Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond

This trial aimed to evaluate effects of stocking densities of 1-5 fish/m2

on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian

seabass (Lates calcarifer) in earthen ponds. Fish with an initial length

of 90.7 ± 0.1 mm and weight of 20.8 ± 0.1 g/fish and ponds with 600

m2 each and 1.5 m depth were used for this study. Experiment was designed with three treatments, including different stocking densities of

1, 3 and 5 fish/m2. The fish was fed with pellete feed containing 43

– 44% crude protein. Water quality parameters including temperature,

dissolved oxygen, pH, salinity, transparency and ammonia concentration

were measured once a week. Fish were sampled every 30 day intervals for

length and weight measurement then for their growth estimation. Costs

were recorded for economic efficiency estimation. Results showed that the

water quality parameters were in suitable ranges for growth and development of Asian seabass. The final average length and weight of density

1 fish/m2 was significantly higher than those at 3 and 5 fish/m2 (P <

0.05). However, there was no significant difference on the fish growth

in terms of daily length and weight gain, as well as survival rate and

feed conversion ratio between different stocking densities. Asian seabass

culture at 3 and 5 fish/m2 resulted in a higher profit compared to at

1 fish/m2. The highest economic efficiency in terms of area pond was

showed at 5 fish/m2 treatment.

Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond trang 1

Trang 1

Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond trang 2

Trang 2

Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond trang 3

Trang 3

Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond trang 4

Trang 4

Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond trang 5

Trang 5

Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond trang 6

Trang 6

Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond trang 7

Trang 7

Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond trang 8

Trang 8

Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 8220
Bạn đang xem tài liệu "Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond

Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond
62 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic
efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond
Nhan T. Dinh
Faculty of Fisheries, Nong Lam University, Ho Chi Minh City, Vietnam
ARTICLE INFO
Research Paper
Received: September 01, 2020
Revised: September 25, 2020
Accepted: October 23, 2020
Keywords
Asian seabass
Density
Earthen pond
Economic efficiency
Growth
Corresponding author
Dinh The Nhan
Email: dtnhan@hcmuaf.edu.vn
ABSTRACT
This trial aimed to evaluate effects of stocking densities of 1-5 fish/m2
on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian
seabass (Lates calcarifer) in earthen ponds. Fish with an initial length
of 90.7 ± 0.1 mm and weight of 20.8 ± 0.1 g/fish and ponds with 600
m2 each and 1.5 m depth were used for this study. Experiment was de-
signed with three treatments, including different stocking densities of
1, 3 and 5 fish/m2. The fish was fed with pellete feed containing 43
– 44% crude protein. Water quality parameters including temperature,
dissolved oxygen, pH, salinity, transparency and ammonia concentration
were measured once a week. Fish were sampled every 30 day intervals for
length and weight measurement then for their growth estimation. Costs
were recorded for economic efficiency estimation. Results showed that the
water quality parameters were in suitable ranges for growth and devel-
opment of Asian seabass. The final average length and weight of density
1 fish/m2 was significantly higher than those at 3 and 5 fish/m2 (P <
0.05). However, there was no significant difference on the fish growth
in terms of daily length and weight gain, as well as survival rate and
feed conversion ratio between different stocking densities. Asian seabass
culture at 3 and 5 fish/m2 resulted in a higher profit compared to at
1 fish/m2. The highest economic efficiency in terms of area pond was
showed at 5 fish/m2 treatment.
Cited as: Dinh, N. T. (2020). Effects of stocking density on growth performance, survival rate
and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond. The Journal
of Agriculture and Development 19(5), 62-70.
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) www.jad.hcmuaf.edu.vn
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 63
Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả kinh tế của cá
chẽm (Lates calcarifer) nuôi trong ao đất
Đinh Thế Nhân
Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Nông Lâm TP.HCM, TP. Hồ Chí Minh
THÔNG TIN BÀI BÁO
Bài báo khoa học
Ngày nhận: 01/09/2020
Ngày chỉnh sửa: 25/09/2020
Ngày chấp nhận: 23/10/2020
Từ khóa
Ao đất
Cá chẽm
Hiệu quả kinh tế
Mật độ
Tăng trưởng
Tác giả liên hệ
Đinh Thế Nhân
Email: dtnhan@hcmuaf.edu.vn
TÓM TẮT
Nghiên cứu này thử nghiệm đánh giá ảnh hưởng của các mật độ nuôi,
từ 1 - 5 con/m2 lên tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả kinh
tế của việc nuôi cá chẽm (Lates calcarifer) trong ao đất. Cá có chiều
dài ban đầu 90,7 ± 0,1 mm và khối lượng 20,8 ± 0,1 g/con được bố
trí trong các ao đất có diện tích 600 m2/ao, mực nước ao 1,5 m. Thí
nghiệm gồm 3 nghiệm thức tương ứng với 3 mật độ nuôi khác nhau: 1,
3 và 5 con/m2. Cá được cho ăn thức ăn viên với hàm lượng đạm thô từ
43 – 44%. Định kỳ 1 tuần/lần thu mẫu nước để đo nhiệt độ, ôxy hòa
tan, pH, độ mặn, độ trong và ammonia. Định kỳ 30 ngày/lần tiến hành
thu mẫu cá, đo chiều dài và cân khối lượng để xác định tăng trưởng.
Các chi phí được ghi nhận để tính toán hiệu quả kinh tế. Kết quả cho
thấy các yếu tố môi trường thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển
của cá chẽm. Chiều dài và khối lượng trung bình của cá khi thu hoạch
ở mật độ 1 con/m2 là cao hơn so với 3 và 5 con/m2 (P < 0,05). Tuy
nhiên, mật độ nuôi không ảnh hưởng rõ rệt đến các chỉ tiêu sinh trưởng
như tăng trưởng theo ngày về chiều dài và khối lượng, cũng như tỷ lệ
sống và hệ số chuyển đổi thức ăn. Cá được nuôi ở mật độ 3 và 5 con/m2
cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với mật độ 1 con/m2. Nghiệm thức 5
con/m2 thì cho lợi nhuận trên tính trên diện tích nuôi là cao nhất.
1. Đặt Vấn Đề
Cá chẽm, còn được gọi là cá vược, là loài cá
rộng muối được phân bố rộng ở vùng Ấn Độ
Dương - Tây Thái Bình Dương, từ Vịnh Ả Rập tới
Trung Quốc, Đài Loan và Bắc Australia (FAO-
FAD, 2020). Sản lượng cá chẽm nuôi của 5 nước
gồm Đài Loan, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và
Australia đã gia tăng từ 10.000 tấn vào năm 1991
lên khoảng 95.000 tấn vào năm 2018, với tốc độ
tăng trưởng từ năm 2006 đến 2016 là 170,6%
(GAA, 2016). Cá chẽm có thể được nuôi trong
ao nước lợ hay nước ngọt và lồng lưới cố định
hay nổi trong các thủy vực ven biển; tuy nhiên,
hình thức nuôi lồng phổ biến hơn. Thức ăn cho
nuôi cá chẽm là cá tạp và thức ăn công nghiệp
(FAO-FAD, 2020).
Ở Việt Nam, cá chẽm phân bố ở phía Đông
vịnh Bắc bộ và vùng biển Trung bộ. Chúng đã và
đang là đối tượng cá biển được nuôi khá thành
công ở nhiều địa phương. Năm 2005, Việt Nam
đã nhập vài chục triệu con giống từ Thái Lan để
thả nuôi ở các đầm, hồ ven biển và cửa sông của
các tỉnh phía Nam cho đến các tỉnh phía Bắc.
Hiện nay, nước ta cũng đã làm chủ được công
nghệ sản xuất giống nhân tạo, đáp ứng cả về số
lượng và chất lượng con giống cho người nuôi, và
mở ra triển vọng cho việc phát triển nghề nuôi
cá chẽm quy mô công nghiệp. Nuôi cá chẽm ở
Việt Nam cũng bao gồm nuôi trong ao nước lợ và
lồng lưới trong các thủy vực ven biển. Tuy nhiên,
ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mô hình
nuôi cá chẽm trong ao nước lợ là chủ yếu (Ly &
ctv., 2016). Cho đến nay, các nghiên cứu trên cá
www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)
64 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
chẽm (Lates calcarifer), đặc biệt về kỹ thuật nuôi,
còn rất hạn chế. Nghiên cứu này nhằm đánh giá
ảnh hưởng của các mật độ nuôi từ 1-5 con/m2
đến sinh trưởng và hiệu quả kinh tế của cá chẽm
được nuôi trong ao đất.
2. Vật Liệu và Phương Pháp Nghiên Cứu
2.1. Đố ... được sử dụng để xác định các khác biệt cho
từng cặp nghiệm thức. Các số liệu % được chuyển
đổi thành arsin√ trước khi phân tích. Các số liệu
ở mục Kết Quả và Thảo Luận được trình bày
dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn.
3. Kết Quả và Thảo Luận
3.1. Sự biến động của các yếu tố chất lượng
nước
Nhìn chung hầu hết các yếu tố chất lượng nước
của 3 nghiệm thức (NT) có sự thay đổi theo thời
gian nuôi, tuy nhiên xu hướng thay đổi của 3 NT
là khá giống nhau và không có sự khác biệt đáng
kể (Hình 1). Trong đó:
Nhiệt độ có xu hướng giảm dần từ đầu vụ nuôi
cho đến ngày nuôi thứ 150. Nhiệt độ trung bình
trong các ao biến động từ 27,7 – 31,2oC là không
lớn và không có sự khác biệt ở cả ba nghiệm thức
trong suốt thời gian nuôi.
Hàm lượng ôxy hòa tan (DO) trung bình dao
động từ 3,4 - 4,3 mg/L; biến động nhiều nhất ở
NT3, tiếp theo là NT2 và NT1, không có sự khác
biệt đáng kể giữa các NT vì lượng ôxy được cung
cấp tương ứng với mật độ nuôi. Quan sát những
thời điểm có hàm lượng DO < 4 mg/L thấy cá
vẫn hoạt động và ăn bình thường.
pH trung bình dao động 7,2 - 7,7. pH ở cả 3
nghiệm thức tăng dần từ ngày đầu tiên tới ngày
thứ 90 là do càng về sau lượng tảo trong các ao
nuôi càng phát triển. Ở mật độ càng cao, tảo phát
triển nhiều hơn nên pH biến động lớn hơn.
Độ mặn trung bình ở 3 nghiệm thức có sự biến
động lớn, từ 5,0 - 25,0%₀. Sự biến động độ mặn
diễn ra từ từ theo mùa vụ nên không ảnh hưởng
đến sinh lý của cá nuôi vì cá chẽm là loài rộng
muối.
Độ trong trung bình của 3 nghiệm thức biến
động từ 24 - 48 cm. Độ trong của các ao nuôi có
xu hướng giảm dần về cuối vụ nuôi do sự phát
triển mạnh của tảo.
Hàm lượng NH3 trung bình trong các ao nuôi
dao động từ 0,1 - 0,28 mg/L và không có sự khác
biệt giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Hàm lượng
NH3 tăng dần và đạt cao nhất ở ngày nuôi thứ
60, sau đó có xu hướng giảm dần đến cuối đợt thí
nghiệm do tăng cường thay nước.
3.2. Tăng trưởng
3.2.1. Chiều dài trung bình
Sau 30 ngày nuôi, cá ở NT2 có AL lớn nhất
và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so
với các nghiệm thức còn lại. Nhìn chung, từ ngày
thứ 60 đến cuối thí nghiệm, cá ở NT1 luôn có AL
lớn nhất, kế đến là NT2 và thấp nhất là NT3. Từ
ngày thứ 60 đến 120, AL của cá ở NT1 là không
khác biệt so với NT2 nhưng khác biệt có ý nghĩa
thống kê so với NT3. Từ ngày thứ 150 đến cuối
thí nghiệm, AL của cá ở NT1 là khác biệt có ý
nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại.
Trong khi đó, AL của cá ở NT2 khác biệt không
có ý nghĩa thống kê so với NT3 từ ngày thứ 150
đến cuối thí nghiệm (Bảng 2).
3.2.2. Tăng trưởng theo ngày về chiều dài
Nhìn chung, DLG của cá chẽm ở cả 3 nghiệm
thức giảm dần theo thời gian. DLG của cá giảm
mạnh vào ngày thứ 120 có thể là do sự biến động
của môi trường nuôi đã có ảnh hưởng bất lợi đến
www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)
66 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
Hình 1. Biến động các yếu tố chất lượng nước của 3 nghiệm thức theo thời gian nuôi.
Bảng 2. Chiều dài trung bình (AL, mm) của cá chẽm theo thời gian nuôi
Ngày nuôi NT1 NT2 NT3
0 90,7a ± 0,1 90,8a ± 0,1 90,7a ± 0,1
30 151,5a ± 17,5 165,6b ± 10,3 150,3a ± 9,7
60 213,7b ± 15,4 210,0b ± 15,5 204,9a ± 11,5
90 246,1b ± 14,9 247,7b ± 11,9 237,8a ± 13,0
120 263,8bb ± 13,8 260,2ab ± 13,6 258,0a ± 18,5
150 301,6c ± 12,8 292,9b ± 16,0 285,6a ± 15,5
180 329,9b ± 23,4 309,3a ± 24,1 305,7a ± 18,0
210 349,9b ± 23,4 328,1a ± 24,7 324,9a ± 18,6
240 364,9b ± 23,4 343,1a ± 24,7 339,9a ± 18,7
Các giá trị trên cùng một hàng có các chữ ký tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (P > 0,05).
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) www.jad.hcmuaf.edu.vn
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 67
Bảng 3. Khối lượng trung bình (AW, g) của cá chẽm theo thời gian
Ngày nuôi NT1 NT2 NT3
0 20,8a ± 0,1 20,9a ± 0,1 20,8a ± 0,1
30 53,9a ± 8,5 57,6a ± 12,3 51,0a ± 2,9
60 140,8a ± 8,9 135,7a ± 19,9 123,3a ± 3,3
90 207,3a ± 8,5 179,8a ± 21,2 181,1a ± 10,2
120 331,6a ± 22,9 277,6a ± 38,4 282,8a ± 13,0
150 408,8a ± 67,2 339,0a ± 43,8 348,1a ± 40,3
180 542,2b ± 68,4 433,9ab ± 37,7 427,9a ± 9,1
210 692,2b ± 32,0 609,3a ± 16,5 572,1a ± 13,6
240 920,0b ± 38,4 829,3a ± 28,9 789,9a ± 23,5
Các giá trị trên cùng một hàng có các chữ ký tự giống nhau thì khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (P > 0,05).
Hình 2. Tăng trưởng theo ngày về chiều dài của cá
chẽm.
tăng trưởng về chiều dài của cá. Sau khi được
tăng cường thay nước, DLG của cá đã có sự hồi
phục (Hình 2). DLG của cá ở 3 nghiệm thức có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) ở các
lần lấy mẫu vào các ngày thứ 30, 60 và 150, và
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05)
ở những lần lấy mẫu khác.
3.2.3. Khối lượng trung bình
Nhìn chung, cá ở cả 3 nghiệm thức có sự tăng
trưởng đều về khối lượng theo thời gian nuôi;
trong đó cá ở NT1 có AW lớn nhất, kế đến là
NT2 và thấp nhất ở NT3. Tuy nhiên, từ ngày
thứ 30 đến 150, AW của cá ở cả 3 nghiệm thức
khác biệt không có ý nghĩa thống kê; từ ngày thứ
180 đến cuối thí nghiệm vào ngày thứ 240, AW
của cá ở NT1 đã có sự gia tăng vượt trội và khác
biệt có ý nghĩa thống kê so với 2 nghiệm thức còn
lại. AW của cá ở NT2 và NT3 khác biệt không có
ý nghĩa thống kê từ ngày thứ 150 (Bảng 3).
3.2.4. Tăng trưởng theo ngày về khối lượng
DWG của cá chẽm ở cả 3 nghiệm thức có
khuynh hướng tăng dần nhưng không đều theo
thời gian nuôi (Hình 3). Tuy nhiên, sự biến động
của DWG của cá ở NT1 là ít hơn so với các
nghiệm còn lại. Nhìn chung, DWG của cá ở NT1
là cao nhất, kế đến là NT2 và thấp nhất là NT3
nhưng sự khác biệt DWG của cá ở cả 3 nghiệm
thức là không có ý nghĩa thống kê.
Hình 3. Tăng trưởng theo ngày về khối lượng của cá
chẽm.
3.3. Tỷ lệ sống (SR) và hệ số chuyển đổi thức
ăn (FCR)
3.3.1. Tỷ lệ sống
Tỷ lệ sống của cá có khuynh hướng giảm dần
từ NT1 đến NT2 và NT3 (lần lượt là 95,57, 92,03
và 88,43%) (Hình 4). Tuy nhiên, sự khác biệt về
SR giữa 3 nghiệm thức là không có ý nghĩa thống
kê (P > 0,05).
www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)
68 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
Bảng 4. Các chi phí, doanh thu, lợi nhuận và hiệu quả đồng vốn của nuôi cá chẽm với
các mật độ khác nhau
Các thông số NT1 NT2 NT3 Ghi chú
Cá giống 9.000 27.000 45.000 5.000 đ/con
Thức ăn 63.345 172.942 270.393 26.000 đ/kg
Lao động, quản lý 16.000 16.000 16,000
Điện/nhiên liệu 8.000 16.000 24.000 Điện sục khí, thay nước
Thuốc, hóa chất 5.000 10.000 15.000 Men. Vitamin. vôi...
Khấu hao 5.000 7.500 10.000 Máy móc, thiết bị
Tổng chi phí 106.345 249.442 380.393
Giá thành 67,2 60,5 60,5 Tính trên 1 kg cá
Tổng doanh thu 115.529 300.878 458.931
Lợi nhuận 9.184 51.436 78.538 Tính cho 1800 m2
Lợi nhuận 51.020 285.758 436.324 Tính cho 1 ha
Tỷ suất lợi nhuận (%) 8,64 20,62 20,65 Tính trên tổng chi phí
Tính trên mỗi NT có tổng diện tích nuôi 1800 m2 (đơn vị tính 1.000 đ)
Hình 4. Tỷ lệ sống (%) của cá chẽm ở 3 nghiệm
thức.
3.3.2. Hệ số chuyển đổi thức ăn
FCR của cá có khuynh hướng tăng dần từ NT1
đến NT2 và NT3 (lần lượt là 1,54, 1,61 và 1,65)
(Hình 5). Tuy nhiên, sự khác biệt về FCR giữa 3
nghiệm thức là không có ý nghĩa thống kê.
3.4. Hiệu quả kinh tế
Sự gia tăng mật độ nuôi đã làm gia tăng sản
lượng và tổng chi phí. Tuy nhiên, giá thành lại
giảm theo mật độ nuôi do tận dụng được trang
thiết bị, lao động, ... khi mật độ nuôi tăng lên.
Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cũng gia tăng theo
mật độ nuôi. Lợi nhuận của NT2 đạt 5,6 lần so
với NT1, và của NT3 đạt 1,5 lần so với NT2 và
8,6 lần so NT1. Tương tự, Tỷ suất lợi nhuận của
NT2 và NT3 tương đương và gấp 2,4 lần so với
Hình 5. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) của cá
chẽm .
NT1 (Bảng 4).
3.5. Thảo luận
Các yếu tố môi trường ở 3 nghiệm thức có sự
biến động tương tự nhau theo thời gian nuôi. Sự
biến động này, ngoài những quá trình sinh hóa
xảy ra trong ao nuôi, còn do tác động của thời
tiết và hoạt động quản lý của con người. Theo
Boyd (1998), các yếu tố môi trường lý tưởng cho
cá nhiệt đới bao gồm nhiệt độ từ 25 - 32oC, ôxy
hòa tan (DO) ≥ 4 mg/L, pH từ 7 – 9, ammonia
(NH3-N) < 0,1 mg/L và độ trong từ 30 – 45 cm.
Theo Kungvankij & ctv. (1986), trong tự nhiên
cá chẽm là loài rộng muối (euryhaline) và di cư
xuôi dòng (catadromous) - cá sinh trưởng trong
nước ngọt và di lưu ra nước mặn đẻ trứng - nên
có thể chịu đựng được khoảng dao động của độ
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) www.jad.hcmuaf.edu.vn
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 69
mặn rộng, từ 0 - 36%₀ và độ mặn thích hợp cho
sinh trưởng là 10 - 30%₀. Như vậy, hầu hết các
yếu tố môi trường ở cả 3 nghiệm thức đều nằm
trong khoảng thích hợp cho cá nói chung (Boyd,
1998) và cho cá chẽm nói riêng (Kungvankij &
ctv., 1986).
Cá thí nghiệm ở cả 3 nghiệm thức có sự tăng
trưởng đều đặn cả về chiều dài và khối lượng. Ưu
thế tăng trưởng về chiều dài (AL) và khối lượng
(AW) của cá ở NT1 chỉ thể hiện rõ từ ngày thứ
150 và 180 cho đến cuối thí nghiệm, một cách
tương ứng; trong khi đó AL và AW của cá ở NT2
và NT3 là tương đương nhau (Bảng 2 và 3). Tăng
trưởng theo ngày về chiều dài (DLG) của cá thí
nghiệm ở cả 3 nghiệm thức là tương đương nhau
từ ngày thứ 180, và tăng trưởng theo ngày về
khối lượng (DWG) của cá ở cả 3 nghiệm thức là
tương đương nhau trong suốt thí nghiệm. Như
vậy, trong phạm vi mật độ 1 - 5 con/m2, ảnh
hưởng của mật độ đến sinh trưởng của cá thí
nghiệm là không rõ rệt. Daet (2019) cũng tìm
thấy mật độ không có ảnh hưởng đến sinh trưởng
của cá chẽm nuôi trong giai đặt trong cùng một ao
đất. Tăng trưởng của cá trong thử nghiệm cũng
tương đương về AW và DWG nhưng thấp hơn về
SGR so với cá chẽm nuôi lồng của Anil & ctv.
(2010). Tỷ lệ sống (SR) của cá trong thử nghiệm
này đạt cao (88,43 – 95,57%) và hệ số chuyển đổi
thức ăn (FCR) đạt thấp (1,54 – 1,65), tốt hơn so
với SR (66%) và FCR (2,5) của cá chẽm muôi ao
với thức ăn viên (Hajirezaee & ctv. (2015).
So sánh năng suất qui đổi từ thử nghiệm với
cùng kích cỡ giống thả (8 – 10 cm), mật độ nuôi
(5 con/m2) và thời gian nuôi (8 tháng) thì năng
suất đạt được của thử nghiệm (34,93 tấn/ha) là
cao hơn của các mô hình nuôi ở ĐBSCL (33,3
tấn/ha) theo báo cáo nhóm tác giả Ly & ctv.
(2016). Giá thành nuôi cá chẽm có khuynh hướng
gia tăng theo thời gian, trung bình 42.860 đ/kg
(ở Khánh Hòa) vào năm 2008 (Nguyen, 2009) lên
trung bình 58.400đ/kg (ở ĐBSCL) vào năm 2013
(Ly & ctv., 2016) và 60.395 - 67.210 đ/kg (của thử
nghiệm này, 2018). Trong điều kiện thử nghiệm,
do lợi nhuận tăng theo mật độ nuôi (từ 51 triệu
đ/ha ở mật độ 1 con/m2, lên 286 triệu đ/ha ở
mật độ 3 con/m2 và 436 triệu đ/ha ở mật độ 5
con/m2) và tỷ suất lợi nhuận ở mật độ 3 và 5
con/m2 tương đương nhau (21%) cao hơn mật
độ 1 con/m2 (9%), nên nuôi cá chẽm ở mật độ 3
và 5 con/m2 sẽ cho hiệu quả kinh tế cao so với
mật độ 1 con/m2.
4. Kết Luận
Các yếu tố môi trường biến động theo thời
gian nuôi nhưng ở giới hạn thích hợp cho sự sinh
trưởng và phát triển của cá chẽm.
Chiều dài và khối lượng trung bình của cá khi
thu hoạch ở mật độ 1 con/m2 là cao hơn so với
3 và 5 con/m2. Tuy nhiên sự khác biệt của các
chỉ tiêu sinh trưởng như tăng trưởng theo ngày
về chiều dài và khối lượng, tỷ lệ sống, và hệ số
chuyển đổi thức ăn của cá ở các NT là không rõ
rệt.
Nuôi cá chẽm ở mật độ 3 và 5 con/m2 cho hiệu
quả kinh tế cao hơn so với các mật độ 1 con/m2.
Lợi nhuận tính trên diện tích ở mật độ 5 con/m2
là cao nhất.
Đề xuất tiến hành thử nghiệm nuôi ở những
mật độ cao hơn (trên 5 con/m2) để xác định ảnh
hưởng của mật độ đến sinh trưởng và hiệu quả
kinh tế của hoạt động nuôi cá chẽm trong ao đất.
Tài Liệu Tham Khảo (References)
Anil, M. K., Santhosh, B., Jasmine, S., Saleela, K. N.,
George, R. M., Kingsly, H. J., Unnikrishnan, C., Rao,
G. H., & Rao, G. S. (2010). Growth performance of the
seabass (Lates calcarifer) in sea cage at Vizhinjam Bay
along the south-west coast of India. Indian Journal of
Fisheries 57(4), 65-69.
Boyd, C. E. (1998). Water Quality for Pond Aquaculture.
Research and Development Series No. 43. International
Center for Aquaculture and Aquatic Environments, Al-
abama Agricultural Experiment Station, Auburn Uni-
versity, Alabama.
Daet, I. (2019). Study on culture of sea bass (Lates cal-
carifer, Bloch 1790) in hapa-in-pond environment. IOP
Conference Series: Earth and Environmental Science
230, 012115.
Do, X. V., & Dang, P. T. K. (2010). Economic analysis
of cropping system: The case study of Cai Lay district,
Tien Giang province. Can Tho University Journal of
Science 13, 113-119.
FAO-FAD (Food and Agriculture Organization-Fisheries
and Aquaculture Department). (2020). Cultured
Aquatic Species Information Programme - Lates cal-
carifer (Block, 1790).
GAA (Global Aquaculture Alliance). (2016). Global Fish
Production Data & Analysis - Global Fish Production
Estimates & Trends. Guangzhou, China: GAA.
Hajirezaee, S., Ajdari, D., Matinfar, A., Aghuzbeni. S.
H. H., & Rafiee, G. R. (2015). A preliminary study on
marine culture of Asian seabass, Lates calcarifer in the
coastal earthen ponds of Gwadar region, Iran. Journal
of Applied Animal Research 43(3), 309-313.
www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)
70 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
Ly, K. V., Tran, H. N., & Le, H. V. (2016). An evaluation
on the potential development of seabass model (Lates
calcarifer) along the coastal provinces of the Mekong
Delta area. An Giang University Journal of Science
11(3), 60-71.
Kungvankij, P., Pudadera, Jr. B. J., Tiro, Jr. L. B., &
Potesta, I. O. (1986). Biology and Culture of Seabass
(Lates calcarifer). NACA Training Manual Series No.
3. Network of Aquaculture Centers in Asia (NACA),
Thailand.
Nguyen, S. X. B. (2009). Evaluation of socio-economic ef-
ficiency of commercial culture of Asian seabass (Lates
calcarifer) in Khanh Hoa province (Unpublished mas-
ter’s thesis). Nha Trang University, Khanh Hoa, Viet-
nam.
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) www.jad.hcmuaf.edu.vn

File đính kèm:

  • pdfeffects_of_stocking_density_on_growth_performance_survival_r.pdf