Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi
Nghiên cứu cảnh quan vùng bờ có ý nghĩa quan trọng trong xác định các thuộc tính tự
nhiên, nhân sinh của lãnh thổ, lãnh hải, là cơ sở khoa học có giá trị cho hoạch định không gian phát
triển kinh tế gắn với sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi
được xác định theo ranh giới trên lục địa của 6 huyện, thành phố giáp biển, ranh giới trên biển lấy
theo đường ranh giới vùng khai thác thủy sản ven bờ của tỉnh. Đây là khu vực kinh tế động lực, có
ý nghĩa quan trọng của tỉnh Quảng Ngãi. Cảnh quan vùng bờ bao gồm các cảnh quan trên đất liền
và cảnh quan biển, đảo ven bờ được hình thành do kết quả tác động tương hỗ của các hợp phần và
yếu tố tự nhiên và nhân sinh. Cấu trúc cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi đã được xác định bao
gồm 1 hệ, 2 phụ hệ, 3 lớp, 6 phụ lớp,10 kiểu và 108 loại cảnh quan. Trong đó, có 75 loại cảnh quan
lục địa, 27 loại cảnh quan biển và 6 loại cảnh quan đảo. Cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có sự
phân hóa từ tây sang đông (từ các cảnh quan núi thấp, đồng bằng - gò đồi trên lục địa đến cảnh quan
biển nông, cảnh quan đảo ven bờ) và phân hóa theo phương bắc - nam thể hiện rõ ở sự phân dị các
loại CQ đồng bằng. Các cảnh quan này có tính biến động, nhạy cảm cao đối với các tác động bên
ngoài, trong đó có các hoạt động phát triển
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 52 Original Article The Classification System and Characteristics of Coastal Landscapes in Quang Ngai Province Dang Thi Ngoc1, , Nguyen Cao Huan1, Nguyen Dang Hoi2, Tran Van Truong1, Ngo Trung Dung2 1VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 2Institute of Tropical Ecology, Vietnam-Russian Tropical Centre, 63 Nguyen Van Huyen, Hanoi, Vietnam Received 20 March 2020 Revised 06 September 2020; Accepted 17 September 2020 Abstract: Studying coastal landscapes is an important and meaningful content in determining the natural and human properties of the territory and territorial sea, which is a valuable scientific basis for spatial planning in the economic development associated with the use of resources and environmental protection. The Quang Ngai’s coastal area is determined according to the continental boundary of 6 maritime districts/ cities and the boundary on the sea of the provincial coastal fishing zone. Coastal landscapes include terrestrial landscapes, marine landscapes, and island landscapes formed by the result of the interaction of natural components and human factors. The landscape structure of the coastal areas in Quang Ngai includes 1 system, 2 sub-systems, 3 classes, 6 sub- classes, 10 types, and 108 kinds of landscapes, In which, there are 75 kinds of terrestrial landscape, 27 kinds of marine landscape, and 6 kinds of the island landscape. The landscapes of the study area have differentiation from west to east (from the low mountain landscapes, hill - plain landscapes to marine landscapes and island landscapes) and from north to south, which is clearly represented in the differentiation of plain landscape kinds. The landscapes are highly variable, sensitive to external impacts, including development activities. Keywords: Coastal landscape, landscape differentiation, Quang Ngai. ________ Corresponding author. E-mail address: dangngoc2406@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4589 D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 53 Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi Đặng Thị Ngọc1, , Nguyễn Cao Huần1, Nguyễn Đăng Hội2, Trần Văn Trường1, Ngô Trung Dũng2 1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 2Viện Viện Sinh thái nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga, 63 Nguyễn Văn Huyên, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 20 tháng 3 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 06 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 9 năm 2020 Tóm tắt: Nghiên cứu cảnh quan vùng bờ có ý nghĩa quan trọng trong xác định các thuộc tính tự nhiên, nhân sinh của lãnh thổ, lãnh hải, là cơ sở khoa học có giá trị cho hoạch định không gian phát triển kinh tế gắn với sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi được xác định theo ranh giới trên lục địa của 6 huyện, thành phố giáp biển, ranh giới trên biển lấy theo đường ranh giới vùng khai thác thủy sản ven bờ của tỉnh. Đây là khu vực kinh tế động lực, có ý nghĩa quan trọng của tỉnh Quảng Ngãi. Cảnh quan vùng bờ bao gồm các cảnh quan trên đất liền và cảnh quan biển, đảo ven bờ được hình thành do kết quả tác động tương hỗ của các hợp phần và yếu tố tự nhiên và nhân sinh. Cấu trúc cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi đã được xác định bao gồm 1 hệ, 2 phụ hệ, 3 lớp, 6 phụ lớp,10 kiểu và 108 loại cảnh quan. Trong đó, có 75 loại cảnh quan lục địa, 27 loại cảnh quan biển và 6 loại cảnh quan đảo. Cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có sự phân hóa từ tây sang đông (từ các cảnh quan núi thấp, đồng bằng - gò đồi trên lục địa đến cảnh quan biển nông, cảnh quan đảo ven bờ) và phân hóa theo phương bắc - nam thể hiện rõ ở sự phân dị các loại CQ đồng bằng. Các cảnh quan này có tính biến động, nhạy cảm cao đối với các tác động bên ngoài, trong đó có các hoạt động phát triển. Từ khóa: cảnh quan vùng bờ, phân hóa cảnh quan, Quảng Ngãi. 1. Mở đầu Vùng bờ được hiểu là khu vực chuyển tiếp giữa đất liền hoặc đảo với biển, bao gồm vùng biển ven bờ và vùng đất ven biển (Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, 2015). Vùng bờ chịu tác động trực tiếp bởi các quá trình tự nhiên từ đất liền (môi trường lục địa), từ biển (môi trường biển) và các hoạt động nhân sinh. Việc sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường vùng bờ hiện là một trong những vấn đề cấp bách, được nhiều nước, nhiều nhà khoa học quan tâm, trong đó có các nhà Địa lý nghiên cứu cảnh quan. Điều này đã ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: dangngoc2406@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4589 được khẳng định trong Hội nghị địa lý quốc tế năm 2018 “Địa lý cảnh quan trong thế kỷ 21” tổ chức tại Simferopol, Nga [1]. Nghiên cứu cảnh quan (CQ) dưới nước nói chung, CQ biển nói riêng là một khuynh hướng mới của địa lý hiện đại [2,3], nó giải quyết được các vấn đề liên quan đến quản lý và sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường vùng bờ [4]. Nghiên cứu một cách hệ thống CQ biển và hải đảo, nhất là CQ vùng bờ về đặc điểm đặc trưng của các đơn vị CQ, quy luật phân hóa của chúng theo không gian và động lực theo thời gian có D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 54 tính đến tác động của quá trình tự nhiên và nhân sinh tạo cơ sở khoa học vững chắc cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên, quản lý tổng hợp vùng bờ hiệu quả và khẳng định chủ quyền biển đảo của quốc gia. Tuy nhiên, nghiên cứu CQ vùng bờ, nhất là CQ biển vẫn còn nhiều hạn chế, liên quan đến những khó khăn trong công tác điều tra, khảo sát các yếu tố tự nhiên (địa mạo đáy biển, động lực biển, sinh vật biển,...) và vấn đề an ninh chủ quyền trên biển. Trong nghiên cứu địa lý, phân loại CQ trên đất liền đã có nhiều kết quả, trong khi đó có khá ít cô ... n nhiệt - ẩm trong điều kiện khí hậu hải dương và các hoạt động nhân sinh là những nhân tố quyết định chi phối đến sự phân hóa CQ trên đảo thành 6 loại CQ (từ CQ số 103 đến 108). Trong đó, CQ cây D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 63 trồng hàng năm phân bố trên bề mặt bazan và thềm tích tụ (CQ số 104, 106) có diện tích lớn nhất, chiếm khoảng ½ DTTN của đảo. Cây trồng đặc trưng và chủ lực ở đây là hành, tỏi. Trên các sườn, họng núi lửa với đất nâu vàng là loại CQ rừng trồng và trảng cỏ cây bụi (CQ số 103) có chức năng phòng hộ. Các CQ quần cư phân bố tập trung trên địa hình bề mặt bazan và thềm ven biển (CQ số 105, 107). Trên bãi cát hiện đại là loại CQ bãi đá xen cát (CQ số 108). Kiểu CQ: Dựa trên sự hình thành của kiểu thảm thực vật và đặc trưng hệ sinh thái theo điều kiện sinh cảnh (trên đất liền - điều kiện sinh khí hậu, trên biển - điều kiện sinh cảnh nước), khu vực nghiên cứu được phân hóa thành 10 kiểu CQ: 1/ Kiểu CQ thực vật thường xanh nhiệt đới, mát ẩm trên núi thấp; 2/ Kiểu CQ thực vật thường xanh nhiệt đới, nóng ẩm trên núi thấp; 3/ Kiểu CQ thực vật thường xanh nhiệt đới, mát ẩm trên đồi; 4/ Kiểu CQ thực vật thường xanh nhiệt đới, nóng ẩm trên đồi; 5/ Kiểu CQ thực vật nửa rụng lá nóng, hơi khô trên đồi; 6/ Kiểu CQ thực vật thường xanh nhiệt đới, nóng ẩm khu vực đồng bằng ven biển; 7/ Kiểu CQ thực vật nửa rụng lá nóng, hơi khô khu vực đồng bằng ven biển; 8/ Kiểu CQ thực vật thủy sinh nhiệt đới trên vùng biển nông ven bờ hiện đại; 9/ Kiểu CQ thực vật thủy sinh nhiệt đới trên vùng biển nông ven bờ cổ; 10/ Kiểu CQ thực vật thường xanh nhiệt đới, nóng ẩm trên đảo ven bờ. 3.4. Đặc điểm phân hóa và tính biến động, nhạy cảm của cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi a) Sự phân hóa cảnh quan từ tây sang đông và từ bắc xuống nam CQ vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có sự phân hóa từ tây (lục địa) sang đông (biển, đảo) theo sự giảm dần độ cao địa hình. Các lớp, phụ lớp CQ phân bố dạng dải, song song với đường bờ biển: từ CQ núi ở phía tây đến CQ đồng bằng - gò đồi ở trung tâm, chuyển tiếp xuống CQ biển và đảo ven bờ ở phía đông. Sự phân hóa này xuất hiện ở cấp lớp, phụ lớp và loại CQ (Hình 3). Cấu trúc địa chất - tân kiến cũng đã tạo nên sự phân dị của CQ khu vực nghiên cứu theo chiều từ bắc xuống nam. Phía đông bắc là đồng bằng mài mòn - bóc mòn dạng gò đồi Bình Sơn. Chuyển tiếp xuống là dải đồng bằng xâm thực - mài mòn - tích tụ dạng gò thoải sông Trà Khúc. Dọc dải ven biển từ sông Vệ tới Đức Phổ là kiểu đồng bằng tích tụ - mài mòn dạng lượn sóng thoải, có cấu trúc đặc trưng của dải đồng bằng ven biển Trung bộ Việt Nam với hệ đầm phá - đê cát (lagoon - bar) phát triển song song với đường bờ hiện đại. Từ mũi Sa Huỳnh xuống phía nam là dải đồng bằng nhỏ hẹp nhất - đồng bằng mài mòn - tích tụ Sa Huỳnh. Ở đây hình thành loại CQ có mức độ khô hạn sâu sắc do các đồi thấp ở phía nam nằm sát biển đã ngăn cản gió từ biển thổi vào, làm cho phía đông nam huyện Đức Phổ có lượng mưa rất thấp (mùa khô dài 3-4 tháng). Như vậy, càng xuống phía nam lớp CQ đồng bằng càng bị thu hẹp do đồi núi càng ăn sát ra biển, tạo nên các đơn vị CQ có tính dải hẹp tăng lên. Đặc điểm này là cơ sở để phân vùng CQ ở bước nghiên cứu tiếp theo. b) Tính đồng bằng và tính biển trong phân hóa cảnh quan Tính đồng bằng và tính biển được xem là những đặc trưng nổi trội của sự phân hóa CQ vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi, nó quy định tính đặc thù trong các thế mạnh khai thác, sử dụng tài nguyên. - Tính đồng bằng ưu thế trên đất liền: Tính đồng bằng thể hiện sự hình thành các CQ gò đồi, đồng bằng theo các bậc độ cao khác nhau, đa dạng về vật liệu cấu thành. Dải đồng bằng kéo dài dạng tuyến theo phương tây bắc - đông nam, có tính phân bậc rõ theo hướng vuông góc với bờ biển. Tính đồng bằng thể hiện mức độ đa dạng CQ cao nhất trên phần đất liền với 38/75 loại CQ. Đồng thời, tính đặc thù này đã tạo ra tiềm năng tài nguyên đặc trưng: địa hình bằng phẳng, nguồn nước dồi dào, đất phù sa màu mỡ,... thuận lợi cho canh tác nông nghiệp và cư trú của cộng đồng người. CQ đồng bằng đã và đang trở thành không gian tiềm năng cho phát triển kinh tế, không chỉ là nơi sản xuất lương thực chính của tỉnh Quảng Ngãi, mà còn tập trung các trung tâm công nghiệp, cụm công nghiệp và các hoạt động thương mại - dịch vụ. D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 64 Hình 3. Mặt cắt cảnh quan theo hướng từ tây sang đông. - Tính biển: Vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có đường bờ biển dài 130km với 6 cửa biển (Sa Cần, Sa Kỳ, Cửa Đại, Cửa Lở, Mỹ Á, Sa Huỳnh), hệ thống vũng vịnh và mũi đá lớn (vũng Dung Quất, vũng Việt Thanh, mũi Ba Làng An, mũi Sa Huỳnh) với ngư trường rộng lớn trên 11.000 km2 và có đảo tiền tiêu Lý Sơn. Sự gắn kết chặt chẽ với không gian biển/ đại dương đã làm nên tính biển (tính hải dương) đặc thù cho lãnh thổ nghiên cứu. Tính biển tác động đến đặc điểm tự nhiên trên đất liền và ảnh hưởng mạnh đến phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của lãnh thổ, đặc biệt là ưu thế phát triển kinh tế biển. Vùng biển Quảng Ngãi là môi trường thuận lợi cho nhiều loài hải sản cư trú, sinh sống và phát triển, vì vậy có tiềm năng sinh học lớn, tạo khả năng phát triển mạnh ngành khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản. Nhiều CQ bãi biển với cát mịn trải dài, phong cảnh đẹp như bãi biển Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Khe Hai là tiềm năng cho phát triển du lịch. Dịch vụ cảng và vận tải biển cũng là một trong những thế mạnh từ biển. Quảng Ngãi hiện có cảng Dung Quất là cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực, cảng Sa Kỳ – Lý Sơn là cảng tổng hợp dành cho vận chuyển hành khách, hàng bách hóa và xăng dầu, dọc theo đới bờ có các cảng nhỏ như Sa Cần, Bình Châu, Mỹ Á,... phục vụ các hoạt động đánh bắt hải sản, giao thông đường thủy, thương mại và du lịch. Đảo Lý Sơn với vị trí chiến lược và những lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên (CQ đẹp, hệ sinh thái biển khá đa dạng, phong phú,...) được phát triển theo hướng trở thành đô thị biển xanh, là đảo tiền tiêu với phát triển du lịch và bảo tồn biển, khu hậu cần nghề cá, giúp Quảng Ngãi vươn khơi bám biển ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, đồng thời là nơi tiếp nhận và cung cấp sản phẩm du lịch. c) Tính biến động và nhạy cảm cao Cấu trúc không gian của CQ vùng bờ Quảng Ngãi có tính kém ổn định và mức độ nhạy cảm cao do phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố động lực ngoại sinh (động lực sóng - biển, chế độ triều, chế độ nhiệt,). Điều này được phản ánh rõ trong đặc điểm của các yếu tố thành tạo CQ như nền mẫu chất - địa hình, thổ nhưỡng, trầm tích, thực vật và biến đổi, diễn thế sinh thái của CQ. Các dạng địa hình như bãi triều, cửa sông, đường bờ biển,... thường xuyên bị biến đổi do xói lở và bồi tụ. Vùng cửa sông và ven biển còn có sự thay đổi mạnh trong ngày do tác động của thủy triều, hình thành các CQ ngập nước tạm thời. Mùa khô, nước cạn, thủy triều lấn sâu vào nội đồng, gây nhiễm mặn CQ. Từ tư liệu viễn thám và các dấu hiệu nhận biết từ khảo sát thực địa cho thấy, những CQ rừng trồng trên đất cát và cồn cát ven biển, CQ rừng ngập mặn ngày càng thu hẹp diện tích do nhiều nguyên nhân như bão, di chuyển cồn cát, xâm thực bờ biển,... Ngập lụt, xâm thực bờ biển, xâm nhập mặn,... không ngừng ảnh hưởng đến các hệ sinh thái cửa sông, vùng đầm lầy ven biển và dải ven bờ. Mặt khác, do xu thế biến đổi khí hậu toàn cầu, nước biển dâng, kết hợp với triều, ảnh hưởng mạnh đến dải ven bờ. Tác động tổng hợp của chúng tạo nên những biến động CQ mạnh mẽ hơn. D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 65 Nhân tố quan trọng tạo ra tính biến động và nhạy cảm cao của CQ vùng bờ Quảng Ngãi là các hoạt động khai thác tài nguyên, sử dụng lãnh thổ của con người như đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản, du lịch, xây dựng đô thị và các KCN,... Hệ quả là hình thành các CQ với thảm thực vật thứ sinh nhân tác nhạy cảm và kiểu sử dụng đất trong sự phụ thuộc vào động lực sông - biển - triều. Các CQ biển (CQ rạn san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn và rừng phòng hộ ven biển), cùng nhiều loài sinh vật trong vùng bờ bị suy thoái do ảnh hưởng của việc gia tăng khai thác các nguồn lợi biển phục vụ du lịch, nuôi trồng thủy sản, khai thác khoáng sản ven biển, chuyển đổi đất không hợp lý, nạo vét luồng tàu và xây dựng các công trình ven biển không theo quy hoạch. Các CQ rạn san hô và cỏ biển có dấu hiệu bị suy giảm về diện tích và suy thoái về số loài do khai thác quá mức và ô nhiễm môi trường. CQ rừng ngập mặn chỉ còn diện tích rất nhỏ và khó có khả năng phục hồi tự nhiên do chịu tác động quá lớn của các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội ven biển. Việc tăng diện tích nuôi trồng thủy sản, khai thác khoáng sản trên cát dẫn tới giảm diện tích rừng phòng hộ, gia tăng tốc độ lấn cát sâu vào đất liền,... Tất cả những tác động này đã và sẽ tiếp tục gây sức ép lên CQ, tạo nên những đơn vị CQ kém ổn định, nhạy cảm với những tác động từ bên ngoài và ngày càng mang đậm dấu ấn nhân sinh. 4. Kết luận Nghiên cứu CQ vùng bờ là một hướng mới của địa lý học hiện đại, thực sự cần thiết nhằm xác lập cơ sở khoa học cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên vùng bờ theo hướng bền vững, và góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo quốc gia. Tuy nhiên theo đánh giá chung đến nay, nghiên cứu CQ vùng bờ vẫn còn nhiều hạn chế. CQ vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi bao gồm các CQ trên đất liền, CQ biển và CQ đảo ven bờ. Dưới tác động tổng hợp của các hợp phần, yếu tố tự nhiên và nhân sinh đã hình thành một hệ thống CQ (ở tỷ lệ 1/50.000) bao gồm 01 hệ, 02 phụ hệ, 03 lớp, 06 phụ lớp, 10 kiểu và 108 loại CQ (75 loại CQ đất liền, 27 loại CQ biển và 06 loại CQ đảo). CQ vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có sự phân hóa theo hướng tây - đông (từ các CQ núi thấp, gò đồi, đồng bằng chuyển tiếp xuống CQ biển nông và CQ đảo) và phân hóa theo phương bắc - nam thể hiện ở các kiểu đường bờ và hình thái đồng bằng. Đặc trưng nổi bật trong phân hóa CQ ở đây là tính đồng bằng chiếm ưu thế trên phần đất liền, tính biển ở phía đông và tính biến động, nhạy cảm cao của CQ đối với các tác động bên ngoài, trong đó có các hoạt động phát triển. Kết quả phân tích đặc điểm các đơn vị CQ cho phép xác định chức năng của chúng trên lãnh thổ nghiên cứu, để từ đó có định hướng khai thác, sử dụng hợp lý CQ. Tính đặc thù và đặc điểm phân hóa của CQ là cơ sở hoạch định không gian vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi cho phát triển kinh tế, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường gắn với bảo đảm an ninh, chủ quyền biển đảo. Tài liệu tham khảo [1] E.A. Pozachenyuk et al, Landscape geography in the XXI century: Proceding of the international scientific conference, Simferopol: IT “ARIAL”, 2018. [2] B.V. Preobrazhensky, V.V. Zharikov, L.V. Dubeikovsky, Fundamentals of Underwater Landscape Science, Vladivostok: Dalnauka, 2000. [3] D.G. Ilyushin, Modern methods of researching benthic communities. Engineering surveys, 9-10. Moscow, 2014, p. 98-104. [4] T.V. Pankeeva, H.B. Mironova, A.B. Parkhomenko, Bottom natural complexes of Laspi Bay (Black Sea, Sevastopol), Geopolitics and Ecogeodynamics of Regions, Volume 5 (15), Issue. 4.c, 2019, p. 319-332. [5] N.T. Long, N.V. Vinh, Initial classification of Vietnam's sea and island landscape, Proceedings of the 6th National Geographic Sciences Conference, Hue city, Technology and National Science Publisher, 2012, pp. 107-115 (in Vietnamese). [6] J.C. Roff, M.E. Taylor, National frameworks for marine conservation - a hierarchical geophysical approach, Aquatic Conservation: Marine and Freshwater Ecosystems, 10 (3)(2000) 209-223. D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 66 https://sci-hub.tw/https://doi.org/10.1002/1099- 0755(200005/06)10:3%3c209:aid-aqc408%3 e3.0. co;2-j. [7] N.Golding, M.A.Vincent, D.W. Connor, , Irish sea pilot - a marine landscape classification for the Irish sea. JNCC Report No. 346, Peterborough, 2004. ISSN 0963-8091. [8] D.W. Connor, P.M. Gilliland, N. Golding, P. Robinson, D. Todd, E. Verling, UKSeaMap: the mapping of seabed and water column features of UK seas, Joint Nature Conservation Committee, Peterborough, 2006. ISBN: 1-86107-590-1 and 978-1-86107-590-1. [9] N.N. Khanh, N.C. Huan, P.H. Hai, Research on Vietnam Landscape Classification Units in scale of 1/1.000.000 (mainland and sea), VNU Journal of Science (Geography Specialist) 1996 (15-22) (in Vietnamese). [10] K.M. Petrov, Underwater landscapes: theory, research methods. Leningrad: Science - Leningrad Branch, 1989. [11] V.A. Nikolaev, Small-scale landscape classification and mapping. Moscow: Moscow State University, 1978. [12] P.H. Hai, N.T. Hung, N.N. Khanh, The landscape basis of the rational use of natural resources and environmental protection in Vietnam, Education Publishing House, Hanoi. 1997 (in Vietnamese). [13] Federation of Hydrogeology-Engineering Geology of Central, The investigation of hydrogeology-engineering geology and searching water source in Ly Son island - Quang Ngai, 1998 (in Vietnamese). [14] Quangngai Department of Natural Resources and Environment, Profile on the coastal area of Quang Ngai province, 2015 (in Vietnamese). [15] Quangngai Department of Science and Technology, Climate-Hydrological Characteristics of Quang Ngai Province up to 2010, Da Nang Publishing House, 2013 (in Vietnamese). [16] Quangngai Statistics Office, Quangngai Statistical Yearbook 2018, Statisticsal Publishing House, 2019 (in Vietnamese).
File đính kèm:
- he_thong_phan_loai_va_dac_diem_canh_quan_vung_bo_tinh_quang.pdf