cứu các bệnh nhân được phẫu thuật tại Bệnh viện Bạch Mai trong 2 
năm từ 1/2018 đến 12/2019. Kết quả: 93 bệnh nhân được phẫu thuật gồm 31 ca mổ mở và 62 ca mổ nội soi. Nhóm 
mổ nội soi, loét non (72,6%), kích thước ổ loét từ 5-10mm (85,5%), khâu đơn thuần (77,3%), đính mạc nối (22,7%). 
Nhóm mổ nội soi sử dụng ít dịch rửa hơn nhóm mổ mở. Thời gian mổ nội soi là 69,3 ± 20,1 phút, mổ mở là 59,7 ± 
5,4 phút. Biến chứng sau mổ chỉ gặp ở nhóm mổ mở gồm 3 nhiễm trùng vết mổ, 1 rò vết khâu thủng và 1 nặng xin 
về. Thời gian nằm viện nhóm mổ nội soi 6,0 ± 1,1 ngày và nhóm mổ mở 8,5 ± 4,0 ngày. Kết luận: phẫu thuật nội soi 
là phương pháp điều trị hiệu quả thủng ổ loét hành tá tràng, nằm viện ngắn ngày, không có biến chứng và tử vong.
Tác giả liên hệ: Trần Quế Sơn
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: tranqueson@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 24/03/2021
Ngày được chấp nhận: 22/04/2021
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thủng là một biến chứng đe dọa tính mạng 
của bệnh loét dạ dày tá tràng và cần can thiệp 
phẫu thuật ngay trong hầu hết các trường 
hợp.1,2 Tỷ lệ thủng ổ loét tá tràng trên thế giới 
khoảng 3,77-10/100.000 dân/năm. Hiện nay, 
nhờ những tiến bộ khoa học đáng kể trong 
lĩnh vực ngoại khoa và hồi sức, tỷ lệ tử vong ở 
những bệnh nhân thủng ổ loét tá tràng đã giảm 
còn từ 2,9% đến 9,1%.3,4 Điều trị thủng ổ loét tá 
tràng trong những thập niên gần đây có nhiều 
thay đổi. Những hiểu biết về sinh bệnh học của 
loét hành đã thay đổi thái độ điều trị, phương 
pháp khâu lỗ thủng ổ loét kèm điều trị nội khoa 
được áp dụng đối với hầu hết những trường 
hợp thủng ổ loét tá tràng.1,3
Trong khâu lỗ thủng có hai phương pháp là 
phẫu thuật nội soi và mổ mở. Mỗi phương pháp 
lại có các ưu và nhược điểm riêng. Hiện nay 
với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, phẫu 
thuật nội soi (PTNS) ngày càng được sử dụng 
rộng rãi trong điều trị thủng ổ loét tá tràng. Tuy 
nhiên mổ mở cũng có một số ưu điểm như thời 
gian phẫu thuật ngắn, có thể áp dụng trong hầu 
hết các trường hợp, đặc biệt là các trường hợp 
bệnh nhân nặng và có chống chỉ định của phẫu 
thuật nội soi.4,5,6,7,8 
Tại khoa Ngoại Bệnh viện Bạch Mai trong 
nhiều thập kỷ qua có nhiều nghiên cứu về các 
phương pháp điều trị thủng ổ loét tá tràng cả 
về mổ mở cũng như mổ nội soi.9 Phẫu thuật 
nội soi là phương pháp được áp dụng phổ biến 
hiện nay, với nhiều ưu điểm như vết mổ nhỏ, 
thời gian nằm viện ngắn, vết mổ ít đau, người 
bệnh có nhu động ruột và phục hồi sau mổ sớm 
hơn. Các bệnh nhân đến Bệnh viện Bạch Mai 
thường kèm theo nhiều bệnh phối hợp và do 
vậy, tùy theo tình trạng bệnh nhân, các phẫu 
thuật viên sẽ áp dụng các phương pháp phẫu 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
38 TCNCYH 142 (6) - 2021
thuật nội soi hay mổ mở khâu lỗ thủng. Nghiên 
cứu này nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật 
khâu thủng ổ loét hành tá tràng tại Bệnh viện 
Bạch Mai giai đoạn từ 1/2018 đến 12/2019.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bệnh nhân thủng ổ loét tá tràng, được mổ 
khâu lỗ thủng tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 
1/2018 – tháng 12/2019.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Các ca bệnh có hồ sơ 
bệnh án đủ thông tin cần thiết cho nghiên cứu 
lấy tại phòng lưu trữ hồ sơ Bệnh viện Bạch Mai, 
được chẩn đoán sau mổ là thủng ổ loét hành tá 
tràng, được phẫu thuật khâu lỗ thủng bằng phẫu 
thuật nội soi hoặc mổ mở. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân có hẹp môn 
vị kèm theo, không có hồ sơ trên phòng lưu trữ 
hoặc hồ sơ không có đủ thông tin cần thu thập.
2. Phương pháp
Phương pháp nghiên cứu: mô tả hồi cứu, cỡ 
mẫu thuận tiện. 
Thu thập thông tin từ bệnh án gốc vào mẫu 
bệnh án nghiên cứu với các biến số được chia 
theo nhóm mổ mở (bao gồm cả nội soi thăm dò 
thấy không thể làm nội soi chuyển mổ mở) và 
nội soi. Đặc điểm chung bao gồm tuổi và giới 
tính, tiền sử nội ngoại khoa. Đặc điểm lâm sàng: 
thời gian từ khi thủng đến khi mổ, dấu hiệu lâm 
sàng, cận lâm sàng chính (xét nghiệm sinh hóa 
huyết học, Xquang, siêu âm, cắt lớp vi tính. Kết 
quả phẫu thuật: thời gian phẫu thuật, tình trạng 
và kích thước ổ loét thủng, tình trạng ổ bụng, 
phương pháp khâu lỗ thủng (khâu đơn thuần, 
mũi rời hay chữ X, có hay không đắp mạc nối), 
lượng dịch rửa, số lượng và vị trí dẫn lưu, tai 
biến trong mổ và diễn biến, biến chứng sau mổ.
3. Xử lý số liệu
Thông tin được quản lý bằng phần mềm 
SPSS 20.0 (SPSS Inc., Chicago, IL, USA). Biến 
định lượng được tính và so sánh dưới dạng X ± 
SD, thống kê tần số và tỷ lệ phần trăm với các 
biến ngẫu nhiên.
4. Đạo đức nghiên cứu
Thông tin về bệnh tật của bệnh nhân được 
bảo mật và chỉ được sử dụng cho mục đích 
nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung và chẩn đoán
Có 93 bệnh nhân gồm 72 nam và 21 nữ 
(nam/nữ = 3,4/1), tuổi trung bình 53,85 ± 19,35 
(16 - 98), có 31 mổ mở (trong đó có 2 nội soi 
chuyển mở), 62 mổ nội soi. 
Độ tuổi ≥ 60 tuổi mổ mở chiếm ưu thế với 
67,7% còn nhóm PTNS chủ yếu trong độ tuổi 
lao động (20 – 60) với 67,8%.
Bệnh nội khoa kèm theo: nhóm mổ mở có 
29/31 BN (93,5%), nhóm phẫu thuật nội soi có 
tỷ lệ thấp hơn 27/62 (43,5%).
Tiền sử viêm loét dạ dày – tá tràng: nhóm mổ 
mở 16/31 (51,6%) và nhóm nội soi 18/62 (29,0%).
Lâm sàng khá điển hình: đau bụng dữ dội 
đột ngột 66,5%; bụng co cứng toàn bộ nhóm 
mổ mở 64,5%, nhóm nội soi 61,3% còn lại là 
co cứng khu trú thượng vị hay ... 
mở là 58,1%. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
40 TCNCYH 142 (6) - 2021
Bảng 4. Lượng dịch rửa ổ bụng
Lượng dịch rửa (ml)
Mổ mở (n = 31) PTNS (n = 62)
n (n = 31) (%) (n = 93) n (%)(n = 62)
 (%)
(n = 93)
Từ 1 – 3 lít 3 9,6 3,2 39 62,9 41,9
Từ 3 – 5 lít 21 67,8 22,6 23 37,1 24,7
Trên 5 lít 7 22,6 7,6 0 0 0
Tổng 31 100 33,3 62 100 66,7
Hầu hết lượng dịch sử dụng từ 1 – 5 lít chiếm 92,4%. Nhóm mổ mở sử dụng nhiều dịch rửa hơn 
nhóm PTNS.
Số lượng và vị trí dẫn lưu: Phẫu thuật nội soi: thường đặt 2 dẫn lưu (dưới gan + douglas) chiếm 
56,5%, có 11,3% thêm dẫn lưu dưới hoành trái còn 32,2% đặt 1 dẫn lưu dưới gan. Phẫu thuật mở: 
58% đặt 1 dẫn lưu dưới gan và 42% đặt 2 dẫn lưu. Không có trường hợp nào đặt 3 dẫn lưu. 
Thời gian phẫu thuật trung bình với nội soi là 69,3 ± 20,1 phút (35-150), mổ mở 59,7 ± 5,4 phút (60-
125). Thời gian nằm nội soi (6,0 ± 1,1 ngày) ngắn hơn thời gian nằm viện của mổ mở (8,45 ± 4 ngày).
Thời gian rút dẫn lưu thường vào ngày 4 - 5 sau mổ
Thời gian có trung tiện mổ nội soi nhanh hơn mổ mở: mổ nội soi 93,5% ngày thứ 2 và ngày thứ 
3 là 6,5%, mổ mở vào ngày thứ 3 chiếm 67,7%, còn 22,6% trong 2 ngày đầu và 9,7% sau 3 ngày.
Bảng 5. Biến chứng sớm sau mổ
Biến chứng sớm Mổ mở (n = 31) PTNS (n = 62)
n % n %
Chảy máu 0 0% 0 0%
Nhiễm trùng vết mổ 3 9,7% 0 0%
Áp xe dưới cơ hoành 0 0% 0 0%
Rò vị trí khâu lỗ thủng 1 3,2% 0 0%
Nặng xin về 1 3,2% 0 0%
Nhóm phẫu thuật nội soi không có biến chứng, nhóm mổ mở có 1 BN nặng xin về (3,2%) được 
coi là tử vong sau mổ.
IV. BÀN LUẬN
Kết quả cho thấy phẫu thuật nội soi chiếm 
tỷ lệ cao 66,6% so với mổ mở 31,2% và 2 ca 
chuyển mở, cao hơn so với một số nghiên cứu 
khác trên thế giới. Stepannian SA và cộng sự 
(2019) với 120 trường hợp, có 61 bệnh nhân 
được phẫu thuật mở (50,8%), 56 phẫu thuật nội 
soi (46,7%) và 3 chuyển mở (2,5%).1 Lunevicius 
R và cộng sự (2005) có 60/222 phẫu thuật nội 
soi (27%) và 162/222 mổ mở (73%).3 Phương 
pháp phẫu thuật nội soi khâu lỗ thủng hành tá 
tràng ngày càng được áp dụng phổ biến trên thế 
giới vì giúp bệnh nhân phục hồi sớm sau mổ. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
41TCNCYH 142 (6) - 2021
Nghiên cứu cho thấy hướng phát triển đúng đắn 
trong kĩ thuật phẫu thuật xử lý tổn thương. Các 
trường hợp mổ mở của chúng tôi thường do có 
các bệnh nội khoa kết hợp hoặc do khi phẫu 
thuật nội soi thấy ổ bụng nhiều dịch đục và giả 
mạc ở khắp ổ bụng khó xử lý triệt để nên phẫu 
thuật viên đã quyết định chuyển mổ mở để xử trí 
tổn thương nhanh chóng hơn, tránh nguy cơ sốc 
nhiễm trùng, nhiễm độc.
Về đặc điểm lỗ thủng ổ loét tá tràng thấy tất 
cả các bệnh nhân chỉ có một lỗ thủng đơn thuần 
và đều ở vị trí mặt trước hành tá tràng, không 
có sự khác biệt trong hai nhóm kỹ thuật. Kết 
quả này cũng tương tự với nhiều kết quả khác 
nghiên cứu về thủng ổ loét hành tá tràng như 
của Trần Mạnh Cường và Trần Bình Giang. 9,10 
Nhóm mổ mở có tỷ lệ ổ loét non và xơ chai xấp 
xỉ nhau (48,4% và 51,6%). Trong khi đó, nhóm 
mổ nội soi tỷ lệ thủng ổ loét non chiếm 72,6% 
nhiều hơn thủng ổ loét xơ chai (27,4%). Với 33 
ca thủng ổ loét xơ chai thì 19 bệnh nhân được 
khâu lỗ thủng bằng mũi chữ X có đắp mạc nối 
và 14 khâu mũi rời. 
Hầu hết lỗ thủng kích thước 5 – 10mm (29/31 
nhóm mổ mở và 53/62 nhóm mổ nội soi), chỉ 4 
trường hợp > 10mm và đều được khâu mũi rời 
(2 mổ mở và 2 mổ nội soi) đều diễn biến ổn định 
sau mổ. Nguyễn Hữu Trí (2017) với 72 bệnh 
nhân thì lỗ thủng trung bình 4,1 ± 2,6mm và 
98,6% nhỏ hơn 10mm.12 Có thể thấy mặc dù 
kĩ thuật khó nhưng các phẫu thuật viên có kinh 
nghiệm vẫn có thể xử trí tốt tổn thương bằng 
phẫu thuật nội soi. Kinh nghiệm của Siu cũng 
thường khâu và đính mạc nối khi lỗ thủng lớn.1
Tình trạng ổ bụng nhóm mổ mở có phần 
nghiêm trọng hơn so với nhóm được PTNS 
(bảng 2) do bệnh nhân đến muộn hơn, ổ bụng 
nhiều dịch và giả mạc, và nhất là bụng trướng 
nhiều nên hạn chế chỉ định PTNS. Việc lựa chọn 
phương án phẫu thuật đối với từng tổn thương 
cụ thể là rất quan trọng. Đánh giá đúng tình trạng 
người bệnh để tiên lượng cuộc mổ, lựa chọn 
phương pháp điều trị, vừa giúp bệnh nhân được 
giải quyết tổn thương nhanh chóng lại vừa triệt 
để, ít để lại các biến chứng sau mổ.1,11 Có sự 
khác biệt về lượng dịch rửa giữa 2 phương pháp 
phẫu thuật, trong mổ mở thường sử dụng nhiều 
hơn. Phẫu thuật nội soi có thể quan sát được rõ 
các khoang chỉ cần bơm một lượng nước vừa 
đủ là đã có thể rửa sạch những dịch bẩn nên có 
thể tiết kiệm dịch rửa hơn so với mổ mở.
Thời gian phẫu thuật rất được quan tâm, 
được đề cập đến trong hầu hết các báo cáo 
về phẫu thuật khâu lỗ thủng ổ loét da dày - 
tá tràng. Trong nghiên cứu của chúng tôi thời 
gian phẫu thuật nội soi trung bình là 69,3 ± 
20,1 phút, không có sự chênh lệch nhiều so 
với nhóm mổ mở 59,7 ± 5,4 phút. Thời gian 
phẫu thuật nội soi tương đương của Trần 
Mạnh Cường 62,63 ± 19,43, của Lunevicius 
R là 76,2 ± 35,3 phút, của Rita Laforgia (2017) 
là 72 phút.3,4,9 Tác giả Bergamaschi R và CS 
(1999) thấy mổ mở nhanh hơn mổ nội soi (65 
phút so với 92 phút, p < 0,01).13 Phẫu thuật nội 
soi ngày càng được sử dụng thường quy nên 
thời gian mổ được rút ngắn nhờ kinh nghiệm 
của phẫu thuật viên.7,12 
Số lượng dịch rửa sử dụng ở nhóm mổ nội 
soi ít hơn nhóm mổ mở (Bảng 4) vì trong phẫu 
thuật nội soi khi bơm một lượng nước vào khu 
trú một vùng rồi hút ra và có thể quan sát được 
rõ các khoang. Do đó, chỉ cần bơm một lượng 
nước vừa đủ là đã có thể rửa trôi đi những dịch 
bẩn. Phẫu thuật nội soi có thể tiết kiệm dịch rửa 
hơn so với mổ mở. Nguyễn Hữu Trí (2017) cũng 
có lượng dịch rửa trung bình 1368,3 ± 758,2ml.12
Về vấn đề đặt dẫn lưu ổ bụng có nhiều ý kiến 
khác nhau, có tác giả không đặt dẫn lưu, có tác 
giả đặt một dẫn lưu dưới gan, có tác giả đặt hai 
dẫn lưu dưới gan và Douglas, thậm chí có tác 
giả còn đặt nhiều vị trí hơn nữa. Katkhouda N 
và Siu WT chỉ rửa sạch ổ bụng mà không cần 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
42 TCNCYH 142 (6) - 2021
đặt dẫn lưu. 2,11 Nghiên cứu này cho thấy, đối 
với phẫu thuật mở, các phẫu thuật viên có 
thể kiểm soát được tổn thương tốt hơn nên 
số dẫn lưu đặt ít hơn so với mổ nội soi. Có 7 
trường hợp sau mổ nội soi phải đặt 3 dẫn lưu 
là các trường hợp khắp ổ bụng nhiều dịch mủ 
đục và giả mạc, quá trình rửa ổ bụng có khó 
khăn, mất nhiều thời gian nên các phẫu thuật 
viên đã đặt nhiều dẫn lưu để dễ dàng theo dõi 
diễn biến sau mổ. 
Thời gian nằm viện của nhóm phẫu thuật nội 
soi là 6,0 ± 1,1 ngày (4 - 10 ngày) và với phẫu 
thuật mở là 8,45 ± 4 ngày (4 – 28) cho thấy 
mổ nội soi giúp người bệnh phục hồi nhanh và 
có thể trở về với cuộc sống sinh hoạt thường 
ngày sớm hơn. Hầu hết các tác giả cũng có kết 
quả và nhận xét tương tự, như của Trần Mạnh 
Cường có thời gian là 6,65 ± 1,63 ngày, hay 
của tác giả Nguyễn Hữu Trí là 5,7 ± 1,2 ngày, 
của Alijiohahi H là 5 ngày.5,9,12 Nghiên cứu của 
Lanevicius R trên 226 bệnh nhân cho thấy thời 
gian nằm viện sau PTNS là 7,8 ± 5,3 ngày còn 
mổ mở là 10,3 ngày.3 Vakayil và cộng sự thực 
hiện trên 616 bệnh nhân được điều trị thủng ổ 
loét tá tràng bằng phương pháp nội soi so sánh 
với nhóm chứng là 5644 bệnh nhân được phẫu 
thuật mổ mở, kết quả cho thấy bệnh nhân được 
phẫu thuật nội soi có thời gian nằm viện ngắn 
hơn, tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ, biến chứng và 
tử vong đều thấp hơn so với nhóm chứng là 
nhóm được mổ mở.6 Laforgia R và cộng sự với 
59 bệnh nhân gồm 38 mổ mở, 21 PTNS thì thời 
gian nằm viện của phẫu thuật nội soi cũng ngắn 
hơn (7,5 so 13,1 ngày).4
Nhìn chung tỷ lệ biến chứng sau mổ thấp và 
chủ yếu gặp ở nhóm mổ mở, thường liên quan 
đến thể trạng kém hơn, toàn trạng nặng hơn, 
bệnh nhân đến muộn hơn. Đây cũng là lý do 
khiến bệnh nhân trong nhóm này không thể áp 
dụng mổ nội soi được. Chúng tôi ghi nhận có 
một trường hợp rò tiêu hóa do bục chỗ khâu. 
Đây là trường hợp có lỗ thủng lớn (> 10 mm), 
mổ mở và khâu mũi rời. Vào ngày thứ 5 sau 
mổ, dẫn lưu dưới gan ra dịch tiêu hóa nhưng 
không có viêm phúc mạc nên bệnh nhân được 
lưu dẫn lưu, điều trị nội chờ thời gian lành vị trí 
bị rò. Theo Lenuvicius R thì tỷ lệ rò chỗ khâu 
trong phẫu thuật nội soi là 6,9% và mổ mở là 
2% - là nguyên nhân chính chỉ định mổ lại. 
Tỷ lệ tử vong là 9% và tất cả đều là các bệnh 
nhân trong nhóm mổ mở.3 Nghiên cứu của 
Bergamaschi R có có 2 bệnh nhân tử vong, 
chiếm tỷ lệ 11,8%.13 Chúng tôi có 1 trường 
hợp xin về được coi như tử vong thuộc nhóm 
mổ mở. Phân tích gộp của Quah G.S. thấy 
không có sự khác nhau về tỷ lệ biến chứng 
sau mổ giữa 2 nhóm mổ mở và nội soi.8 
Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả chung 
khá tốt với tỷ lệ tử vong và biến chứng thấp, 
nhất là với nhóm mổ nội soi do có sự cân nhắc 
chọn lựa bệnh nhân phù hợp chỉ định. Nghiên 
cứu của Tân S dựa trên 549 bệnh nhân (279 
PTNS và 270 mổ mở) cho thấy không có sự 
khác biệt giữa hai phương pháp phẫu thuật này 
trên một số yếu tố bao gồm tỷ lệ biến chứng 
sau phẫu thuật, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ tái phát.14 
Phẫu thuật nội soi đã cho thấy được lợi thế lớn 
hơn so với mổ mở đó, thời gian trung tiện, ngày 
nằm viện ít hơn so với mổ mở.7,8
V. KẾT LUẬN
Thủng ổ loét hành tá tràng được xử trí cấp 
cứu bằng phương pháp mổ mở hay mổ nội soi 
phụ thuộc vào một số yếu tố như tình trạng bệnh 
nhân đến sớm hay muộn, ổ bụng nhiễm khuẩn và 
giả mạc nhiều hay ít, cũng như nguy cơ của gây 
mê hồi sức và phẫu thuật, kỹ năng mổ nội soi. 
Phẫu thuật nội soi khâu ổ loét hành tá tràng thủng 
mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh khi chỉ định 
đúng và kỹ năng của phẫu thuật viên tốt với tỷ lệ 
biến chứng và tử vong thấp. Do vậy, cần cân nhắc 
để lựa chọn phương pháp điều trị cho thích hợp. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
43TCNCYH 142 (6) - 2021
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cám ơn các bệnh 
nhân trong nghiên cứu, các khoa phòng Bệnh 
viện Bạch mai và Bộ môn Ngoại Trường Đại 
học Y Hà Nội đã tạo điều kiện cho việc thực 
hiện nghiên cứu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Stepanyan SA, Petrosyan AA, Safaryan 
HH, et al. Laparoscopic and open repair for 
perforated duodenal ulcer: single-center expe-
rience. Wideochir Inne Tech Maloinwazyjne. 
2019: 14(1), 60-69.
2. Siu WT, Leong HT, Law BK, et al. Lap-
aroscopic repair for perforated peptic ulcer: a 
randomized controlled trial. Ann Surg. 2002; 
235(3):313-319.
3. Lunevicius R, Morkevicius M. Compar-
ison of laparoscopic versus open repair for 
perforated duodenal ulcers. Surg Endosc. 
2005;19(12):1565-1571.
4. Laforgia R, Balducci G, Carbotá tràn-
ga G, et al. Laparoscopic and Open Surgical 
Treatment in Gastroduodenal Perforations: Our 
Experience. Surg Laparosc Endosc Percutan 
Tech. 2017;27(2):113-115.
5. Aljohary H, Althani H, Elmabrok G, et 
al. Outcome of laparoscopic repair of per-
forated duodenal ulcers. Singapore Med J. 
2013;54(4):216-219.
6. Vakayil V, Bauman B, Joppru K, et al. 
Surgical repair of perforated peptic ulcers: lap-
aroscopic versus open approach. Surg Endosc. 
2019;33(1):281-292. 
7. Gouta EL, Dougaz W, Khalfallah M, 
et al. Management of perforated duodenal 
peptic ulcer treated by suture. Tunis Med. 
2018;96(7):424-429.
8. Quah GS, Eslick GD, Cox MR. Laparo-
scopic Repair for Perforated Peptic Ulcer Dis-
ease Has Betá trànger Outcomes Than Open 
Repair. J Gastrointest Surg. 2019;23(3):618-
625.
9. Trần Mạnh Cường. Đánh giá kết quả điều 
trị phẫu thuật nội soi thủng ổ loét hành tá tràng 
tại bệnh viện Bạch Mai từ năm 2013-2018. 
Luận văn bác sĩ chuyên khoa II, Đại học Y Hà 
Nội; 2018.
10. Trần Bình Giang, Lê Việt Khánh, 
Nguyễn Đức Tiến và cộng sự. Đánh giá khâu 
lỗ thủng ổ loét dạ dày tá tràng qua soi ổ bụng 
tại bệnh viện Việt Đức. Tạp chí Y học Việt 
Nam. 2006:143 – 147.
11. Katkhouda N, Mavor E, Mason RJ, et al. 
Laparoscopic repair of perforated duodenal ul-
cers: outcome and efficacy in 30 consecutive 
patients. Arch Surg. 1999;134(8):845-848.
12. Nguyễn Hữu Trí. Nghiên cứu ứng dụng 
phẫu thuật nội soi một cổng khâu lỗ thủng ổ loét 
tá tràng. Luận án Tiến sỹ y học, Đại học Y Dược 
Huế; 2017.
13. Bergamaschi R, Marvik R, Johnsen G, 
et al. Open vs laparoscopic repair of perforated 
peptic ulcer. Surg Endosc. 1999;13(7):679-682.
14. Tan S, Wu G, Zhuang Q, et al. Laparoscopic 
versus open repair for perforated peptic ulcer: A 
meta analysis of randomized controlled trials. Int 
J Surg. 2016;33 Pt A:124-132. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
44 TCNCYH 142 (6) - 2021
Summary
SURGICAL RESULTS FOR REPAIR OF PERFORATED DUODENAL 
ULCER AT BACHMAI HOSPITAL
Perforation of duodenal ulcers is one of the common diseases that require emergency operation. 
Laparoscopic treatment is increasingly popular on selected subjects with good results such as short 
hospital stay, less pain, reduced risk of intestinal adhesions and wound infection. The purpose of 
this study is to compare the results of laparoscopic surgery and open method to repair perforated 
duodenal ulcers by retrospective description method of patients at Bach Mai Hospital for 2 years 
from 1/2018 to 12/2019. Results: from 93 patients, 31 had open operations and 62 laparoscopic 
surgeries. Patients in the laparoscopic surgery group had premature ulcers (72.6%), ulcer size 
5-10mm (85.5%), simple stitches (77.3%), conjunctival attachment (22.7%). The laparoscopic group 
used less cleaning fluid than the open surgery group. The time for laparoscopic surgery was 69.3 ± 
20.1 minutes, open surgery was 59.7 ± 5.4 minutes. Complications after surgery were only seen in 
the open surgery group, including 3 wound infections, 1 postoperative leak, and 1 serious patient 
asked to be discharged. Duration of hospital stay in the laparoscopic group was 6.0 ± 1.1 days 
and the open group was 8.5 ± 4.0 days. Conclusion: laparoscopic surgery is an effective treatment 
method for duodenal ulcers perforation with a short hospital stay, no complications and death.
Keywords: duodenal ulcer, ulcer perforation, open surgery, laparoscopic surgery.

File đính kèm:

  • pdfket_qua_phau_thuat_khau_thung_o_loet_hanh_ta_trang_tai_benh.pdf