Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng

Đánh giá hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong giảng dạy kỹ năng điều dưỡng lên kết quả thi thực hành của sinh viên; tìm hiểu quan điểm của sinh viên về tính khả thi và khả năng chấp nhận của phương pháp giảng dạy được ứng dụng.

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trang 1

Trang 1

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trang 2

Trang 2

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trang 3

Trang 3

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trang 4

Trang 4

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trang 5

Trang 5

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trang 6

Trang 6

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trang 7

Trang 7

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trang 8

Trang 8

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trang 9

Trang 9

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang Danh Thịnh 13/01/2024 860
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng

Hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong phương pháp giảng dạy kỹ năng điều dưỡng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 265
HIỆU QUẢ CỦA ỨNG DỤNG ĐOẠN PHIM NGẮN 
TRONG PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KỸ NĂNG ĐIỀU DƯỠNG 
Đoàn Thị Anh Lê*, Phạm Thị Ánh Hương*, Trần Thị Hồng Thắm*, Trần Mỹ Bình*, 
Đặng Thị Minh Phượng*, Nguyễn Thị Kim Oanh*, Trần Thị Thùy Dung* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của ứng dụng đoạn phim ngắn trong giảng dạy kỹ năng điều dưỡng lên kết 
quả thi thực hành của sinh viên; tìm hiểu quan điểm của sinh viên về tính khả thi và khả năng chấp nhận của 
phương pháp giảng dạy được ứng dụng. 
 Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu bán can thiệp có nhóm chứng và định tính: 102 sinh viên cử nhân 
hộ sinh khóa 2014 – 2018 (nhóm chứng) và 80 sinh viên cử nhân hộ sinh khóa 2015 – 2019 (nhóm can thiệp). Kết 
quả thi thực hành của hai nhóm được so sánh để đánh giá hiệu quả của can thiệp. Phỏng vấn bán cấu trúc để tìm 
hiểu quan điểm của đối tượng nghiên cứu trong nhóm can thiệp về phương pháp giảng dạy mới được áp dụng. 
Kết quả: Ứng dụng đoạn phim ngắn đã có tác động tích cực lên kết quả học thực hành môn của sinh viên (p 
= 0,001). Nhận thức của sinh viên về phương pháp này nhìn chung mang tính tích cực, có tính khả thi và có khả 
năng chấp nhận được. Nghiên cứu này đã cho ta thấy các ưu điểm cũng như một số hạn chế của phương pháp 
giảng dạy được can thiệp. 
Kết luận: Ứng dụng đoạn phim ngắn trong giảng dạy các kỹ năng điều dưỡng cơ sở có hiệu quả đáng kể lên 
kết quả học thực hành của sinh viên. Các nội dung bàn luận đưa ra liên quan đến việc tăng tính khả thi và tính 
ứng dụng của phương pháp giảng dạy được áp dụng. 
Từ khóa: Kỹ năng điều dưỡng, phim, tính khả thi, tính chấp nhận. 
ABSTRACT 
EFFECTS OF APPLYING SHORT VIDEOS ON TEACHING FUNDAMENTAL OF NURSING SKILLS 
Doan Thi Anh Le, Pham Thi Anh Huong, Tran Thi Hong Tham, Tran My Binh, Dang Thi Minh 
Phuong, Nguyen Thi Kim Oanh, Tran Thi Thuy Dung 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 5- 2018: 265 – 275 
Objectives: Evaluate the effects of applying short videos in teaching nursing skills on students’ results of 
practice exam; and explore students’ views about the feasibility and acceptability of the teaching method applied. 
Participants – Methods: Quasi experiment and qualitative design: 102 midwifery students course 2014 – 
2018 (control group) and 80 midwifery students course 2015 – 2019 (experimental group: short videos 
application in teaching skills). The results of the practice exam were compared to assess the effects of the 
intervention. Semi structured interviews were conducted to investigate the views of participants in the 
experimental group on the new teaching method. 
Results: Results indicate that the application of short videos has a positive impact on students’ results of 
practice exam (p = 0.001). Students’ perceptions of this approach are generally positive, feasible, and acceptable. 
This study shows the advantages as well as the limitations of the teaching methods are used. 
Conclusions: Applying short videos in teaching fundamental of nursing skills has a significant effect on 
student learning outcomes. The issues are discussed related to increasing the feasibility and acceptability of 
**Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh. 
Tác giả liên lạc: BS. Đoàn Thị Anh Lê, ĐT: 098.903.5428, Email: doanthianhle@ump.edu.vn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 266
teaching method applied. 
Keywords: Nursing skills, videos, feasibility, acceptability. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong giảng dạy điều dưỡng, giảng dạy kỹ 
năng tại phòng thực hành đóng vai trò rất quan 
trọng: giúp sinh viên ứng dụng kiến thức đã học, 
làm tăng sự tự tin, tăng động lực học tập, đem 
lại sự an toàn cho sinh viên và cả người bệnh tại 
lâm sàng(5); mang lại một môi trường học tập 
được bảo vệ cho phép xảy ra những sai phạm(9). 
Trước đây, tại khoa Điều dưỡng - Kỹ thuật 
Y học, Đại học Y dược Tp.Hồ Chí Minh, để 
chuẩn bị cho mỗi buổi học kỹ năng môn Điều 
dưỡng cơ bản trên lớp, sinh viên được yêu cầu 
đọc bảng kiểm về kỹ năng sẽ học trước khi đến 
lớp. Phương pháp giảng dạy đã được xây 
dựng dựa trên phương pháp giảng dạy 4 bước 
của Peyton(2). Theo cách dạy trên, sinh viên có 
cơ hội đọc hướng dẫn thực hiện kỹ năng dựa 
vào bảng kiểm và việc thể hiện kỹ năng đó 
như thế nào thì sinh viên chỉ có một cơ hội duy 
nhất khi đến lớp và được quan sát giáo viên 
trình diễn kỹ năng. Qua quan sát và kinh 
nghiệm giảng dạy cho thấy một số sinh viên 
đã không tích cực trong việc chuẩn bị bài trước 
khi đến lớp. Điều này đã hạn chế tính chủ 
động của sinh viên khi học thực hành. 
Các nghiên cứu trước đây đã khẳng định 
ảnh hưởng tích cực của việc xem phim lên việc 
học của sinh viên: xem phim khi học thực hành 
là phương pháp hiệu quả để nâng cao kỹ năng 
ngoại khoa của sinh viên y khoa(8). Khi dạy các 
kỹ năng thực hành lâm sàng, giảng dạy trực 
tuyến dựa trên phim hiệu quả hơn dựa trên 
giảng dạy bằng ngôn ngữ(1); sử dụng đoạn phim 
ngắn trong giảng dạy các kỹ năng lâm sàng có 
hiệu quả hơn so với phương pháp giảng dạy 
truyền thống mặt đối mặt(3). Sử dụng phim ảnh 
trong giảng dạy kỹ năng giúp cải thiện điểm số 
của sinh viên về kỹ năng đó(4). Phương pháp sử 
dụng các đoạn phim hướng dẫn kỹ năng được 
đưa lên trang web trong giảng dạy môn thăm 
khám thể chất bằng đã cải thiện kỹ năng thăm 
khám của sinh viên y khoa năm nhất(5). 
Để nâng cao hiệu quả cho việc học kỹ năng 
của sinh viên điều dưỡng trong phòng thực 
hành, nhiều chiến lược đã được chúng tôi ứng 
dụng như cải tiến phương pháp giảng dạy, đầu 
tư trang thiết bị, mô hình hiện đại tại phòng thực 
hành và cải tiến phương pháp lượng giá. Và một 
trong những cải tiến phương pháp giảng dạy là 
ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực 
giáo dục và đào tạo. Đây được cho là một 
phương pháp học tích cực với môi trường học 
mở, tiếp cận cô ...  xem phim 
tại nhà và trên lớp sẽ hiệu quả hơn nếu như chỉ 
xem một lần trên lớp: “Cảm thấy là nếu mình ở 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 272
nhà chuẩn bị tốt thì hiệu quả hơn nếu như xem có 
một lần”. Một vài sinh viên cho rằng nên xem ở 
nhà trước 2 lần thì mới nhớ được kỹ thuật: “Ở 
nhà trung bình các bạn xem phim mà để mà nhớ phải 
xem hai lần trước khi đến lớp”. 
Nơi xem phim và người xem phim cùng 
Đa số sinh viên xem phim trước tại nhà và 
xem một mình. Một số ít đã xem chung cả nhóm 
bằng hình thức livestream trên điện thoại rồi 
cùng thảo luận: “Có bữa laptop bị hư nguyên cả tổ 
livestream coi một đứa nó có laptop quay, rồi phát 
cho cả nhóm xem”; “có trao đổi với nhau, chỗ nào 
không hiểu thì hỏi”; “thấy ý kiến nào trùng nhau mà 
không biết giải quyết thì  đem ra hỏi cô, còn giải 
quyết được thì giải quyết với nhau”. 
Độ dài của phim 
Đa số sinh viên đánh giá độ dài của các phim 
được chọn khi học là phù hợp, trung bình từ 5 - 
10 phút cho mỗi kỹ thuật: “Nói về các bước vậy là 
hợp lý rồi đó cô”. 
Chất lượng đĩa phim 
Với phương pháp này, mỗi sinh viên sẽ được 
phát 1 đĩa phim bao gồm các kỹ thuật sẽ được 
học trong môn ĐDCS1. Đa số sinh viên phát 
biểu rằng đĩa phim sẽ dễ bị hỏng, do đó không 
xem được lâu: “đĩa bị xướt, bị hư, không giữ được 
phim lâu, không coi được”. Một số sinh viên cho 
biết việc chép phim vào đĩa có thể làm cho sinh 
viên không xem phim do ngại mởi máy tính 
hoặc không có laptop để xem mà lại không thể 
mở đĩa bằng điện thoại: “Đôi khi lười với lại một số 
bạn không có laptop để coi”; “Mấy bạn không có máy 
để xem vừa không có laptop mà điện thoại cũng không 
coi được”. Tuy nhiên, các sinh viên không sử 
dụng máy tính ở thư viện để xem mà một số 
sinh viên sao chép thành tập tin và xem trên điện 
thoại: “không copy được nên phải nhờ các bạn bên 
công nghệ thông tin”. Đa số sinh viên đã đề nghị 
giáo viên gửi liên kết của phim qua mail để sinh 
viên có thể tự xem: “gửi link qua mail”; “gửi link 
cho lớp rồi lớp tự mở, đỡ rắc rối”. Một số khác có ý 
kiến là giáo viên gửi qua hình thức nào cũng 
được miễn sao sinh viên có thể xem trên điện 
thoại: “miễn sao là các em có thể xem được bằng điện 
thoại”; “mạng wifi đầy, down xuống mà cô, vô 
Parkson, down xuống là xong, giả sử không có wifi 
thì phải đi ké, xong rồi tải về”. 
Ngôn ngữ Tiếng Anh trong các đoạn phim 
Sinh viên cảm nhận được các phim kỹ thuật 
bằng Tiếng Anh được giáo viên cung cấp 
chuyên nghiệp hơn các phim bằng Tiếng Việt 
mà sinh viên tự tìm được trên Youtube: “Em có 
cảm giác Tiếng Anh có vẻ chuyên nghiệp hơn. Mấy 
bữa thi, em có lên Youtube gõ mấy cái của Youtube 
của Việt Nam làm, có cảm giác nó không đảm bảo, 
chất lượng hình ảnh kiểu như là đối đáp với bệnh 
nhân, mọi thứ nước ngoài nó có vẻ chuyên nghiệp 
hơn Việt Nam; với lại như là người ta làm sao bắt 
chước người ta làm theo như vậy”. Một vài sinh 
viên cho rằng vì ngôn ngữ là Tiếng Anh nên 
nghe không hiểu, chỉ nhìn động tác thôi: “nghe 
không hiểu gì biết gì”; “tự coi dịch đại, nếu mà có 
thắc mắc quá thì tra từ điển thôi”. Sinh viên đề nghị 
các đoạn phim nên có phụ đề bằng Tiếng Việt, 
nhưng chỉ cần dịch các bước và các nguyên tắc 
vô khuẩn cơ bản: “Nếu mà có Việt Sub thì tốt”; “chỉ 
cần các nguyên tắc chính, giống như chỉ cần chú 
trọng sub phần vô khuẩn thôi”. Một số khác lại yêu 
cầu phim nên có ngôn ngữ là Tiếng Việt để dễ 
tiếp thu: “nên là ngôn ngữ tiếng Việt”. 
Sự khác biệt giữa đĩa phim và các bước trong 
bảng kiểm 
Một số sinh viên cho rằng đĩa phim nên 
khác với bảng kiểm khoảng 20 - 30% để giúp 
cho sinh viên nhận ra được những sự khác biệt 
đó co thể là do khác trang thiết bị dụng cụ và 
để phù hợp với Việt Nam thì sẽ không mắc 
phải khi thực hiện kỹ thuật với các dụng cụ ở 
đây: “xem đĩa sẽ giúp ích, ví dụ như mình nhận ra 
cái đó họ làm sai, mình đi thi mình sẽ nhớ đoạn đó 
họ làm sai”; “Em nghĩ cái sai đó trong đĩa khoàng 
20 đến 30 phần trăm là cùng. Khi đi học, cô đã giải 
thích tại sao sai, tụi em sẽ nhớ”; “Trong cái clip đó 
nó làm sai chổ nào, cô giải thích sai như thế nào”. 
Sinh viên đề xuất các đoạn phim chỉ nên khác 
phương pháp thực hiện chứ vẫn nên đảm bảo 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 273
nguyên tắc vô khuẩn: “cách khác nhưng vẫn 
đúng nguyên tắc chứ không sai, hơi khác với mình 
thôi, vẫn đúng nguyên tắc vô khuẩn”; “có xem 
thêm 1 số quy trình khác, không giống nhưng cũng 
gần giống, ở Việt Nam”. Các sinh viên khác đề 
nghị các đoạn phim nên giống như bảng kiểm 
để sinh viên có thể học theo cái chuẩn vì khi 
tiếp thu cái sai sẽ rất khó sửa: “Em nghĩ là càng 
chuẩn càng tốt”; “sẽ học theo cái chuẩn tốt hơn là 
mình học theo cái sàng chút sàng chút. Nhiều bạn 
không phát hiện ra cái sai đó, sẽ làm theo luôn bởi 
vì cái gì ban đầu mà mình tiếp thu vô thì phải 
chuẩn. Tiếp thu sai sẽ sửa, sửa là một vấn đề rất 
mất thời gian”; “Em nghĩ là đĩa nên trọn vẹn”; 
“muốn xem quy trình chuẩn vì khác nó lộn xộn”. 
Một lí do khác nữa là phim cần phải chuẩn để 
giúp sinh viên nhớ lại khi ôn bài: “Nếu mà cái 
đĩa giống như cái quy trình mà cô đưa, khi tụi em 
muốn ôn bài, không nhớ thao tác của cô, có thể mở 
ra xem. Nó cũng có một tác dụng xem lại để ôn bài. 
Tụi em ôn bài có thể nhìn đĩa nhìn bảng kiểm để ôn 
bài ở nhà. Cái đĩa nên giống như bảng kiểm mà cô 
sẽ chấm thi”. 
BÀN LUẬN 
Đặc tính dân số học của mẫu nghiên cứu 
Kết quả nghiên cứu tìm được phù hợp vì 
tất cả sinh viên ở cả 2 nhóm học chuyên ngành 
hộ sinh nên tất cả đều là nữ; đối tượng là 
CNCQ nên độ tuổi trung bình khoảng 20 tuổi. 
Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ sinh viên có hộ 
khẩu thường trú ở tỉnh từ 98% trở lên do đó 
kéo theo có trên 80% phải sống ở ký túc xá và 
các phòng trọ, dẫn đến phải ở trọ chung ít nhất 
từ 2 người một phòng trở lên. 
Kết quả trên cho thấy sinh viên không sử 
dụng máy tính trong thư viện để xem phim 
mà xem phim tại nhà và chủ yếu là xem trên 
điện thoại di động. Điều này thể hiện đặc điểm 
của giới trẻ, thích tiếp cận các phương tiện 
hiện đại (smartphone) hơn là sử dụng phương 
tiện truyền thống (xem phim bằng máy tính 
bàn) hoặc việc tiếp cận xem phim tại thư viện 
không thuận tiện. Thời điểm mà sinh viên 
chọn xem phim là 1 ngày trước khi học mặc dù 
đĩa phim đã được chuyển đến sinh viên vào 
đầu khóa học. Điều này có thể bị ảnh hưởng 
bởi lịch học của dày đặc nên không có thời 
gian chuẩn bị trước (hầu như đều học tất cả 
các buổi sáng chiều trong tuần đối với sinh 
viên năm 2). 
Hiệu quả của ứng dụng các phim ngắn về kỹ 
thuật điều dưỡng trong giảng dạy thực hành 
môn ĐDCS 1 lên kết quả thi phần thực hành 
của sinh viên 
Việc ứng dụng đoạn phim ngắn đã có tác 
động tích cực lên kết quả học thực hành của sinh 
viên trong nhóm can thiệp. 
Phát hiện này cũng phù hợp với kết luận của 
các tác giả đã nghiên cứu về lĩnh vực này(3,5,8). 
Có một điểm khác biệt với các nghiên cứu đã 
thực hiện là các đoạn phim được sử dụng trong 
nhóm can thiệp không được nhóm nghiên cứu 
tự tạo ra mà sử dụng từ các đoạn phim tải về từ 
Internet, có sự khác biệt khoảng 10 - 20% về trình 
tự và cách thực hiện quy trình kỹ thuật so với 
quy trình đang giảng dạy tại trường. Mục đích 
của sử dụng các phim này là nhằm giới thiệu 
cho sinh viên cách thức mà các nước thực hiện 
kỹ thuật đó như thế nào, với các phương tiện 
hiện đại hơn. Mặt khác, với điều kiện hiện tại thì 
nhóm nghiên cứu và giảng viên giảng dạy chưa 
thể tự quay phim của tất cả các kỹ thuật phục vụ 
cho giảng dạy môn ĐDCS1. Một điểm khác biệt 
nữa là trong nghiên cứu này đối tượng nghiên 
cứu trong hai nhóm đối chứng và can thiệp nhập 
học cách nhau 1 năm mục đích là để sinh viên 
trong nhóm can thiệp không chia sẽ đoạn phim 
cho nhóm can thiệp, nhằm kiểm soát được sai 
lệch do chia sẽ thông tin; đồng thời, để kiểm soát 
sự khác biệt giữa hai nhóm, nhóm nghiên cứu đã 
kiểm tra các đặc tính dân số của cả hai nhóm và 
kết quả là không có sự khác biệt đáng kể (p > 0,05). 
Nhận thức của sinh viên về tính khả thi và khả 
năng chấp nhận của việc ứng dụng đoạn phim 
ngắn trong giảng dạy thực hành môn ĐDCS 1 
Nhận thức của sinh viên về phương pháp 
này nhìn chung là mang tính tích cực, tất cả các 
sinh viên trong nhóm can thiệp đều rất nhiệt 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 274
tình chấp nhận phương pháp này. Nghiên cứu 
này đã cho thấy sinh viên cảm nhận nhận thức 
được đây là một phương pháp có hiệu quả vì đã 
tạo ra được một môi trường học tập tốt với các 
tính chất: thúc đẩy sinh viên học tập; giúp sinh 
viên dễ tiếp thu bài hơn và nhớ lâu hơn; tạo 
không khí vui tươi, sôi nổi khi học, nâng cao kỹ 
năng tư duy tích cực; cung cấp nguồn tài liệu 
học thực hành hiệu quả; tạo lòng yêu nghề cũng 
như nâng cao khả năng Tiếng Anh của sinh viên. 
Pimparyon và cộng sự đã chỉ ra mối quan hệ 
giữa môi trường học tập và phương pháp giảng 
dạy, cụ thể môi trường học tập sẽ dự đoán hiệu 
quả một chiến lược giảng dạy như mong đợi(7). 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu này đã chứng minh hiệu quả của 
phương pháp ứng dụng đoạn phim ngắn trong 
giảng dạy các kỹ năng ĐDCS 1 lên điểm thi thực 
hành của sinh viên (p < 0,005); đồng thời, đã cho 
thấy ưu điểm cũng như một số hạn chế của 
phương pháp ứng dụng đoạn phim ngắn trong 
giảng dạy kỹ năng điều dưỡng. Về ưu điểm như 
tạo ra được môi trường học tập hiệu quả với các 
tính chất: thúc đẩy sinh viên học tập; giúp sinh 
viên dễ tiếp thu bài hơn và nhớ lâu hơn; tạo 
không khí vui tươi, sôi nỗi khi học, tăng mức độ 
tương tác đối với giảng viên trong buổi học, tăng 
tính chủ động, nâng cao kỹ năng tư duy tích cực; 
cung cấp nguồn tài liệu học thực hành hiệu quả; 
tạo lòng yêu nghề cũng như khuyến khích và 
nâng cao khả năng Tiếng Anh của sinh viên. 
Phương pháp định tính đã chỉ ra tính khả thi và 
khả năng chấp nhận của phương pháp này trong 
giảng dạy thực hành dựa trên cách nhận thức 
của sinh viên về các khía cạnh như thời điểm và 
địa điểm xem phim, độ dài của phim, chất lượng 
đĩa phim, ngôn ngữ sử dụng trong phim và sự 
khác biệt giữa quy trình trong phim và trong 
bảng kiểm. Ngoài ra với hiệu quả của đoạn phim 
ngắn tải trên internet trong việc giảng dạy kỹ 
năng giúp cho chúng ta có thể sử dụng nguồn 
học liệu sẵn có mà không phải tốn kém để xây 
dựng các phim kỹ năng và các nguồn phim này 
cũng sẽ không trường tồn mãi mãi và sẽ thay đổi 
khi khoa học tiến bộ, trang thiết bị dụng cụ thay 
đổi và sẽ khó chuẩn mực nếu không cập nhật. 
KIẾN NGHỊ 
Áp dụng phương pháp giảng dạy này rộng 
rãi hơn đối với các đối tượng sinh viên y tế khác 
mà có chương trình huấn luyện kỹ năng. Chọn 
lọc nguồn tài liệu sẵn có của thế giới là các đoạn 
phim về kỹ năng phù hợp với nguyên tắc an 
toàn trên các trang mạng uy tín sử dụng làm tài 
liệu tham khảo cho sinh viên. Không cần thiết 
tốn kém kinh phí trong việc xây dựng kịch bản 
và quay phim kỹ năng để cung cấp nguồn tài 
liệu tham khảo cho sinh viên vì chi phí tốn kém 
và các qui trình thực hành các kỹ năng cũng có 
thể bị thay đổi theo sự tiến bộ của khoa học và 
xã hội. 
HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu đã sử dụng các đoạn phim tải về 
từ Internet, đa phần là ở các nước phát triển do 
vậy về hình thức, mô hình, trang thiết bị dụng 
cụ, thậm chí có một số bước trong qui trình có sự 
khác biệt mà không thể ứng dụng ở trong nước 
của chúng ta. Trong phim đang sử dụng là ngôn 
ngữ tiếng Anh, mặc dù có thể có phụ đề nhưng 
cũng là tiếng Anh nên cũng gặp khó khăn trong 
việc chuyển tải các ý nghĩa của kỹ năng đến cho 
sinh viên. Ngoài ra nghiên cứu thực hiện trên hai 
nhóm sinh viên khác nhau về năm học nên 
không thể tránh khỏi một số yếu tố gây nhiễu 
trong can thiệp mặc dù trong phần khảo sát 
thông tin nền thì sự khác biệt giữa hai nhóm 
không đáng kể với kết quả p > 0,05. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Buch SV, Treschow FP, Svendsen JB, Worm BS (2014). Video-
or text-based e-learning when teaching clinical procedures? A 
randomized controlled trial. Advances in medical education and 
practice, 5, 257. 
2. Lake FR, Hamdorf JM (2004). Teaching on the run tips 5: 
teaching a skill. Medical journal of Australia, 181(6), 327. 
3. Lee JC, Boyd R, Stuart P (2007). Randomized controlled trial of 
an instructional DVD for clinical skills teaching. Emergency 
Medicine Australasia, 19(3), 241-245. 
4. Mehrpour SR, Aghamirsalim M, Motamedi SMK, Larijani FA, 
Sorbi R (2013). A supplemental video teaching tool enhances 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 275
splinting skills. Clinical Orthopaedics and Related Research®, 
471(2), 649-654. 
5. Morgan R (2006). Using clinical skills laboratories to promote 
theory–practice integration during first practice placement: an 
Irish perspective. Journal of Clinical Nursing, 15(2), 155-161. 
6. Orientale E, Kosowicz L, Alerte A, Pfeiffer C, Harrington K, 
Palley J, Sapieha-Yanchak T (2008). Using web-based video to 
enhance physical examination skills in medical students. 
Family medicine-kansas city, 40(7), 471. 
7. Pimparyon SMC, Pemba S, Roff SP (2000). Educational 
environment, student approaches to learning and academic 
achievement in a Thai nursing school. Medical teacher, 22(4), 359-
364. 
8. Shippey SH, Chen TL, Chou B, Knoepp LR, Bowen CW, 
Handa VL (2011). Teaching Subcuticular Suturing to Medical 
Students: Video versus Expert Instructor Feedback. Journal of 
Surgical Education, 68(5), 397-402. 
9. Ziv A, Ben-David S, Ziv M (2005). Simulation based medical 
education: an opportunity to learn from errors. Medical teacher, 
27(3), 193-199. 
Ngày nhận bài báo: 31/07/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/10/2018 

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_cua_ung_dung_doan_phim_ngan_trong_phuong_phap_giang.pdf