Hành vi giảm sử dụng muối của sinh viên Đại học Y Hà Nội năm 2020
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 438 sinh viên (sinh viên) từ năm nhất đến năm sáu của trường Đại
học Y Hà Nội để mô tả hành vi giảm sử dụng muối và một số yếu tố liên quan. Tỷ lệ sinh viên hiện đang
thực hành giảm sử dụng muối là 30,6% (23,6% nam và 32,7% nữ). Tỷ lệ sinh viên thực hành các biện pháp
giảm sử dụng muối trong 12 tháng qua từ 50,7% đến 94,1%. Sinh viên biết khuyến nghị lượng muối tiêu
thụ của WHO có khả năng thực hành giảm muối cao gấp 1,6 lần sinh viên không biết; sinh viên nghĩ bản
thân cần giảm sử dụng muối có khả năng thực hành giảm muối cao gấp 4,4 lần sinh viên không nghĩ đến;
sinh viên nghĩ cần thiết phải giảm muối có khả năng thực hành giảm muối cao gấp 2,5 lần sinh viên không
thấy cần thiết. Kết quả này cung cấp thêm bằng chứng cho lý thuyết của quá trình thay đổi hành vi là có mối
liên quan giữa nhận thức, thái độ và thay đổi hành vi. Các chương trình truyền thông cần thực hiện nâng
cao nhận thức để giúp đối tượng có kiến thức đúng, có thái độ quan tâm và từ đó thực hành ăn giảm muối
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hành vi giảm sử dụng muối của sinh viên Đại học Y Hà Nội năm 2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 191TCNCYH 130 (6) - 2020 Tác giả liên hệ: Phạm Bích Diệp, Trường Đại học Y Hà Nội Email: phambichdiep@hmu.edu.vn Ngày nhận: 17/05/2020 Ngày được chấp nhận: 05/08/2020 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh không lây nhiễm (NCDs) đang là gánh nặng y tế lớn của hầu hết các quốc gia. Tính đến năm 2018 hơn 71% tương đương với 57 triệu người tử vong mỗi năm trên toàn cầu do NCDs, trong đó có tới 15 triệu người chết ở độ tuổi từ 30 đến 69.1 Riêng năm 2016, 78% số ca tử vong do NCDs và 85% ca tử vong sớm là ở các nước có mức thu nhập thấp và trung bình2. Mục tiêu toàn cầu đến năm 2025 là giảm 30% lượng muối trung bình mà người dân sử dụng trên toàn thế giới.2 Hiện nay, Việt Nam phải đối mặt với mô hình bệnh tật kép: bệnh lây nhiễm và bệnh không lây nhiễm trong đó có trên 70% trường hợp tử vong hàng năm ở Việt Nam là do bệnh không lây nhiễm. Ăn nhiều muối (ăn trên 5 gam muối/ngày/người) có lẽ đang là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến bệnh tăng huyết áp ở Việt Nam tăng nhanh. Tỷ lệ tăng huyết áp tại Việt Nam liên tục tăng trong vài thập kỷ qua, từ mức 1% năm 1960 lên 11,2% năm 1992 và 18,9% năm 2015 (tương đương 12 triệu người). Trong 5 người Việt Nam trưởng thành lại có 1 người bị tăng huyết áp, cứ 3 người tử vong thì có 1 người tử vong do bệnh tim mạch. Theo kết quả của điều tra toàn quốc yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm năm 2015 của Việt Nam trên đối tượng 18 đến 64 tuổi về các hành vi sử dụng muối và giảm sử dụng muối chỉ ra rằng trên 90% người Việt thường xuyên ăn thừa muối; mức tiêu thụ muối trung bình của người Việt Nam trưởng thành là 9,4 gam/ngày (trong đó nam 10,5 g và nữ 8,3g, gấp 2 lần so với khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới là dưới 5 gam/ người/ngày). Tuy nhiên, mặc dù nghiên cứu chỉ ra rằng 90% người Việt thường xuyên ăn thừa muối nhưng chỉ có 69,3% đối tượng cho rằng bản thân ăn vừa đủ lượng muối khuyến cáo và chỉ có 16,1% (nam 19,7% so với nữ 12,4%) cho rằng bản thân tiêu thụ lượng muối nhiều hơn khuyến cáo.3 Như vậy, phải chăng người dân HÀNH VI GIẢM SỬ DỤNG MUỐI CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM 2020 Phạm Thị Thanh Hà và Phạm Bích Diệp Viện Y học Dự phòng và Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 438 sinh viên (sinh viên) từ năm nhất đến năm sáu của trường Đại học Y Hà Nội để mô tả hành vi giảm sử dụng muối và một số yếu tố liên quan. Tỷ lệ sinh viên hiện đang thực hành giảm sử dụng muối là 30,6% (23,6% nam và 32,7% nữ). Tỷ lệ sinh viên thực hành các biện pháp giảm sử dụng muối trong 12 tháng qua từ 50,7% đến 94,1%. Sinh viên biết khuyến nghị lượng muối tiêu thụ của WHO có khả năng thực hành giảm muối cao gấp 1,6 lần sinh viên không biết; sinh viên nghĩ bản thân cần giảm sử dụng muối có khả năng thực hành giảm muối cao gấp 4,4 lần sinh viên không nghĩ đến; sinh viên nghĩ cần thiết phải giảm muối có khả năng thực hành giảm muối cao gấp 2,5 lần sinh viên không thấy cần thiết. Kết quả này cung cấp thêm bằng chứng cho lý thuyết của quá trình thay đổi hành vi là có mối liên quan giữa nhận thức, thái độ và thay đổi hành vi. Các chương trình truyền thông cần thực hiện nâng cao nhận thức để giúp đối tượng có kiến thức đúng, có thái độ quan tâm và từ đó thực hành ăn giảm muối. Từ khóa: Sinh viên, Trường Đại học Y Hà Nội, hành vi giảm sử dụng muối TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 192 TCNCYH 130 (6) - 2020 chưa có nhận thức là họ đang ăn nhiều muối và tác hại của ăn nhiều muối? Nếu người dân chưa nhận biết là bản thân họ đang ăn mặn thì Việt Nam cần phải lưu ý trong truyền thông nâng cao nhận thức để đạt được mục tiêu năm 2025 giảm 30% mức tiêu thụ muối toàn dân.4 Lý thuyết quá trình thay đổi hành vi chỉ ra rằng để giúp thay đổi hành vi có lợi cho sức khoẻ và nâng cao sức khoẻ, trước tiên cần phải để cho đối tượng nhận ra được vấn đề, để cho đối tượng thấy sự cần thiết phải thay đổi và khi đối tượng nhận ra họ đang có vấn đề và nhận thấy cần thiết thay đổi thì họ sẽ thực hành thay đổi hành vi, về lâu dài sẽ giúp nâng cao sức khoẻ.5 Sinh viên Đại học Y Hà Nội (ĐHYHN), nguồn nhân lực y tế tương lai đã được trang bị các kiến thức chăm sóc sức khoẻ. Kiến thức và thực hành của sinh viên Y, những bác sĩ và cán bộ y tế tương lai sẽ có ảnh hưởng lớn đến việc điều trị và tư vấn cho người bệnh.6 Chính vì thế, việc tìm hiểu về hành vi giảm sử dụng muối của sinh viên ĐHYHN, những người đã được trang bị kiến thức chăm sóc sức khoẻ đã sử dụng kiến thức để thực hành hành vi lành mạnh như thế nào, cụ thể trong nghiên cứu này là hành vi giảm sử dụng muối là rất quan trọng. Kết quả nghiên cứu này sẽ cung cấp thêm bằng chứng cho lý thuyết của quá trình thay đổi hành vi, từ đó có những can thiệp cụ thể để giúp thay đổi hành vi của cá nhân. Nghiên cứu này được thực hiện với 2 mục tiêu như sau: - Mô tả thực hành giảm sử dụng muối của sinh viên ĐHYHN năm 2020 - Mô tả một số yếu tố liên quan về nhận thức và thái độ đến đang thực hành giảm sử dụng muối của sinh viên ĐHYHN năm 2020. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Sinh viên ĐHYHN hệ đào tạo Đại học chính quy Thời gian và địa điểm nghiên cứu Thời gian nghiên cứu: Tháng 12/2019 đến tháng 5/2020 Thiết kế nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, định lượng. Cỡ mẫu và chọn mẫu Cỡ mẫu Áp dụng công thức ước tính cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả ước lượng một tỷ lệ trên quần thể: Trong đó: p: tỷ lệ đối tượng có hành vi giảm sử dụng muối. p = 12,5 % là tỷ lệ sinh viên Y khoa Angola có thực hiện hành vi ăn giảm muối;7 α = 0,05; chọn Δ = 0,05; cỡ mẫu tối thiểu là 169 sinh viên. Δ: khoảng sai lệch mong muốn giữa tỷ lệ thu được từ mẫu (p) và tỷ lệ của quần thể (P). α: mức ý nghĩa thống kê. Do chọn mẫu theo lớp học nên cỡ mẫu được nhân với hệ số thiết kế là 2, dự phòng đối tượng từ chối không tham gia nghiên cứu là 10%, cỡ mẫu cần thiết là 372. Như vậy, mỗi khối sẽ chọn 62 sinh viên. Phương ph ... mật và chỉ phục vụ cho mục đích của nghiên cứu. III. KẾT QUẢ 1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Thông tin chung về sinh viên tham gia nghiên cứu Đặc điểm n = 438 % Giới tính Nam 110 25,1 Nữ 327 74,7 Chuyên ngành Bác sĩ Đa khoa, Răng Hàm Mặt, Y học Dự phòng 243 55,5 Cử nhân Y tế Công cộng, Dinh dưỡng, Xét nghiệm, Khúc xạ 195 44,5 Nơi sinh Thành thị 146 33,3 Nông thôn 292 66,7 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 194 TCNCYH 130 (6) - 2020 Đặc điểm n = 438 % Nơi ở hiện tại Kí túc xá 114 26,0 Sống cùng gia đình 87 19,9 Nhà trọ/thuê 237 54,1 Khuyến cáo sử dụng muối/ ngày của WHO Biết đúng là 5 gam/ngày 132 30,1 Biết sai 306 69,8 Tự đánh giá mức độ ăn mặn Ăn mặn 74 16,9 Không ăn mặn 364 83,1 Bản thân tự nghĩ phải giảm sử dụng muối Đã nghĩ đến 264 60,3 Chưa bao giờ 174 39,7 Nhận thức cần thiết phải giảm ăn mặn Cần thiết 148 33,9 Không cần thiết 288 66,1 Trong số sinh viên tham gia nghiên cứu, khoảng gần 3/4 sinh viên là nữ giới, tỷ lệ sinh viên hệ bác sĩ chiếm 55,5% và hệ cử nhân là 44,5%. Chỉ có 30,1% sinh viên biết khuyến cáo lượng muối tiêu thụ một ngày của WHO cho người trưởng thành là 5 gam/ngày. 16,9% sinh viên tự đánh giá bản thân ăn mặn nhưng có đến 60,3% sinh viên đã nghĩ đến cần phải giảm sử dụng muối. 33,9% sinh viên cho rằng cần thiết phải giảm sử dụng muối. 2. Thực hành giảm sử dụng muối Sinh viên hiện đang thực hành giảm sử dụng muối Bảng 2. Tỷ lệ sinh viên đang thực hành giảm sử dụng muối Đặc điểm Có thực hành ( n = 134) Không thực hành (n = 304) % n % Giới tính Nam 26 23,6 84 76,4 Nữ 107 32,7 220 67,3 Nơi sinh Thành thị 47 32,2 99 67,8 Nông thôn 87 29,8 205 70,2 Nơi ở hiện tại Kí túc xá 34 29,8 80 70,2 Sống cùng gia đình 28 32,2 59 67,8 Nhà trọ/thuê 72 30,4 165 69,4 Gần một phần ba số sinh viên (30,6%) đang thực hành giảm sử dụng muối, trong đó 32,7% là nữ và 23,6% là nam; 32,2% sinh ra ở thành thị và 29,8% sinh ra ở nông thôn; 29,8% sinh viên đang ở ký túc xá; 32,3% đang sống với gia đình và 30,4% đang thuê trọ. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 195TCNCYH 130 (6) - 2020 Sinh viên thực hành các hành vi giảm sử dụng muối trong 12 tháng qua Bảng 3. Tỷ lệ sinh viên thực hành các hành vi giảm sử dụng muối trong vòng 12 tháng qua Hành vi giảm muối trong 12 tháng qua Nam (n = 110) Nữ (n = 327) Tổng (n = 438) n % n % n % Không cho muối trong quá trình sơ chế đồ ăn 78 70,9 244 74,6 323 73,7 Không cho muối vào nước luộc rau 77 70,0 251 76,8 329 75,1 Không ăn hoa quả chấm muối 91 82,7 291 89,0 383 87,4 Không chấm các món ăn đã nhiều muối (dưa muối, cà muối,..) vào muối 102 92,7 309 94,5 412 94,1 Không thêm nước mắm, nước kho cá/ thịt hay nước sốt vào cơm khi ăn 107 97,3 303 92,7 411 93,8 Giảm lượng muối cho vào khi nấu ăn 101 91,8 302 92,4 404 92,2 Hạn chế chấm/ chấm nhẹ tay khi ăn các đồ ăn cần chấm nước chấm 102 92,7 295 90,2 398 90,9 Pha loãng nước chấm khi ăn 94 85,5 264 80,7 359 82,0 Hạn chế sử dụng đồ ăn nhanh như mì ăn liền, thịt, cá đóng hộp 97 88,2 298 91,1 396 90,4 Tăng ăn các món luộc thay cho các món kho, rim hay rang 104 94,5 309 94,5 414 94,5 Tăng dùng các thực phẩm tươi thay vì thực phẩm chế biến sẵn chứa nhiều muối (rau dưa muối, giò, chả, xúc xích, lạp xưởng,..) 101 91,8 300 91,7 402 91,8 Tăng dùng các loại gia vị khác: tiêu, ớt, chanh... để tăng hương vị mà không cần muối 103 93,6 288 88,1 392 89,5 Đọc hàm lượng muối (hoặc natri) trên nhãn thực phẩm chế biến sẵn để quyết định thêm muối hay không 57 51,8 164 50,2 222 50,7 Trong 12 tháng qua, tỷ lệ sinh viên thực hành cao nhất là tăng ăn các món luộc thay vì kho/rim/ rang (94,5%) và không chấm các món ăn đã nhiều muối (dưa muối, cà muối,..) vào muối (94,1%), tiếp đến là hạn chế sử dụng đồ ăn nhanh như mì ăn liền, thịt, cá đóng hộp là 90,4%. Thực hành ít được sinh viên thực hiện nhất là đọc hàm lượng muối (hoặc natri) trên nhãn thực phẩm chế biến sẵn để quyết định có hay không bỏ thêm muối (50,7%). TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 196 TCNCYH 130 (6) - 2020 3. Một số yếu tố liên quan đến hành vi giảm sử dụng muối Bảng 4. Mối liên quan giữa một số yếu tố (nhận thức và thái độ) với thực hành giảm muối của sinh viên Đại học Y Hà Nội Đặc điểm Thực hành giảm muối Hệ số hồi quy Khoảng tin cậy Số gam muối/ngày WHO khuyến cáo Trả lời không đúng 1 Trả lời đúng là 5 gam muối/ngày 1,6* 1,0 - 2,5 Tự đánh giá mức độ ăn mặn Không ăn mặn 1 Ăn mặn 0,5 0,3 - 1,0 Nghĩ bản thân cần giảm sử dụng muối Chưa bao giờ 1 Đã từng nghĩ đến 4,4*** 2,5 - 7,6 Mức độ cần thiết thực hành hành vi giảm muối Không cần thiết 1 Rất cần thiết 2,5*** 1,6 - 4,1 Ghi chú: *: có ý nghĩa thống kê ở mức p < 0,05; ***: có ý nghĩa thống kê ở mức p < 0,001; Mô hình hồi quy đa biến cho thấy: những sinh viên từng nghĩ bản thân cần giảm sử dụng muối thì có khả năng thực hiện ăn giảm muối cao gấp 4,4 lần (95% CI 2,5 - 7,6) so với nhóm chưa từng nghĩ đến. Những sinh viên cho rằng bản thân rất cần thiết thực hành giảm sử dụng muối có khả năng thực hành giảm sử dụng muối cao gấp 2,5 lần (95% CI 1,6 - 4,1) so với sinh viên cho rằng không cần thiết. Những sinh viên trả lời đúng số gam muối/ngày WHO khuyến cáo người trưởng thành khỏe mạnh sử dụng là 5 gam có khả năng thực hành giảm sử dụng muối cao gấp 1,6 lần (95% CI 1,0 - 2,5) nhóm trả lời không đúng. IV. BÀN LUẬN Tỷ lệ sinh viên ĐHYHN báo cáo đang thực hành các hành vi giảm sử dụng muối là 30,6%. Kết quả này thấp hơn nghiên cứu tại Montenegro năm 2019 là 34,3%9 và tại Sơn Đông Trung Quốc năm 2011 với 39%.10 Sinh viên ĐHYHN sinh ra ở thành thị thực hành giảm sử dụng muối cao hơn so với sinh viên sinh ra ở nông thôn. Kết quả này cũng tương tự như kết quả nghiên cứu của Trung quốc cũng có kết quả là thành thị thực hành giảm ăn muối cao hơn nông thôn (45,6% so với 34,8%).10 Tỷ lệ sinh viên thực hành giảm sử dụng muối trong vòng 12 tháng qua là từ 50,7% đến 94,1% tuỳ từng hành vi, trong đó hành vi “Đọc hàm lượng muối (hoặc natri) trên nhãn thực phẩm chế biến sẵn để quyết định thêm muối hay không” là thấp nhất (50,7%) và “Không chấm các món ăn đã nhiều muối (dưa muối, cà muối,..) vào muối” là cao nhất (94,1%). Tỷ lệ sinh viên đọc hàm lượng muối trên nhãn dinh dưỡng trong nghiên cứu này cao hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu trong cộng đồng ở Moldova (8,8% đối tượng đọc lượng muối/natri trên nhãn thực phẩm,11 hay ở nông thôn Trung Quốc là 13,9%.10 Đây là một kết quả đáng mừng vì sinh viên y có nhiều kiến thức về chăm sóc sức khoẻ và dường như họ đang áp dụng các kiến thức đó vào thực hành chế độ ăn hàng TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 197TCNCYH 130 (6) - 2020 ngày. Hiện tại, ở một số nước phát triển đã quy định ghi nhãn dinh dưỡng trên bao bì thực phẩm để hướng dẫn người tiêu dùng chế độ ăn uống hợp lý.12 Mặc dù ở Việt Nam chưa có quy định bắt buộc ghi nhãn dinh dưỡng13 nhưng sinh viên Y đã có thói quen kiểm tra thành phần dinh dưỡng khi tiêu dùng thực phẩm là kết quả đáng mừng. Kết quả nghiên cứu chỉ ra mối liên quan trong các bước của quá trình thay đổi hành vi đến hành vi. Theo lý thuyết này, mỗi cá nhân phải nhận ra vấn đề và thực sự quan tâm đến vấn đề thì mới thực hiện thay đổi hành vi. Kết quả nghiên cứu này chỉ ra mối liên quan giữa cá nhân tự nhận ra vấn đề (cụ thể là biến số sinh viên biết bản thân đang ăn mặn, sinh viên biết lượng muối khuyến nghị tiêu thụ trong một ngày với người trưởng thành) và cá nhân thực sự quan tâm đến vấn đề (cụ thể là biến số sinh viên thấy mình cần phải giảm sử dụng muối) với thực hành giảm sử dụng muối của sinh viên. Cụ thể là những sinh viên biết khuyến nghị của WHO cho người trưởng thành là 5 gam muối/ ngày thì có thực hành giảm ăn muối cao gấp 1,6 lần sinh viên không biết khuyến nghị; sinh viên nghĩ bản thân cần giảm sử dụng muối có thực hành giảm ăn muối cao gấp 4,4 lần sinh viên không nghĩ đến; sinh viên nghĩ rằng bản thân cần thiết phải giảm ăn muối thì có thực hành giảm ăn muối cao gấp 2,5 lần sinh viên không thấy cần thiết. Như vậy, kết quả nghiên cứu này tiếp tục cung cấp thêm bằng chứng cho lý thuyết quá trình thay đổi hành vi là có mối liên quan giữa kiến thức, thái độ với thực hành hành vi của cá nhân. Một cá nhân khi đã nhận thức ra vấn đề và thực sự quan tâm đến sự thay đổi thì sẽ thực hành thay đổi hành vi.5 Sinh viên Y đã được trang bị kiến thức và kiến thức đó đã được sinh viên ứng dụng để thay đổi hành vi lành mạnh có lợi cho sức khoẻ.14,10 Hạn chế của nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu cắt ngang, và chọn mẫu thuận tiện nên kết quả nghiên cứu chưa thể ngoại suy ra quần thể được. Mô tả thực hành ăn giảm muối mới chỉ dựa trên khai báo của sinh viên. Tuy nhiên, sinh viên Y được trang bị kiến thức về y khoa nên việc xác định bản thân có thực hành ăn giảm muối có lẽ không khó khăn và không dựa trên cảm tính. Chủ đề nghiên cứu mới, do vậy kết quả nghiên cứu có giá trị tham khảo như là với các bằng chứng ban đầu về thực hành ăn giảm muối trong sinh viên Đại học Y và chỉ ra một số yếu tố liên quan trong quá trình thay đổi hành vi. V. KẾT LUẬN Tỷ lệ sinh viên Y thực hành giảm muối là 30,6% trong đó 23,6% là nam và 32,7% là nữ. Tỷ lệ sinh viên thực hành các biện pháp ăn giảm muối theo khuyến nghị của Viện dinh dưỡng trong 12 tháng qua từ 50,7% đến 94,1%. Nghiên cứu này cung cấp thêm bằng chứng cho lý thuyết của quá trình thay đổi hành vi là có mối liên quan giữa nhận thức, thái độ và thay đổi hành vi. Các chương trình truyền thông cần thực hiện nâng cao nhận thức về lượng muối người trưởng thành và lợi ích của thực hành ăn giảm muối để giúp đối tượng nhận ra vấn đề, có thái độ tích cực và quan tâm đến vấn đề từ đó thực hiện thay đổi hành vi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. World Health Organization (WHO). Non communicable diseases. https://www. who.int/news - room/fact - sheets/detail/ noncommunicable - diseases. Published 2018. Accessed April 16, 2020. 2. World Health Organization (WHO). Noncommunicable diseases country profiles 2018. - profiles - 2018/en/. Published 2018. Accessed April 16, 2020. 3. Cục y tế dự phòng. Công bố kết quả điều TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 198 TCNCYH 130 (6) - 2020 tra quốc gia yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm năm 2015. - tuc - trong - nuoc/1003/cong - bo - ket - qua - dieu - tra - quoc - gia - yeu - to - nguy - co - benh - khong - lay - nhiem - nam - 2015. Xuất bản năm 2016. Truy cập tháng 3 năm 2020. 4. Bộ y tế. Chiến lược quốc gia phòng chống bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2015 - 2025. Hà Nội; 2015. 5. Transtheoretical Model (or Stages of Change) - Health Behavior Change. prochange.com. https://www.prochange.com/ transtheoretical - model - of - behavior - change. Published 1992. Accessed April 20, 2020. 6. Mosadeghrad AM. Factors Affecting Medical Service Quality. Iran J Public Health. 2014; 43(2):210 - 220. 7. Magalhães P, Sanhangala EJR, Dombele IM, et al,. Knowledge, attitude and behaviour regarding dietary salt intake among medical students in Angola. Cardiovasc J Afr. 2015; 26(2):57 - 62. doi:10.5830/CVJA - 2015 - 018 8. World Health Organization (WHO), Salt reduction. https://www.who.int/news - room/fact - sheets/detail/salt - reduction. Published 2020. Accessed February 1, 2020. 9. D’Elia L, Brajović M, Klisic A, et al,. Sodium and Potassium Intake, Knowledge Attitudes and Behaviour Towards Salt Consumption Amongst Adults in Podgorica, Montenegro. Nutrients. 2019; 11(1). doi:10.3390/nu11010160 10. Zhang J, Xu A, Ma J, et al,. Dietary Sodium Intake: Knowledge, Attitudes and Practices in Shandong Province, China. PLoS ONE. 2013; 8(3). doi:10.1371/journal.pone.0058973 11. D’Elia L, Obreja G, Ciobanu A et al,. Sodium, Potassium and Iodine Intake, in A National Adult Population Sample of the Republic of Moldova. Nutrients. 2019; 11(12). doi:10.3390/nu11122896 12. World Health Organization (WHO). Nutrition Labels and Health Claims: The Global Regulatory Environment.; 2019. int/iris/bitstream/10665/42964/1/9241591714. pdf. Published 2019. Accessed February 28, 2019. 13. Chính phủ. Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 7088:2015 (CAC/GL 2 - 1985 sửa đổi 2013 và soát xét 2015) về Hướng dẫn ghi nhãn dinh dưỡng. Xuất bản năm 2015. Truy cập 2015. 14. Grimes CA, Riddell LJ, Nowson CA. Consumer knowledge and attitudes to salt intake and labelled salt information. Appetite. 2009; 53(2):189 - 194. doi:10.1016/j. appet.2009.06.007 Summary BEHAVIOUR OF REDUCING SALT INTAKE AMONG HANOI MEDICAL STUDENTS UNIVERSITY IN 2020 A cross-sectional study was conducted among first to sixth year medical students of Hanoi Medical University to describe the behavior of reducing salt intake and its associated factors. A total of 438 students was included in this study. The prevalance of students who reduce salt intake was 30.6% (23.6 is male and 32.7 is female). The percentage of students who practiced some behavior to reduce salt intake during 12 previous months were from 50.7% to 94.1%. Students who know the recommended salt intake of WHO were 1.6 times more likely to practice reducing salt intake than those who did not; students who thought they need to reduce salt intake were 4.4 times more likely to practice reducing salt intake than those who did not; students who felt there is a need to reduce salt intake was 2.5 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 199TCNCYH 130 (6) - 2020 times more likely to practice reducing salt intake. These results support the theory that the process of behaviour change is based on the relationship between awareness, attitudes, and practice. Communication programs should be designed to raise the awareness in the community, to propagate the right knowledge and caring attitude, and thereby stimulated the practice to reduce salt intake. Keywords: students, Hanoi Medical University, behaviour of reducing salt intake
File đính kèm:
- hanh_vi_giam_su_dung_muoi_cua_sinh_vien_dai_hoc_y_ha_noi_nam.pdf