Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond
This trial aimed to evaluate effects of stocking densities of 1-5 fish/m2
on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian
seabass (Lates calcarifer) in earthen ponds. Fish with an initial length
of 90.7 ± 0.1 mm and weight of 20.8 ± 0.1 g/fish and ponds with 600
m2 each and 1.5 m depth were used for this study. Experiment was designed with three treatments, including different stocking densities of
1, 3 and 5 fish/m2. The fish was fed with pellete feed containing 43
– 44% crude protein. Water quality parameters including temperature,
dissolved oxygen, pH, salinity, transparency and ammonia concentration
were measured once a week. Fish were sampled every 30 day intervals for
length and weight measurement then for their growth estimation. Costs
were recorded for economic efficiency estimation. Results showed that the
water quality parameters were in suitable ranges for growth and development of Asian seabass. The final average length and weight of density
1 fish/m2 was significantly higher than those at 3 and 5 fish/m2 (P <
0.05). However, there was no significant difference on the fish growth
in terms of daily length and weight gain, as well as survival rate and
feed conversion ratio between different stocking densities. Asian seabass
culture at 3 and 5 fish/m2 resulted in a higher profit compared to at
1 fish/m2. The highest economic efficiency in terms of area pond was
showed at 5 fish/m2 treatment.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond
62 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond Nhan T. Dinh Faculty of Fisheries, Nong Lam University, Ho Chi Minh City, Vietnam ARTICLE INFO Research Paper Received: September 01, 2020 Revised: September 25, 2020 Accepted: October 23, 2020 Keywords Asian seabass Density Earthen pond Economic efficiency Growth Corresponding author Dinh The Nhan Email: dtnhan@hcmuaf.edu.vn ABSTRACT This trial aimed to evaluate effects of stocking densities of 1-5 fish/m2 on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) in earthen ponds. Fish with an initial length of 90.7 ± 0.1 mm and weight of 20.8 ± 0.1 g/fish and ponds with 600 m2 each and 1.5 m depth were used for this study. Experiment was de- signed with three treatments, including different stocking densities of 1, 3 and 5 fish/m2. The fish was fed with pellete feed containing 43 – 44% crude protein. Water quality parameters including temperature, dissolved oxygen, pH, salinity, transparency and ammonia concentration were measured once a week. Fish were sampled every 30 day intervals for length and weight measurement then for their growth estimation. Costs were recorded for economic efficiency estimation. Results showed that the water quality parameters were in suitable ranges for growth and devel- opment of Asian seabass. The final average length and weight of density 1 fish/m2 was significantly higher than those at 3 and 5 fish/m2 (P < 0.05). However, there was no significant difference on the fish growth in terms of daily length and weight gain, as well as survival rate and feed conversion ratio between different stocking densities. Asian seabass culture at 3 and 5 fish/m2 resulted in a higher profit compared to at 1 fish/m2. The highest economic efficiency in terms of area pond was showed at 5 fish/m2 treatment. Cited as: Dinh, N. T. (2020). Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond. The Journal of Agriculture and Development 19(5), 62-70. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) www.jad.hcmuaf.edu.vn Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 63 Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả kinh tế của cá chẽm (Lates calcarifer) nuôi trong ao đất Đinh Thế Nhân Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Nông Lâm TP.HCM, TP. Hồ Chí Minh THÔNG TIN BÀI BÁO Bài báo khoa học Ngày nhận: 01/09/2020 Ngày chỉnh sửa: 25/09/2020 Ngày chấp nhận: 23/10/2020 Từ khóa Ao đất Cá chẽm Hiệu quả kinh tế Mật độ Tăng trưởng Tác giả liên hệ Đinh Thế Nhân Email: dtnhan@hcmuaf.edu.vn TÓM TẮT Nghiên cứu này thử nghiệm đánh giá ảnh hưởng của các mật độ nuôi, từ 1 - 5 con/m2 lên tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả kinh tế của việc nuôi cá chẽm (Lates calcarifer) trong ao đất. Cá có chiều dài ban đầu 90,7 ± 0,1 mm và khối lượng 20,8 ± 0,1 g/con được bố trí trong các ao đất có diện tích 600 m2/ao, mực nước ao 1,5 m. Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức tương ứng với 3 mật độ nuôi khác nhau: 1, 3 và 5 con/m2. Cá được cho ăn thức ăn viên với hàm lượng đạm thô từ 43 – 44%. Định kỳ 1 tuần/lần thu mẫu nước để đo nhiệt độ, ôxy hòa tan, pH, độ mặn, độ trong và ammonia. Định kỳ 30 ngày/lần tiến hành thu mẫu cá, đo chiều dài và cân khối lượng để xác định tăng trưởng. Các chi phí được ghi nhận để tính toán hiệu quả kinh tế. Kết quả cho thấy các yếu tố môi trường thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cá chẽm. Chiều dài và khối lượng trung bình của cá khi thu hoạch ở mật độ 1 con/m2 là cao hơn so với 3 và 5 con/m2 (P < 0,05). Tuy nhiên, mật độ nuôi không ảnh hưởng rõ rệt đến các chỉ tiêu sinh trưởng như tăng trưởng theo ngày về chiều dài và khối lượng, cũng như tỷ lệ sống và hệ số chuyển đổi thức ăn. Cá được nuôi ở mật độ 3 và 5 con/m2 cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với mật độ 1 con/m2. Nghiệm thức 5 con/m2 thì cho lợi nhuận trên tính trên diện tích nuôi là cao nhất. 1. Đặt Vấn Đề Cá chẽm, còn được gọi là cá vược, là loài cá rộng muối được phân bố rộng ở vùng Ấn Độ Dương - Tây Thái Bình Dương, từ Vịnh Ả Rập tới Trung Quốc, Đài Loan và Bắc Australia (FAO- FAD, 2020). Sản lượng cá chẽm nuôi của 5 nước gồm Đài Loan, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Australia đã gia tăng từ 10.000 tấn vào năm 1991 lên khoảng 95.000 tấn vào năm 2018, với tốc độ tăng trưởng từ năm 2006 đến 2016 là 170,6% (GAA, 2016). Cá chẽm có thể được nuôi trong ao nước lợ hay nước ngọt và lồng lưới cố định hay nổi trong các thủy vực ven biển; tuy nhiên, hình thức nuôi lồng phổ biến hơn. Thức ăn cho nuôi cá chẽm là cá tạp và thức ăn công nghiệp (FAO-FAD, 2020). Ở Việt Nam, cá chẽm phân bố ở phía Đông vịnh Bắc bộ và vùng biển Trung bộ. Chúng đã và đang là đối tượng cá biển được nuôi khá thành công ở nhiều địa phương. Năm 2005, Việt Nam đã nhập vài chục triệu con giống từ Thái Lan để thả nuôi ở các đầm, hồ ven biển và cửa sông của các tỉnh phía Nam cho đến các tỉnh phía Bắc. Hiện nay, nước ta cũng đã làm chủ được công nghệ sản xuất giống nhân tạo, đáp ứng cả về số lượng và chất lượng con giống cho người nuôi, và mở ra triển vọng cho việc phát triển nghề nuôi cá chẽm quy mô công nghiệp. Nuôi cá chẽm ở Việt Nam cũng bao gồm nuôi trong ao nước lợ và lồng lưới trong các thủy vực ven biển. Tuy nhiên, ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mô hình nuôi cá chẽm trong ao nước lợ là chủ yếu (Ly & ctv., 2016). Cho đến nay, các nghiên cứu trên cá www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) 64 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh chẽm (Lates calcarifer), đặc biệt về kỹ thuật nuôi, còn rất hạn chế. Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của các mật độ nuôi từ 1-5 con/m2 đến sinh trưởng và hiệu quả kinh tế của cá chẽm được nuôi trong ao đất. 2. Vật Liệu và Phương Pháp Nghiên Cứu 2.1. Đố ... được sử dụng để xác định các khác biệt cho từng cặp nghiệm thức. Các số liệu % được chuyển đổi thành arsin√ trước khi phân tích. Các số liệu ở mục Kết Quả và Thảo Luận được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn. 3. Kết Quả và Thảo Luận 3.1. Sự biến động của các yếu tố chất lượng nước Nhìn chung hầu hết các yếu tố chất lượng nước của 3 nghiệm thức (NT) có sự thay đổi theo thời gian nuôi, tuy nhiên xu hướng thay đổi của 3 NT là khá giống nhau và không có sự khác biệt đáng kể (Hình 1). Trong đó: Nhiệt độ có xu hướng giảm dần từ đầu vụ nuôi cho đến ngày nuôi thứ 150. Nhiệt độ trung bình trong các ao biến động từ 27,7 – 31,2oC là không lớn và không có sự khác biệt ở cả ba nghiệm thức trong suốt thời gian nuôi. Hàm lượng ôxy hòa tan (DO) trung bình dao động từ 3,4 - 4,3 mg/L; biến động nhiều nhất ở NT3, tiếp theo là NT2 và NT1, không có sự khác biệt đáng kể giữa các NT vì lượng ôxy được cung cấp tương ứng với mật độ nuôi. Quan sát những thời điểm có hàm lượng DO < 4 mg/L thấy cá vẫn hoạt động và ăn bình thường. pH trung bình dao động 7,2 - 7,7. pH ở cả 3 nghiệm thức tăng dần từ ngày đầu tiên tới ngày thứ 90 là do càng về sau lượng tảo trong các ao nuôi càng phát triển. Ở mật độ càng cao, tảo phát triển nhiều hơn nên pH biến động lớn hơn. Độ mặn trung bình ở 3 nghiệm thức có sự biến động lớn, từ 5,0 - 25,0%₀. Sự biến động độ mặn diễn ra từ từ theo mùa vụ nên không ảnh hưởng đến sinh lý của cá nuôi vì cá chẽm là loài rộng muối. Độ trong trung bình của 3 nghiệm thức biến động từ 24 - 48 cm. Độ trong của các ao nuôi có xu hướng giảm dần về cuối vụ nuôi do sự phát triển mạnh của tảo. Hàm lượng NH3 trung bình trong các ao nuôi dao động từ 0,1 - 0,28 mg/L và không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Hàm lượng NH3 tăng dần và đạt cao nhất ở ngày nuôi thứ 60, sau đó có xu hướng giảm dần đến cuối đợt thí nghiệm do tăng cường thay nước. 3.2. Tăng trưởng 3.2.1. Chiều dài trung bình Sau 30 ngày nuôi, cá ở NT2 có AL lớn nhất và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Nhìn chung, từ ngày thứ 60 đến cuối thí nghiệm, cá ở NT1 luôn có AL lớn nhất, kế đến là NT2 và thấp nhất là NT3. Từ ngày thứ 60 đến 120, AL của cá ở NT1 là không khác biệt so với NT2 nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với NT3. Từ ngày thứ 150 đến cuối thí nghiệm, AL của cá ở NT1 là khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại. Trong khi đó, AL của cá ở NT2 khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với NT3 từ ngày thứ 150 đến cuối thí nghiệm (Bảng 2). 3.2.2. Tăng trưởng theo ngày về chiều dài Nhìn chung, DLG của cá chẽm ở cả 3 nghiệm thức giảm dần theo thời gian. DLG của cá giảm mạnh vào ngày thứ 120 có thể là do sự biến động của môi trường nuôi đã có ảnh hưởng bất lợi đến www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) 66 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh Hình 1. Biến động các yếu tố chất lượng nước của 3 nghiệm thức theo thời gian nuôi. Bảng 2. Chiều dài trung bình (AL, mm) của cá chẽm theo thời gian nuôi Ngày nuôi NT1 NT2 NT3 0 90,7a ± 0,1 90,8a ± 0,1 90,7a ± 0,1 30 151,5a ± 17,5 165,6b ± 10,3 150,3a ± 9,7 60 213,7b ± 15,4 210,0b ± 15,5 204,9a ± 11,5 90 246,1b ± 14,9 247,7b ± 11,9 237,8a ± 13,0 120 263,8bb ± 13,8 260,2ab ± 13,6 258,0a ± 18,5 150 301,6c ± 12,8 292,9b ± 16,0 285,6a ± 15,5 180 329,9b ± 23,4 309,3a ± 24,1 305,7a ± 18,0 210 349,9b ± 23,4 328,1a ± 24,7 324,9a ± 18,6 240 364,9b ± 23,4 343,1a ± 24,7 339,9a ± 18,7 Các giá trị trên cùng một hàng có các chữ ký tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) www.jad.hcmuaf.edu.vn Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 67 Bảng 3. Khối lượng trung bình (AW, g) của cá chẽm theo thời gian Ngày nuôi NT1 NT2 NT3 0 20,8a ± 0,1 20,9a ± 0,1 20,8a ± 0,1 30 53,9a ± 8,5 57,6a ± 12,3 51,0a ± 2,9 60 140,8a ± 8,9 135,7a ± 19,9 123,3a ± 3,3 90 207,3a ± 8,5 179,8a ± 21,2 181,1a ± 10,2 120 331,6a ± 22,9 277,6a ± 38,4 282,8a ± 13,0 150 408,8a ± 67,2 339,0a ± 43,8 348,1a ± 40,3 180 542,2b ± 68,4 433,9ab ± 37,7 427,9a ± 9,1 210 692,2b ± 32,0 609,3a ± 16,5 572,1a ± 13,6 240 920,0b ± 38,4 829,3a ± 28,9 789,9a ± 23,5 Các giá trị trên cùng một hàng có các chữ ký tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Hình 2. Tăng trưởng theo ngày về chiều dài của cá chẽm. tăng trưởng về chiều dài của cá. Sau khi được tăng cường thay nước, DLG của cá đã có sự hồi phục (Hình 2). DLG của cá ở 3 nghiệm thức có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) ở các lần lấy mẫu vào các ngày thứ 30, 60 và 150, và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05) ở những lần lấy mẫu khác. 3.2.3. Khối lượng trung bình Nhìn chung, cá ở cả 3 nghiệm thức có sự tăng trưởng đều về khối lượng theo thời gian nuôi; trong đó cá ở NT1 có AW lớn nhất, kế đến là NT2 và thấp nhất ở NT3. Tuy nhiên, từ ngày thứ 30 đến 150, AW của cá ở cả 3 nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê; từ ngày thứ 180 đến cuối thí nghiệm vào ngày thứ 240, AW của cá ở NT1 đã có sự gia tăng vượt trội và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với 2 nghiệm thức còn lại. AW của cá ở NT2 và NT3 khác biệt không có ý nghĩa thống kê từ ngày thứ 150 (Bảng 3). 3.2.4. Tăng trưởng theo ngày về khối lượng DWG của cá chẽm ở cả 3 nghiệm thức có khuynh hướng tăng dần nhưng không đều theo thời gian nuôi (Hình 3). Tuy nhiên, sự biến động của DWG của cá ở NT1 là ít hơn so với các nghiệm còn lại. Nhìn chung, DWG của cá ở NT1 là cao nhất, kế đến là NT2 và thấp nhất là NT3 nhưng sự khác biệt DWG của cá ở cả 3 nghiệm thức là không có ý nghĩa thống kê. Hình 3. Tăng trưởng theo ngày về khối lượng của cá chẽm. 3.3. Tỷ lệ sống (SR) và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) 3.3.1. Tỷ lệ sống Tỷ lệ sống của cá có khuynh hướng giảm dần từ NT1 đến NT2 và NT3 (lần lượt là 95,57, 92,03 và 88,43%) (Hình 4). Tuy nhiên, sự khác biệt về SR giữa 3 nghiệm thức là không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) 68 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh Bảng 4. Các chi phí, doanh thu, lợi nhuận và hiệu quả đồng vốn của nuôi cá chẽm với các mật độ khác nhau Các thông số NT1 NT2 NT3 Ghi chú Cá giống 9.000 27.000 45.000 5.000 đ/con Thức ăn 63.345 172.942 270.393 26.000 đ/kg Lao động, quản lý 16.000 16.000 16,000 Điện/nhiên liệu 8.000 16.000 24.000 Điện sục khí, thay nước Thuốc, hóa chất 5.000 10.000 15.000 Men. Vitamin. vôi... Khấu hao 5.000 7.500 10.000 Máy móc, thiết bị Tổng chi phí 106.345 249.442 380.393 Giá thành 67,2 60,5 60,5 Tính trên 1 kg cá Tổng doanh thu 115.529 300.878 458.931 Lợi nhuận 9.184 51.436 78.538 Tính cho 1800 m2 Lợi nhuận 51.020 285.758 436.324 Tính cho 1 ha Tỷ suất lợi nhuận (%) 8,64 20,62 20,65 Tính trên tổng chi phí Tính trên mỗi NT có tổng diện tích nuôi 1800 m2 (đơn vị tính 1.000 đ) Hình 4. Tỷ lệ sống (%) của cá chẽm ở 3 nghiệm thức. 3.3.2. Hệ số chuyển đổi thức ăn FCR của cá có khuynh hướng tăng dần từ NT1 đến NT2 và NT3 (lần lượt là 1,54, 1,61 và 1,65) (Hình 5). Tuy nhiên, sự khác biệt về FCR giữa 3 nghiệm thức là không có ý nghĩa thống kê. 3.4. Hiệu quả kinh tế Sự gia tăng mật độ nuôi đã làm gia tăng sản lượng và tổng chi phí. Tuy nhiên, giá thành lại giảm theo mật độ nuôi do tận dụng được trang thiết bị, lao động, ... khi mật độ nuôi tăng lên. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cũng gia tăng theo mật độ nuôi. Lợi nhuận của NT2 đạt 5,6 lần so với NT1, và của NT3 đạt 1,5 lần so với NT2 và 8,6 lần so NT1. Tương tự, Tỷ suất lợi nhuận của NT2 và NT3 tương đương và gấp 2,4 lần so với Hình 5. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) của cá chẽm . NT1 (Bảng 4). 3.5. Thảo luận Các yếu tố môi trường ở 3 nghiệm thức có sự biến động tương tự nhau theo thời gian nuôi. Sự biến động này, ngoài những quá trình sinh hóa xảy ra trong ao nuôi, còn do tác động của thời tiết và hoạt động quản lý của con người. Theo Boyd (1998), các yếu tố môi trường lý tưởng cho cá nhiệt đới bao gồm nhiệt độ từ 25 - 32oC, ôxy hòa tan (DO) ≥ 4 mg/L, pH từ 7 – 9, ammonia (NH3-N) < 0,1 mg/L và độ trong từ 30 – 45 cm. Theo Kungvankij & ctv. (1986), trong tự nhiên cá chẽm là loài rộng muối (euryhaline) và di cư xuôi dòng (catadromous) - cá sinh trưởng trong nước ngọt và di lưu ra nước mặn đẻ trứng - nên có thể chịu đựng được khoảng dao động của độ Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) www.jad.hcmuaf.edu.vn Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh 69 mặn rộng, từ 0 - 36%₀ và độ mặn thích hợp cho sinh trưởng là 10 - 30%₀. Như vậy, hầu hết các yếu tố môi trường ở cả 3 nghiệm thức đều nằm trong khoảng thích hợp cho cá nói chung (Boyd, 1998) và cho cá chẽm nói riêng (Kungvankij & ctv., 1986). Cá thí nghiệm ở cả 3 nghiệm thức có sự tăng trưởng đều đặn cả về chiều dài và khối lượng. Ưu thế tăng trưởng về chiều dài (AL) và khối lượng (AW) của cá ở NT1 chỉ thể hiện rõ từ ngày thứ 150 và 180 cho đến cuối thí nghiệm, một cách tương ứng; trong khi đó AL và AW của cá ở NT2 và NT3 là tương đương nhau (Bảng 2 và 3). Tăng trưởng theo ngày về chiều dài (DLG) của cá thí nghiệm ở cả 3 nghiệm thức là tương đương nhau từ ngày thứ 180, và tăng trưởng theo ngày về khối lượng (DWG) của cá ở cả 3 nghiệm thức là tương đương nhau trong suốt thí nghiệm. Như vậy, trong phạm vi mật độ 1 - 5 con/m2, ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng của cá thí nghiệm là không rõ rệt. Daet (2019) cũng tìm thấy mật độ không có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá chẽm nuôi trong giai đặt trong cùng một ao đất. Tăng trưởng của cá trong thử nghiệm cũng tương đương về AW và DWG nhưng thấp hơn về SGR so với cá chẽm nuôi lồng của Anil & ctv. (2010). Tỷ lệ sống (SR) của cá trong thử nghiệm này đạt cao (88,43 – 95,57%) và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) đạt thấp (1,54 – 1,65), tốt hơn so với SR (66%) và FCR (2,5) của cá chẽm muôi ao với thức ăn viên (Hajirezaee & ctv. (2015). So sánh năng suất qui đổi từ thử nghiệm với cùng kích cỡ giống thả (8 – 10 cm), mật độ nuôi (5 con/m2) và thời gian nuôi (8 tháng) thì năng suất đạt được của thử nghiệm (34,93 tấn/ha) là cao hơn của các mô hình nuôi ở ĐBSCL (33,3 tấn/ha) theo báo cáo nhóm tác giả Ly & ctv. (2016). Giá thành nuôi cá chẽm có khuynh hướng gia tăng theo thời gian, trung bình 42.860 đ/kg (ở Khánh Hòa) vào năm 2008 (Nguyen, 2009) lên trung bình 58.400đ/kg (ở ĐBSCL) vào năm 2013 (Ly & ctv., 2016) và 60.395 - 67.210 đ/kg (của thử nghiệm này, 2018). Trong điều kiện thử nghiệm, do lợi nhuận tăng theo mật độ nuôi (từ 51 triệu đ/ha ở mật độ 1 con/m2, lên 286 triệu đ/ha ở mật độ 3 con/m2 và 436 triệu đ/ha ở mật độ 5 con/m2) và tỷ suất lợi nhuận ở mật độ 3 và 5 con/m2 tương đương nhau (21%) cao hơn mật độ 1 con/m2 (9%), nên nuôi cá chẽm ở mật độ 3 và 5 con/m2 sẽ cho hiệu quả kinh tế cao so với mật độ 1 con/m2. 4. Kết Luận Các yếu tố môi trường biến động theo thời gian nuôi nhưng ở giới hạn thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cá chẽm. Chiều dài và khối lượng trung bình của cá khi thu hoạch ở mật độ 1 con/m2 là cao hơn so với 3 và 5 con/m2. Tuy nhiên sự khác biệt của các chỉ tiêu sinh trưởng như tăng trưởng theo ngày về chiều dài và khối lượng, tỷ lệ sống, và hệ số chuyển đổi thức ăn của cá ở các NT là không rõ rệt. Nuôi cá chẽm ở mật độ 3 và 5 con/m2 cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với các mật độ 1 con/m2. Lợi nhuận tính trên diện tích ở mật độ 5 con/m2 là cao nhất. Đề xuất tiến hành thử nghiệm nuôi ở những mật độ cao hơn (trên 5 con/m2) để xác định ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng và hiệu quả kinh tế của hoạt động nuôi cá chẽm trong ao đất. Tài Liệu Tham Khảo (References) Anil, M. K., Santhosh, B., Jasmine, S., Saleela, K. N., George, R. M., Kingsly, H. J., Unnikrishnan, C., Rao, G. H., & Rao, G. S. (2010). Growth performance of the seabass (Lates calcarifer) in sea cage at Vizhinjam Bay along the south-west coast of India. Indian Journal of Fisheries 57(4), 65-69. Boyd, C. E. (1998). Water Quality for Pond Aquaculture. Research and Development Series No. 43. International Center for Aquaculture and Aquatic Environments, Al- abama Agricultural Experiment Station, Auburn Uni- versity, Alabama. Daet, I. (2019). Study on culture of sea bass (Lates cal- carifer, Bloch 1790) in hapa-in-pond environment. IOP Conference Series: Earth and Environmental Science 230, 012115. Do, X. V., & Dang, P. T. K. (2010). Economic analysis of cropping system: The case study of Cai Lay district, Tien Giang province. Can Tho University Journal of Science 13, 113-119. FAO-FAD (Food and Agriculture Organization-Fisheries and Aquaculture Department). (2020). Cultured Aquatic Species Information Programme - Lates cal- carifer (Block, 1790). GAA (Global Aquaculture Alliance). (2016). Global Fish Production Data & Analysis - Global Fish Production Estimates & Trends. Guangzhou, China: GAA. Hajirezaee, S., Ajdari, D., Matinfar, A., Aghuzbeni. S. H. H., & Rafiee, G. R. (2015). A preliminary study on marine culture of Asian seabass, Lates calcarifer in the coastal earthen ponds of Gwadar region, Iran. Journal of Applied Animal Research 43(3), 309-313. www.jad.hcmuaf.edu.vn Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) 70 Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh Ly, K. V., Tran, H. N., & Le, H. V. (2016). An evaluation on the potential development of seabass model (Lates calcarifer) along the coastal provinces of the Mekong Delta area. An Giang University Journal of Science 11(3), 60-71. Kungvankij, P., Pudadera, Jr. B. J., Tiro, Jr. L. B., & Potesta, I. O. (1986). Biology and Culture of Seabass (Lates calcarifer). NACA Training Manual Series No. 3. Network of Aquaculture Centers in Asia (NACA), Thailand. Nguyen, S. X. B. (2009). Evaluation of socio-economic ef- ficiency of commercial culture of Asian seabass (Lates calcarifer) in Khanh Hoa province (Unpublished mas- ter’s thesis). Nha Trang University, Khanh Hoa, Viet- nam. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5) www.jad.hcmuaf.edu.vn
File đính kèm:
- effects_of_stocking_density_on_growth_performance_survival_r.pdf