Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam

Thông tin về nghề khai thác và nuôi cá Măng sữa ở Việt Nam hiện nay rất ít nên việc lập kế hoạch

quản lý nguồn lợi và phát triển nghề nuôi đối tượng này gặp nhiều hạn chế. Nghiên cứu này nhằm

đánh giá hiện trạng khai thác và nuôi cá Măng sữa vùng biển Đông Nam Việt Nam. Nghiên cứu

đã tiến hành khảo sát tại các tỉnh từ Bình Định đến Bà Rịa – Vũng Tàu, trong khoảng thời gian từ

tháng 01/2017 - 6/2018. Sử dụng phương pháp điều tra phỏng vấn, khảo sát thực địa và thu thập số

liệu thứ cấp. Kết quả khảo sát cho thấy số hộ nuôi rất ít (41 hộ), với tổng diện tích ao nuôi khoảng

56 ha, tổng sản lượng ước tính là 208,44 tấn. Mật độ thả giống từ 0,5 đến 1 con/m2, hình thức gồm

nuôi đơn, nuôi ghép với tôm Sú và cua Xanh. Tỉ lệ sống dao động trong khoảng từ 80 – 90%, năng

suất trung bình của hệ thống nuôi đơn là 8 tấn/ha/vụ sau 9 tháng nuôi, của hệ thống nuôi ghép là

300 kg/ha/vụ trong 6 tháng nuôi. Thức ăn dùng để nuôi cá Măng sữa rất đa dạng, có thể là thức ăn

tự nhiên như các loài tảo và mùn bã hữu cơ, thức ăn tự chế biến từ phụ phẩm thủy hải sản và bột

cám, thức ăn công nghiệp từ sản phẩm dành cho cá Tra. Loài cá này được cho là dễ nuôi trong các

ao nuôi tôm, ruộng muối cũ, ao đất hoặc ao lót bạt, ở các điều kiện nước mặn, nước lợ và nước ngọt

khác nhau. Cá Măng sữa hiện sinh sản ở 3 khu vực chính là đầm Đề Ghi (Bình Định), vịnh Nha Phu

(Khánh Hòa) và vịnh Cà Ná (Ninh Thuận), người dân có kinh nghiệm trong khai thác và ương nuôi

cá giống. Vùng biển Đông Nam Việt Nam có lợi thế về nguồn lợi con giống, nhưng quy mô phát

triển nghề nuôi còn nhỏ lẻ thời gian qua. Vì vậy, cần phải có các giải pháp dài hạn trong phát triển

nghề nuôi cá Măng sữa, theo hướng mở rộng diện tích và ngày một chuyên nghiệp hơn.

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam trang 1

Trang 1

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam trang 2

Trang 2

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam trang 3

Trang 3

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam trang 4

Trang 4

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam trang 5

Trang 5

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam trang 6

Trang 6

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam trang 7

Trang 7

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam trang 8

Trang 8

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam trang 9

Trang 9

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang minhkhanh 10260
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam

Hiện trạng khai thác và phát triển nuôi cá măng sữa (chanos chanos) ở vùng biển đông nam Việt Nam
58 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN NUÔI CÁ MĂNG SỮA 
(CHANOS CHANOS) Ở VÙNG BIỂN ĐÔNG NAM VIỆT NAM
Nguyễn Thị Mỹ Dung1, Nguyễn Phú Hòa2*, Nguyễn Văn Trai2
TÓM TẮT
Thông tin về nghề khai thác và nuôi cá Măng sữa ở Việt Nam hiện nay rất ít nên việc lập kế hoạch 
quản lý nguồn lợi và phát triển nghề nuôi đối tượng này gặp nhiều hạn chế. Nghiên cứu này nhằm 
đánh giá hiện trạng khai thác và nuôi cá Măng sữa vùng biển Đông Nam Việt Nam. Nghiên cứu 
đã tiến hành khảo sát tại các tỉnh từ Bình Định đến Bà Rịa – Vũng Tàu, trong khoảng thời gian từ 
tháng 01/2017 - 6/2018. Sử dụng phương pháp điều tra phỏng vấn, khảo sát thực địa và thu thập số 
liệu thứ cấp. Kết quả khảo sát cho thấy số hộ nuôi rất ít (41 hộ), với tổng diện tích ao nuôi khoảng 
56 ha, tổng sản lượng ước tính là 208,44 tấn. Mật độ thả giống từ 0,5 đến 1 con/m2, hình thức gồm 
nuôi đơn, nuôi ghép với tôm Sú và cua Xanh. Tỉ lệ sống dao động trong khoảng từ 80 – 90%, năng 
suất trung bình của hệ thống nuôi đơn là 8 tấn/ha/vụ sau 9 tháng nuôi, của hệ thống nuôi ghép là 
300 kg/ha/vụ trong 6 tháng nuôi. Thức ăn dùng để nuôi cá Măng sữa rất đa dạng, có thể là thức ăn 
tự nhiên như các loài tảo và mùn bã hữu cơ, thức ăn tự chế biến từ phụ phẩm thủy hải sản và bột 
cám, thức ăn công nghiệp từ sản phẩm dành cho cá Tra. Loài cá này được cho là dễ nuôi trong các 
ao nuôi tôm, ruộng muối cũ, ao đất hoặc ao lót bạt, ở các điều kiện nước mặn, nước lợ và nước ngọt 
khác nhau. Cá Măng sữa hiện sinh sản ở 3 khu vực chính là đầm Đề Ghi (Bình Định), vịnh Nha Phu 
(Khánh Hòa) và vịnh Cà Ná (Ninh Thuận), người dân có kinh nghiệm trong khai thác và ương nuôi 
cá giống. Vùng biển Đông Nam Việt Nam có lợi thế về nguồn lợi con giống, nhưng quy mô phát 
triển nghề nuôi còn nhỏ lẻ thời gian qua. Vì vậy, cần phải có các giải pháp dài hạn trong phát triển 
nghề nuôi cá Măng sữa, theo hướng mở rộng diện tích và ngày một chuyên nghiệp hơn. 
Từ khóa: Cá Măng sữa, khai thác, sản lượng nuôi, Đông Nam Việt Nam.
1 Trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa –Vũng Tàu
2 Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh
* Email: phuhoa0203@gmail.com
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cá Măng sữa (Chanos chanos) trong tự 
nhiên là loài rộng muối, ít bệnh, phân bố cả ở 
đại dương và sâu trong vùng nước ngọt nội địa, 
nên trong kỹ thuật nuôi, cá dễ thích nghi với các 
điều kiện nuôi khác nhau. Cá hiện được nuôi phổ 
biến ở các quốc gia Philippines, Indonesia và 
Đài Loan, là một trong những đối tượng có khả 
năng cung cấp nguồn thực phẩm chất lượng cho 
nhu cầu dinh dưỡng của con người (Bagarinao, 
1994). Nghề nuôi tận dụng được diện tích ruộng 
muối bỏ hoang và có tính bền vững sinh thái ở 
Tanzania (Requintina và ctv., 2006). Là sinh kế 
thay thế có tính bền vững đối với cộng đồng cư 
dân ven biển Ấn Độ (Jaikumar và ctv., 2013). 
Một trong số ít loài có khả năng duy trì thu nhập 
ổn định cho hộ nuôi quy mô trung bình và nhỏ 
ở vịnh Kendary, Indonesia (Muhammad và ctv., 
2020).
Phần lớn ao nuôi cá Măng sữa ở Philippines 
vận hành trên diện tích lớn từ 5 – 10 ha, năng 
suất trung bình đạt 800 kg/ha/3 vụ/năm. Một số 
hệ thống có thiết kế cải tiến, cho phép nuôi theo 
kiểu tích hợp (Module) thì có thể nuôi được tối 
đa 8 vụ/năm, sản lượng tăng thêm hơn 2.000 kg/
ha (Roxas và ctv., 2016). Ở Đài Loan, cá được 
nuôi theo hình thức gối đầu, sau mỗi giai đoạn 
nuôi cá được chuyển sang ao có kích thước lớn 
hơn. Cách nuôi này giúp tiết kiệm chi phí quản 
lý và cho phép gối đầu từ 4 – 8 vụ mỗi năm, tăng 
59TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
năng suất thu hoạch là 2.000 – 4.000 kg/ha/năm 
(Yang và Han, 2015). Ở Indonesia, cá Măng 
sữa được nuôi 100% trong điều kiện nước lợ, 
chiếm vị trí thứ 2 với 263.139 tấn tương đương 
tỉ lệ 15,6%, chỉ ngay sau cá Chép với 264.349 
tấn, tương đương tỉ lệ 15,7% trong 10 loài nuôi 
ao đất phổ biến nhất (Sari, 2010). Nghề nuôi cá 
Măng sữa phát triển rải rác ở Việt Nam trong 
thời gian gần đây, nhận được phản hồi tích cực 
từ các hộ nuôi và nhà quản lý về khả năng sinh 
trưởng tốt trên ao nuôi tôm cũ, nuôi đơn hay nuôi 
ghép đều thuận lợi, tiết kiệm chi phí đầu vào do 
tính ăn đa dạng, giúp cải thiện chất lượng nước 
nuôi do ăn tảo và mùn bã hữu cơ. Khi nghề nuôi 
cá Măng sữa phát triển, xuất khẩu sản phẩm 
cũng sẽ là hướng đi giàu tiềm năng, vì hiện có 
24 chủng loại sản phẩm chế biến từ cá Măng 
sữa phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, được 
đánh giá an toàn và chất lượng theo tiêu chuẩn 
Thực hành sản xuất tốt GMP tại Philippines 
(Espejo-Hermes, 2004). Vùng ven biển Đông 
Nam Việt Nam, bắt đầu từ Bình Định đến Bà 
Rịa – Vũng Tàu có nhiều lợi thế tự nhiên đối 
với nghề nuôi cá Măng sữa, đặc biệt là nguồn 
lợi cá giống tự nhiên, tuy nhiên rất thiếu cơ sở 
dữ liệu làm nền tảng cho việc đề xuất hướng 
phát triển bền vững. Vì vậy, cần phải tiến hành 
điều tra thông tin khai thác cá giống, đánh giá 
hiện trạng nghề nuôi, bao gồm cả những vấn đề 
về thị trường tiêu thụ, những khó khăn và thách 
thức hiện tại, từ đó đề xuất giải pháp phù hợp, 
nhằm phát triển vùng nuôi cá Măng sữa chuyên 
nghiệp hơn, phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa và 
chế biến xuất khẩu lâu dài.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết kế bảng câu hỏi khảo sát
Nghiên cứu thực hiện trong 18 tháng, nội 
dung điều tra phỏng vấn và khảo sát thực địa 
(01/2017 – 12/2017), nội dung nghiên cứu thứ 
cấp và xử lý số liệu (01/2018 – 06/2018). Bảng 
câu hỏi gồm 3 phần chính, (1) Thông tin về 
vùng khai thác cá thương phẩm và cá giống, (2) 
Thông tin về hiện trạng nghề nuôi và (3) Thông 
tin về các khó khăn, thách thức nghề nuôi cá 
Măng sữa đang phải đối mặt. Để thu thập thông 
tin chính xác và đầy đủ, bảng câu hỏi được thiết 
kế kiểu hỗn hợp, trong đó nội dung (1) và (2) 
gồm những câu hỏi đóng, có sẵn đáp án mang 
tính chất định lượng. Vùng khai thác chia theo ... ng và Han, 2015).
Ở 12 hộ nuôi ghép theo mô hình cá Măng 
sữa với tôm Sú, cá Măng sữa với tôm Sú và cua 
Xanh, tôm giống có cỡ 4 – 5 cm/con, được thả 
ở mật độ 5 - 7 con/m2, sau 1 tháng thì tiến hành 
thả cá Măng sữa và cua cùng lúc. Cá thả ghép 
có cỡ từ 10 - 20 g/con, thả với mật độ 0,1 con/
m2. Cua thả ghép ở cỡ từ 1,5 – 2 cm/con, thả 
ở mật độ 0,2 con/m2. Sử dụng kết hợp thức ăn 
tự nhiên, thức ăn chế biến và thức ăn tươi từ 
cá tạp hoặc các loại giáp xác như cua, ghẹ và 
nhuyễn thể hai mảnh vỏ như vẹm xanh, ốc, sò. 
Ước tính, năng suất bình quân đạt 1.200 - 1.300 
kg/ha/vụ nuôi 6 tháng, trong đó bao gồm 700 - 
800 kg tôm, 300 kg cá và 200 kg cua. Kết quả 
này hoàn toàn tương đương so với vùng nuôi 
Phillippines, ở mật độ 20.000 – 50.000 tôm/
ha, 1.000 – 2.000 cá/ha, và 500 – 800 cua/ha. 
Với vụ nuôi 6 tháng, năng suất tôm đạt từ 250 – 
1.300 kg/ha, cá đạt 250 – 600 kg/ha và cua đạt 
200 – 350 kg/ha (Allan và Fielder, 2004).
3.4. Một số khó khăn, thách thức trong 
phát triển nghề nuôi cá Măng sữa tại vùng 
biển Đông Nam Việt Nam
Có 75 người tham gia thảo luận về các khó 
khăn, thách thức trong quá trình phát triển nghề 
nuôi cá Măng sữa ở vùng biển Đông Nam Việt 
Nam, thể hiện như trong Hình 6.
Các ý kiến khảo sát cho rằng con giống cá 
Măng sữa ở vùng biển Đông Nam Việt Nam 
đang ngày càng cạn kiệt, sản lượng không ổn 
định, năm có năm không nên hộ nuôi không 
muốn đầu tư dài hạn để phát triển nghề nuôi 
này. Về khả năng phát triển thị trường, đa số các 
ý kiến đều nhận định, thịt cá Măng sữa tuy ngon 
nhưng bị lẫn xương, lại là loài nuôi tương đối 
lạ, nên không dễ phát triển thị trường ngoài khu 
vực địa phương xung quanh vùng nuôi truyền 
thống. Hộ nuôi hiện gặp nhiều khó khăn liên 
quan đến quy trình, kỹ thuật nuôi cá Măng sữa. 
Hình thức nuôi hiện mang tính tự phát, công 
thức nuôi cải biên dựa trên kinh nghiệm, thiếu 
quy trình chuẩn. Do đối tượng nuôi chưa được 
cán bộ khuyến nông chú trọng, thiếu các hướng 
dẫn kỹ thuật từ cấp cơ sở, nên khi có vấn đề phát 
sinh trong quá trình nuôi, hộ nuôi không biết 
tham khảo và điều chỉnh từ đâu. 
Ô nhiễm môi trường được cho là thách 
thức lớn nhất, đe dọa trực tiếp đến nghề nuôi 
cá Măng sữa, trong đó nhắc đến nguồn chất thải 
phát sinh từ các nghề nuôi khác và nguồn rác 
thải do hoạt động sản xuất của con người. Diễn 
67TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
tiến thiên tai bão lũ trực tiếp làm suy giảm sản 
lượng con giống tự nhiên, thất thoát cá nuôi, hư 
hại cơ sở vật chất ... từ đó làm suy giảm hiệu quả 
kinh tế của nghề nuôi nghề nuôi cá Măng sữa ở 
vùng biển Đông Nam Việt Nam. Vấn đề thu hẹp 
diện tích nuôi nhận được ít ý kiến trao đổi nhất. 
Nguyên nhân được cho là tình trạng phát triển 
quá nóng trong lĩnh vực xây dựng, việc quy 
hoạch phát triển ồ ạt các khu dân cư, khu nghỉ 
dưỡng ven biển ngoài làm mất đi môi trường 
sinh sống, đẻ trứng của cá Măng sữa, còn có thể 
xóa trắng vùng nuôi.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Kết quả khảo sát cho thấy, vùng biển Đông 
Nam Việt Nam hiện có 3 vị trí sinh sản của cá 
Măng sữa là đầm Đề Ghi (Bình Định), đầm Nha 
Phu (Khánh Hòa) và vịnh Cà Ná (Ninh Thuận). 
Mỗi năm có 2 mùa vụ khai thác cá Măng sữa 
giống (mùa vụ chính từ tháng 04 đến tháng 06, 
mùa vụ phụ từ tháng 09 đến tháng 10). Người 
dân có kinh nghiệm trong khai thác và ương 
nuôi cá giống. Cá hiện được nuôi đơn và nuôi 
ghép dưới nhiều hình thức, tuy nhiên quy mô 
phát triển rất nhỏ, chỉ 41 hộ nuôi trên tổng diện 
tích 56 ha, sản lượng 208.44 tấn/năm là hoàn 
toàn chưa tương xứng với tiềm năng. 
11 
Đông Nam Việt Nam 
Có 75 người tham gia thảo luận về các khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển 
nghề nuôi cá Măng sữa ở vùng biển Đông Nam Việt Nam, thể hiện như trong Hình 6. 
Hình 6. Khó khăn, thách thức trong phát triển nghề nuôi cá Măng sữa (N = 75). 
Các ý kiến khảo sát cho rằng con giống cá Măng sữa ở vùng biển Đông Nam Việt Nam 
đang ngày càng cạn kiệt, sản lượng không ổn định, năm có năm không nên hộ nuôi không muốn 
đầu tư dài hạn để phát triển nghề nuôi này. Về khả năng phát triển thị trường, đa số các ý kiến 
đều nhận định, thịt cá Măng sữa tuy ngon nhưng bị lẫn xương, lại là loài nuôi tương đối lạ, nên 
không dễ phát triển thị trường ngoài khu vực địa phương xung quanh vùng nuôi truyền thống. 
Hộ nuôi hiện gặp nhiều khó khăn liên quan đến quy trình, kỹ thuật nuôi cá Măng sữa. Hình thức 
n ôi hiện mang tính t phát, cô thức nuôi cải biên dựa trên kinh nghiệm, thiếu quy trình 
chuẩn. Do đối tượng nuôi chưa được cán bộ khuyến nông chú trọng, thiếu các hướng dẫn kỹ 
thuật từ cấp cơ sở, nên khi có vấn đề phát sinh trong quá trình nuôi, hộ nuôi không biết tham 
khảo và điều chỉnh từ đâu. 
Ô nhiễm môi trường được cho là thách thức lớn nhất, đe dọa trực tiếp đến nghề nuôi cá 
Măng sữa, trong đó nhắc đến nguồn chất thải phát sinh từ các nghề nuôi khác và nguồn rác thải 
do hoạt động sản xuất của con người. Diễn tiến thiên tai bão lũ trực tiếp làm suy giảm sản lượng 
con giống tự nhiên, thất thoát cá nuôi, hư hại cơ sở vật chất ... từ đó làm suy giảm hiệu quả kinh 
tế của nghề nuôi nghề nuôi cá Măng sữa ở vùng biển Đông Nam Việt Nam. Vấn đề thu hẹp 
diện tích nuôi nhận được ít ý kiến trao đổi nhất. Nguyên nhân được cho là tình trạng phát triển 
quá n ng tro lĩnh vực xây dựng, việc quy hoạch phát triển ồ ạt các khu dân cư, khu nghỉ 
dưỡng ven biển ngoài làm mất đi môi trường sinh sống, đẻ trứng của cá Măng sữa, còn có thể 
xóa trắng vùng nuôi. 
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
88,0%
86,6%
78,6%
74,6%
94,6%
36,0%
0.0% 20.0% 40.0% 60.0% 80.0% 100.0%
Nguồn cung con giống
Khả năng phát triển thị 
trường
Quy trình kỹ thuật nuôi
Thiên tai bão lũ
Ô nhiễm môi trường
Thu hẹp diện tích nuôi
% người khảo sát trao đổi về khó khăn, thách thức
K
h
ó
 k
h
ăn
, 
th
ác
h
 t
h
ứ
c
Hình 6. Khó khăn, thách thức trong phát triển nghề nuôi cá Măng sữa (N = 75).
Nghề nuôi cá Măng sữa hiện phải đối mặt 
với không ít khó khăn, thách thức. Để mở rộng 
và phát triển ốt g ề nuôi trong thời gian sắp 
tới, cần theo hướng tận dụng tối đa diện tích 
nuôi, ví dụ ao nuôi tôm cũ, ruộng muối cũ bỏ 
không, nuôi ghép tầng nước. Đa dạng hóa hình 
thức nuôi cá Măng sữa, ngoài nuôi lồng/bè trên 
biển, nuôi trong đầm, hoặc đăng chắn ở vũ g 
vịnh nước mặn ven bờ, nên phát triển nghề nuôi 
trên ao đất, bể xi măng, v.v ... sâu trong nội địa. 
Nhằm hạn chế tác động bất lợi của thiên tai, đặc 
biệt là bão, lũ ở khu vực ven biển. 
Để nâng cao hiệu quả kinh tế - kỹ thuật 
nuôi, cần chuẩn hóa quy trình, kỹ thuật khai 
thác, ương nuôi cá giống và nuôi cá thương 
phẩm. Do biến động độ ặn và thức ăn là các 
yếu tố giới hạn tăng trưởng và trao đổi chất, nên 
cần có các nghiên cứu nhằm chỉ ra điều kiện 
độ mặn và thức ăn tối thích, giúp tăng hiệu quả 
nghề nuôi.
Nghiên cứu ứng dụng sinh sản nhân tạo
trong sản xuất giống, đảm bảo vấn đề truy xuất 
nguồn gốc, tạo con giống chủ động và chất 
lượng trong sản xuất dài hạn, giảm thiểu tác 
động xói mòn gen, suy thoái nguồn lợi do hoạt 
động khai thác giống tự nhiên.
68 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Thanh Sơn, Đinh Văn Huy, Trần Đức Thạnh 
và Nguyễn Hữu Cử, 2010. Phân loại các kiểu bờ 
biển ở Việt Nam theo nguyên tắc nguồn gốc – 
hình thành. Tuyển tập tài nguyên và môi trường 
biển tập XV, Viện Tài nguyên và Môi trường 
Biển – Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. 
NXB KHTN&CN, 31 – 50.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bà Rịa 
– Vũng Tàu, 2012. Báo cáo tổng hợp quy hoạch 
hệ thống các khu bảo tồn vùng nước nội địa tỉnh 
Bà Rịa Vũng Tàu đến năm 2020. Uỷ ban Nhân 
dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, 172 trang
Tài liệu tiếng Anh
Allan, G., Fielder, D. (eds), 2004. Mud crab 
aquaculture in Australia and Southeast Asia. 
ACIAR Working Paper No. 54. ACIAR, 
Canberra, Australia. 70 pp
Bagarinao, T., 1994. Systematics, distribution, 
genetics and life history of Milkfish, Chanos 
chanos. Environmental Biology of Fishes, 39(1): 
23 - 41.
Christina, L., Balasubramanian, C.P., Akshay, P., 
Tapas, G., 2019. Polyculture of Indian White 
Shrimp (Penaeus indicus) with Milkfish 
(Chanos chanos) and its Effect on Growth 
Performances, Water Quality and Microbial 
Load in Brackishwater Pond. Journal of Coastal 
Research, 86 (sp1): 43
Jaikumar, M., Suresh, K.C., Robin, R.S., Karthikeyan, 
P., and Nagarjuna, A., 2013. Milkfish Culture: 
Alternative Revenue for Mandapam Fisherfolk, 
Palk Bay, Southeast Coast of India. International 
Journal of Fisheries and Aquaculture Sciences, 3 
(1): 31 - 43.
Johannes, R.E., 1978. Reproductive strategies of 
coastal marine fishes in the tropics. Env. Biol. 
Fish, 3: 65 - 84.
Kumagai, S., 1990. Reproduction and early life 
history of milkfish Chanos chanos in the 
waters around Panay Island, Philippines. Ph.D. 
Dissertation, Kyushu University, 189.
Kuronuma, K., and Yamashita, M., 1962. Milkfish 
fry in the eastern coast of Vietnam. J. Oceanogr. 
Soc. Japan 20th Anniv., 247 - 251.
Liao, I.C., 1971. Notes on some adult milkfish from 
the coast of southern Taiwan. Aquaculture, 1 (3): 
1 - 8.
Lin, L.T., 1985. My experience in artificial 
propagation of milkfish - studies on natural 
spawning of pond-reared broodstock, 185-
203. In: Lee, C.S., and Liao I.C. (eds.), 1985. 
Reproduction and Culture of Milkfish. Oceanic 
Institute and Tungkang Marine Laboratory, 226.
Lin, H.S., 1969. Some aspects of milkfish ecology. 
Chinese-American Joint Commission for Rural 
Reconstruction Fish. Ser. 7: 68 - 90.
Muhammad, A.L., Taane La, O., Lukman, Y.S., 
Muhammad, A.D., Abdul, G., Samsul, A.F., 
Hartina, B., Erhin, A., Yusuf, A., 2020. Technical 
and economical analysis of milkfish farming 
on the coastal area of Kendari Bay after 
sedimentation. AACL Bioflux, 2020, 13 (1): 403 
– 413.
Requintina, E.D., Mmochi, A.J. and Msuya, 
F.E., 2006. A Guide to Milkfish Culture in 
Tanzania. Sustainable Coastal Communities and 
Ecosystems Program. Western Indian Ocean 
Marine Science Association, Institute of Marine 
Sciences, University of Hawaii, Hilo and the 
Coastal Resources Center, University of Rhode 
Island, 49.
Roxas, A.T., Guliman, S. Di O., Perez, M.L. and 
Ramirez, P.J.B., 2016. Gender And Poverty 
Dimensions In A Value Chain Analysis Of 
Milkfish In Region 10, Philippines. Asian Food 
Security for the World. 3 – 7 August, 2016, 
Thailand. 1-37p
Sari A. I., 2010. Report on the Aquaculture Industry 
in Indonesia. Kiel, November 2010, 57p
Srivastava, A., Singh, A.P., Gaurey, N., Singh, A., 
Gariya, H.S., 2016. A review article on random 
method of vegetation sampling and analysis of 
various quantitative characters of medicinal 
plants of rewa region. IJARIIE, 2 (2), 201
Yang, M.H., and Han, I., 2015. Domestic and 
International Market Expansion for Milkfish 
Sales. FFTC Agricultural Policy Articles, 
27/03/2015. Fisheries Agency, Council of 
Agriculture
Villaluz, A.C., Villaver, W.R., and Salde, R.J., 
1982. Milkfish fry and fingerling industry 
of the Philippines: Methods and practices. 
Technical Report No. 9, SEAFDEC Aquaculture 
Department. 84 p.
69TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
CURRENT FISHING STATUS AND DEVELOPMENT OF MILKFISH 
(CHANOS CHANOS) CULTURE IN THE SOUTH EAST COASTAL OF 
VIETNAM
Nguyen Thi My Dung1, Nguyen Phu Hoa2*, Nguyen Van Trai2
ABSTRACT
Information about Milkfish culturing and fishing in Vietnam currently are rare, and thus master 
planning for resource management and development of this species farming. This study to assess 
the current status of the capture and Milkfish farming in South East coastal provinces of Vietnam. 
This study was surveyed from Binh Dinh province to Ba Ria – Vung Tau city during January 2017 
- June 2018. Using methods of interview survey, field survey and secondary data collection. Results 
indicated that, a small number of farmers (41 households) was raising that species in about 56 ha, 
with estimated production of 208.44 tons. Stocking density was 0.5 – 1 fish/ha in variable farming 
forms including mono culture and integrated culture with Black tiger shrimp (Penaeus monodon) 
and Green Crab (Carcinus maenas). Survival rate range from 80 to 90%, the average yield of mono 
culture pond is 8 tons/ha/9 months, and polyculture pond is 300 kg/ha/6 months. The fish would 
feed on natural food such as algae and detritus, or were feed with home-made feed that use the by-
products from seafood processing and pellet for other species such as stripped catfish. Milkfish was 
believed to adapt well to different pond conditions, such as shrimp ponds, abandoned salt pans, earth 
ponds plain or plastic sheet covered ponds, and in fresh water, brackish or saline water. Currently, 
Milkfish spawn only in three mainly areas, that is De Ghi lagoon (Binh Dinh province), Nha Phu 
lagoon (Khanh Hoa province) and Ca Na bay (Ninh Thuan province). Famer are experienced in 
exploiting and farming of this species. The results show that the South East coastal of Vietnam has 
the advantage of seed resources, but the farming scale is still small. Therefore, it is necessary to 
have long-term solutions for developing Milkfish farming in term of the farming area expanding 
and more professional industry.
Keywords: Milkfish, fishing, farmed production, South East coastal of Vietnam.
Người phản biện: TS. Trần Thế Mưu
Ngày nhận bài: 03/7/2020
Ngày thông qua phản biện: 23/7/2020
Ngày duyệt đăng: 25/8/2020
Người phản biện: TS. Phan Thanh Lâm 
Ngày nhận bài: 03/7/2020
Ngày thông qua phản biện: 26/7/2020
Ngày duyệt đăng: 25/8/2020
1 Baria-Vungtau college of education.
2 University of Agriculture and Forestry, Ho Chi Minh City
* Email: phuhoa0203@gmail.com

File đính kèm:

  • pdfhien_trang_khai_thac_va_phat_trien_nuoi_ca_mang_sua_chanos_c.pdf