Động lượng từ trong Hán ngữ hiện đại và tri nhận chủ quan của chủ thể sử dụng
Động lượng từ trong Hán ngữ hiện đại là từ dùng để biểu thị số lần phát sinh, thay đổi biến hóa, số lần lặp lại, biên độ hoạt động và thời gian kéo dài của hành vi, động tác. Căn cứ thuộc tính và đặc trưng của hành vi, động tác được tri nhận qua tư duy của người nói, động từ và động lượng từ sẽ có mối quan hệ qua lại theo kiểu “một kết hợp với nhiều” và “nhiều kết hợp với một”. Tuy nhiên, động từ nào kết hợp với động lượng từ nào, hoặc ngược lại, thường không có tính ngẫu nhiên, mà tuân theo một nguyên tắc kết hợp nhất định. Bài viết này đi sâu phân tích việc phân loại động lượng từ dựa theo nhận thức, tư duy chủ quan của chủ thể sử dụng, phân tích các điều kiện và nguyên tắc kết hợp giữa động lượng từ và động từ, đồng thời phân tích tính chủ quan của chủ thể sử dụng dưới góc độ tri nhận ngôn ngữ, từ đó có thể giúp người học hạn chế những lỗi sai khi kết hợp hai thành phần này
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Động lượng từ trong Hán ngữ hiện đại và tri nhận chủ quan của chủ thể sử dụng
Đặng Thụy Liên / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 90-96 90 Động lượng từ trong Hán ngữ hiện đại và tri nhận chủ quan của chủ thể sử dụng Verbal quantifiers in Modern Chinese and subjective perception of the using subject Đặng Thụy Liêna,b* Dang Thuy Liena,b* aViện Ngôn ngữ, Trường Ðại học Duy Tân, Ðà Nẵng, Việt Nam aInstitute of Linguistics, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam bKhoa Tiếng Trung, Trường Ðại học Duy Tân, Ðà Nẵng, Việt Nam bFaculty of Chinese Language, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam (Ngày nhận bài: 20/01/2021, ngày phản biện xong: 25/01/2021, ngày chấp nhận đăng: 08/02/2021) Tóm tắt Động lượng từ trong Hán ngữ hiện đại là từ dùng để biểu thị số lần phát sinh, thay đổi biến hóa, số lần lặp lại, biên độ hoạt động và thời gian kéo dài của hành vi, động tác. Căn cứ thuộc tính và đặc trưng của hành vi, động tác được tri nhận qua tư duy của người nói, động từ và động lượng từ sẽ có mối quan hệ qua lại theo kiểu “một kết hợp với nhiều” và “nhiều kết hợp với một”. Tuy nhiên, động từ nào kết hợp với động lượng từ nào, hoặc ngược lại, thường không có tính ngẫu nhiên, mà tuân theo một nguyên tắc kết hợp nhất định. Bài viết này đi sâu phân tích việc phân loại động lượng từ dựa theo nhận thức, tư duy chủ quan của chủ thể sử dụng, phân tích các điều kiện và nguyên tắc kết hợp giữa động lượng từ và động từ, đồng thời phân tích tính chủ quan của chủ thể sử dụng dưới góc độ tri nhận ngôn ngữ, từ đó có thể giúp người học hạn chế những lỗi sai khi kết hợp hai thành phần này. Từ khóa: Động lượng từ; động từ; tri nhận chủ quan. Abstract Verbal quantifiers are words used to denote the number of occurrences, transformations and repetitions, operating amplitude as well as duration of behaviors and movements. Based on the properties and characteristics of behaviors and movements perceived through the speaker's thinking, verbs and verbal quantifiers are related in form of “one combines with many” and “many combine with one”. However, their combinations are usually not random, but follow a certain principle of association. This article analyzes deeply the classification of verbal quantifiers based on perception and subjective thinking of subjects, the conditions and principles of combining verbs and verbal quantifiers as well as the subjectivity of subjects in terms of language cognition, whereby can help learners limit mistakes when using these two components. Keywords: Verbal quantifier; verb; subjective perception. * Corresponding Author: Dang Thuy Lien; Institute of Research and Development, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam; Faculty of Chinese Language, Duy Tan University, Da Nang, 550000, Vietnam; Email: dangthuylien@dtu.edu.vn 01(44) (2021) 90-96 Đặng Thụy Liên / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 90-96 91 1. Đặt vấn đề Động lượng từ (动 量 词) là một trong hai loại lớn của lượng từ (量 词, lượng từ trong tiếng Hán được chia làm hai loại lớn là danh lượng từ và động lượng từ, đây là thành phần đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ tiếng Trung Quốc, là từ dùng để biểu thị đơn vị số lượng người, vật, động tác, thời gian). Động lượng từ chủ yếu đứng sau động từ, có vai trò “lượng hóa” hành vi, động tác, phản ánh hành vi, động tác hoặc một sự kiện trong thế giới khách quan vào ý thức của con người. Việc lựa chọn động lượng từ nào kết hợp với động từ nào sẽ chịu sự ảnh hưởng lớn từ quá trình tri nhận của con người đối với thực thể khách quan, thể hiện ý thức, quan điểm chủ quan của người nói. 2. Phân loại và chức năng của động lượng từ Các nhà nghiên cứu Hán ngữ hiện đại đã có nhiều quan điểm khác nhau về phân loại động lượng từ dựa trên đặc trưng và tính chất khác nhau của chúng, trong đó nổi bật là quan điểm của He Jie (2000). He Jie chia động lượng từ thành hai loại nhỏ: động lượng từ chuyên dụng và động lượng từ vay mượn. Trong đó, động lượng từ chuyên dụng là lượng từ chuyên dùng để biểu thị “lượng” của hành vi động tác, biểu thị số lần phát sinh và thời gian kéo dài của động tác, như 次 (nghĩa là lần, lượt); 回, 下, 遍 (lần); 顿 (bữa), 场 (trận)... He Jie cho rằng, động lượng từ vay mượn gồm các hình thức vay mượn danh từ, động từ hoặc mượn từ tố đứng sau của một số động từ li hợp. Cụ thể là: (1) Vay mượn danh từ, chỉ công cụ hoặc dụng cụ mà hành vi động tác dựa vào đó để thực hiện, như 放 一 枪 (bắn một phát (súng)), 切 一 刀 (cắt một nhát (dao))... (2) Vay mượn danh từ vốn biểu thị các bộ phận trên cơ thể con người, như 睁 一 眼 (trừng (mắt) một cái), 咬 一 口 (nhai một miếng)... (3) Vay mượn danh từ biểu thị kết quả đi kèm của động tác, như 叫 一 声 (gọi một tiếng), 跑 一 圈 (chạy một vòng)... (4) Vay mượn danh từ biểu thị thời gian, như 谈 了 一 上 午 (nói chuyện một buổi sáng), 下 了 一 天 雨 (mưa một ngày)... Vay mượn động từ là hình thức vay mượn các động từ để làm động lượng từ, như 吓 了 一 跳 ((làm) giật nẩy mình), 受 了 大 惊 (sợ hãi) Vay mượn từ tố đứng sau của động từ li hợp, như 睡 觉 (ngủ), 见 面 (gặp mặt), 打 仗 (đánh trận)... He Jie cho rằng, hình thức trùng điệp của động từ cũng là một loại nhỏ của động lượng từ, biểu thị “lượng” của động tác, số từ ở giữa thường chỉ hạn chế là một (一), như 看 一 看 (xem thử, xem một chút); 尝 一 尝 (nếm thử, nếm một chút)... [6:40-42]. Nhưng theo khảo sát của chúng tôi, hình thức trùng điệp này có thể được xem là hiện tượng “ngữ pháp hóa” (grammaticalization) của Hán ngữ hiện đại. Hiện tượng này chỉ quá trình chuyển hóa từ “thực” đến “hư” của thực từ, chỉ các từ ngữ trong tiếng Hán đã không còn ý nghĩa thực mà chuyển sang ý nghĩa và hình thức ngữ pháp không giống với bản chất từ loại vốn có của nó, ngôn ngữ học truyền thống Trung Quốc gọi là “thực từ hư hóa”. Li Yu-ming(2000)cho rằng động từ trùng điệp VV(V了V)đã “hư hóa” thành một phạm trù ngữ pháp mới [7:419- 420]. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm này, và ... chủ, nên có thể nói 去 两 趟, 说 一 番, 复 习 两 遍..., mà không thể nói *产 生 一 趟, *病 一 番, *懂 一 遍... Động lượng từ chuyên dụng 顿, 下 thường đứng sau động từ có tính tự chủ, nên có thể nói 吃 三 顿, 批 评 一 顿, 拍 了 两 下, 打 了 几 下... Động lượng từ chuyên dụng 场, 次, 回 có thể đứng sau động từ chỉ động tác mang tính tự chủ, cũng có thể đứng sau động từ chỉ động tác không mang tính tự chủ, nên có thể nói 赛 两 场, 听 两 次, 试 一 回..., cũng có thể nói 病 了 一 场, 发 生 了 一 次 事 故, 塌 了 一 回... Các động lượng từ được vay mượn từ danh từ biểu thị các bộ phận, công cụ để thực hiện động tác chỉ xuất hiện sau động từ tự chủ, nên có thể nói 看 一 眼, 咬 一 口, 踢 三 脚, 夹 一 筷 子, 抽 了 三 鞭 子... Ngoài ra, phía sau động từ kết hợp với lượng từ tạm thời (临 时 量 词) được vay mượn bởi một động từ tạo thành kết cấu động từ - bổ ngữ, biểu thị cảm xúc, cảm nhận của con người, như 吓 了 一 跳, 烫 了 一 哆 嗦, 冰 了 一 机 伶 [9:40-41]. Như vậy, những động từ biểu thị hành vi, động tác có thể kéo dài liên tục và mang tính tự chủ thường chỉ động tác được tiến hành và duy trì trong một thời gian dài, như 看 书, 打 球... có thể thêm động lượng từ biểu thị tần suất lặp lại và chỉ “lượng” của động tác, nên có thể nói 我 看 一 下 书, 我 打 一 会 儿 球... Ngược lại, động từ chỉ động tác không tự chủ và không có tính kéo dài liên tục biểu thị động tác diễn ra tức thời và nhanh chóng kết thúc, nên thường không kết hợp được với động lượng từ, do đó không thể nói *节 目 开 始 一 次, *节 目 开 始 一 下, *我 毕 业 一 次, *我 毕 业 一 下... 4. Các nguyên tắc kết hợp giữa động từ và động lượng từ Động lượng từ biểu thị số lần phát sinh của hành vi, động tác, nên giữa chúng và động từ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong cuộc sống, động từ biểu thị động tác có rất nhiều, động lượng từ lại có hạn, do tỉ lệ giữa chúng không cân đối nên đã hình thành nguyên tắc “một kết hợp với nhiều” và “nhiều kết hợp với một”. Căn cứ theo từng ngữ cảnh khác nhau, thành phần động lượng từ đứng sau động từ sẽ biểu thị tần suất và các đặc trưng khác nhau của động tác. Ví dụ, hình thức đo lường của động tác đá bóng (踢 球) có thể dùng các động lượng từ chuyên dụng 回, 场, 次 để biểu thị, tạo thành các cụm từ 踢 一 回 足 球, 踢 一 场 足 球, 踢 一 次 足 球, ý nghĩa của ba hình thức này về cơ bản giống nhau, miêu tả sự tham gia cho một trận đấu. Ngoài ra, động lượng từ vay mượn 脚 cũng có thể được dùng để “lượng hóa” động tác 踢, lúc này, cụm từ 踢 一 脚 biểu thị động tác “đá vào quả bóng” chỉ diễn ra một lần, “lượng” của động tác đã nhỏ hơn rất nhiều so với “lượng” mà các cụm 踢 一 回, 踢 一 场, 踢 一 次 biểu thị. Fang Xu-jun (2000) cho rằng, động lượng từ thường gặp trong Hán ngữ hiện đại gồm có 把, 步, 次, 回, 会儿, 下, 番, 通, 气, 阵, 顿, 遍, 趟, 声, 场 (cháng), 场 (chǎng)... Trong số các từ này, có một vài động lượng từ có thể kết hợp được với nhiều động từ khác nhau, như 次 có thể kết hợp với nhiều động từ tạo thành các cụm 安 排 一 次, 摆 一 次, 帮 一 次, 报 告 一 次, 编 一 次, 表 扬 一 次, 布 置 一 次, 测 量 一 次..., Đặng Thụy Liên / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 90-96 94 lượng từ 阵 có thể kết hợp với các động từ tạo thành các cụm từ như 抓 一 阵, 学 一 阵, 议 论 一 阵, 帮 一 阵, 安 慰 一 阵, 对 抗 一 阵, 爱 好 一 阵... Ngoài ra, cũng có trường hợp nhiều động lượng từ kết hợp với một động từ, như các động lượng từ 次, 回, 把, 下, 气, 阵, 会 儿 đều có thể kết hợp với động từ 抓, tạo thành các cụm từ 抓 一 把, 抓 一 下, 抓 一 气, 抓 一 阵, 抓 一 会 儿... Mặc dù giữa động lượng từ và động từ luôn có mối quan hệ “một kết hợp với nhiều” và “nhiều kết hợp với một”, nhưng đôi lúc sự kết hợp này cũng không hoàn toàn tương đồng. Ví dụ, động lượng từ 次 và 遍 đều có thể biểu thị số lần hành vi động tác tiến hành lặp lại, nhưng phạm vi kết hợp của hai từ này với động từ lại không hoàn toàn giống nhau. Động từ kết hợp với 次 phạm vi rộng hơn, động từ kết hợp với 遍 phạm vi hẹp hơn. 次 có thể kết hợp với các động từ 去, 过 去, 过 来, 上 去, 讲, 休 息, 听, 活 动, 计 算, 批 评..., nhưng 遍 lại chỉ có thể kết hợp với các động từ 听, 说, 看, 讲, 算, 写, mà không thể kết hợp với các động từ 去, 过 去, 上 去, 下 来... Ngoài ra, nguyên tắc kết hợp của động lượng từ 次 và 遍 với động từ vẫn có sự khác biệt, 次 chỉ nhấn mạnh số lần hành vi động tác phát sinh, 遍 ngoài việc biểu thị số lần động tác phát sinh ra, còn nhấn mạnh cả quá trình từ lúc phát sinh đến khi hoàn thành và kết thúc của hành vi, động tác (ví dụ 那 部 电 影 她 已 看 过 一 遍,这 本 书 我 已 看 过 两 遍...) Như vậy, việc lựa chọn và sử dụng động lượng từ cũng phải căn cứ vào từng ngữ cảnh cụ thể và theo tri nhận chủ quan của chủ thể sử dụng để có sự diễn đạt cho phù hợp. Ngoài ra, động lượng từ kết hợp với động từ cũng chịu một sự hạn chế hoặc giữa chúng phải có một mối tương quan nhất định. Fang Xu-jun cho rằng: (1) Những động từ kết hợp được với động lượng từ 趟 thường biểu thị ý nghĩa mang tính chuyển động (移 动), như 上 来 一 趟, 跑 一 趟, 走 一 趟, 送 一 趟, 进 去 一 趟... Ngược lại, những động từ không biểu thị ý nghĩa mang tính chuyển động thì không thể kết hợp được. (2) Những động từ kết hợp với động lượng từ 把 thường biểu thị những động tác được dùng tay để thực hiện, như 拉 一 把, 抓 一 把, 扶 一 把, 推 一 把, 捞 一 把... Những động lượng từ này không thể kết hợp với các động từ mà bản thân nó không dùng tay để thực hiện, như 踢, 踏, 躺, 看... (3) Những động từ biểu thị động tác phát ra âm thanh từ miệng thường kết hợp với động lượng từ 声, như 喊 一 声, 叫 一 声, 说 一 声, 骂 一 声... (4) Động lượng từ 遍 thường kết hợp với những động từ biểu thị động tác có thể lặp lại một cách hoàn chỉnh, như 说 一 遍, 讲 一 遍, 听 一 遍, 读 一 遍, 重 复 一 遍 [5:101-103]. Như vậy, một động lượng từ thông thường có thể kết hợp với nhiều động từ, những động từ này về phương diện ý nghĩa có thể tạo thành một nhóm các động từ có những đặc điểm tương đồng nhau, những động từ này có thể cùng kết hợp với một động lượng từ. Ngược lại, một động từ biểu thị ý nghĩa trên nhiều phương diện sẽ có thể kết hợp với nhiều động lượng từ khác nhau. Ví dụ, động từ 说 có thể kết hợp với lượng từ 声 tạo thành cụm từ 说 一 声, cũng có thể kết hợp với lượng từ 遍 tạo thành cụm từ 说 一 遍. Lí do là vì, 说 là động từ chỉ động tác có thể phát ra âm thanh (说 一 声), âm thanh này có thể xuất hiện lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, nên có thể nói (说 一 遍, 说 两 遍, 说 三 遍...) Như vậy, những động từ có cùng tính chất, trạng thái, phương thức biểu thị sẽ sử dụng cùng một động lượng từ, ngược lại, các động lượng từ có cùng đặc điểm, tính chất sẽ cùng được sử dụng cho những động từ nhất định. Đây cũng là lí do động lượng từ và động từ xuất hiện hiện tượng một kết hợp với nhiều và nhiều kết hợp với một, điều này phụ thuộc vào tư duy, tri nhận chủ quan của con người vào hành vi, động tác đó để lựa chọn từ ngữ cho phù hợp. Đặng Thụy Liên / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 90-96 95 5. Tính chủ quan của chủ thể sử dụng khi lựa chọn động lượng từ Trong thế giới khách quan, bất kể sự vật (bao gồm người, động vật, thực vật), sự kiện, tính chất, trạng thái... đều hàm chứa yếu tố “lượng”. Phạm trù “lượng” này luôn tồn tại khách quan, nhưng thông qua nhận thức và tri nhận của con người đã thể hiện vào ngôn ngữ, có lúc được biểu thị thành lượng khách quan (objective quantity), có lúc được biểu thị thành lượng chủ quan (subjective quantity). Tính khách quan và tính chủ quan của phạm trù “lượng” này được biểu thị chủ yếu do tính khách quan và tính chủ quan của thành phần danh lượng từ, động lượng từ và từ ngữ chỉ thời gian mang lại. Khi biểu thị số lần hành vi, động tác phát sinh, biến hóa, cụm “động từ + số từ + động lượng từ (+ danh từ)” này có thể biểu thị số lần hành vi, động tác thực hiện một cách cụ thể, không mang sự phán đoán và đánh giá chủ quan của người nói, ví dụ 跑 五 圈,咬 一 口,来 一 次... Những cụm từ này biểu thị số lần hành vi, động tác xảy ra và lặp lại một cách cụ thể và chính xác, không thể hiện quan điểm và cách nhìn nhận chủ quan của người nói. Tuy nhiên, cụm từ “số từ + động lượng từ” đôi lúc còn thể hiện quan điểm và cách đánh giá chủ quan của chủ thể sử dụng theo cách mà họ tri nhận, hoặc cho rằng “lượng” của động tác có mức độ lớn, hoặc cho rằng “lượng” của động tác có mức độ nhỏ hơn so với thực tế. Theo khảo sát của chúng tôi, động lượng từ thể hiện tính chủ quan của chủ thể sử dụng được thể hiện qua bốn đặc điểm sau: Thứ nhất, trong một số ngữ cảnh nhất định, cụm động lượng có thể đứng trước động từ làm chủ ngữ, danh từ làm tân ngữ đứng sau có thể có hoặc không. Cách sử dụng này thường xuất hiện trong câu phủ định, số từ hạn chế là một (一). Ví dụ, vị trí của các cụm từ 一 次 và 一 眼 trong các câu 一 次 会 也 没 开 过, 一 眼 也 没 有 看 我 tương đối khác biệt so với trình tự sử dụng của cụm động lượng thông thường. Cách nói này nhấn mạnh hành vi, động tác không được diễn ra dù chỉ một lần, biểu thị ý nghĩa phủ định toàn bộ, đôi lúc còn biểu thị sắc thái tình cảm chủ quan của người nói, thể hiện sự không hài lòng hoặc trách móc. Thứ hai, trong Hán ngữ hiện đại, động lượng từ 通, 番có cách sử dụng tương ứng với từ 次, ví dụ 检 查 一 番, 打 了 两 通 电 话 có thể được thay thế bằng 检 查 一 次, 打 了 两 次 电 话, biểu thị số lần tiến hành của hành vi động tác là bao nhiêu, đây là “lượng” khách quan. Số từ trong hai cụm này có thể được thay đổi tùy theo số lần hành vi động tác lặp lại khác nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, 一 通, 一 番 lại không thể hiện được “lượng” mang tính khách quan và chính xác của hành vi động tác, mà thể hiện tính chủ quan của chủ thể sử dụng, ví dụ 批 判 了 一 通,犹 豫 了 一 番... Động từ 批 判, 犹 豫 biểu thị thời gian mà hành vi động tác tiến hành là lớn, nên “lượng” của động tác cũng không nhỏ. Khi các cụm từ 一 通, 一 番 kết hợp với động từ 批 判, 犹 豫 sẽ tạo thành kết cấu cố định, nhấn mạnh người nói cảm nhận chủ quan rằng hành vi động tác có động lượng lớn, thời gian dài, hoặc thể hiện sự phóng đại chủ quan đối với “lượng” của động tác. Lúc này, số từ một (一) không thể đổi thành con số khác, nên không thể nói *批 判 了 两 通 hoặc *犹 豫 了 三 番... Thứ ba, cụm “số từ + động lượng từ” thường đứng sau động từ làm bổ ngữ, tạo thành cấu trúc “động từ + số từ + động lượng từ”, biểu thị số lần phát sinh của hành vi, động tác. Có lúc, người nói vì muốn nhấn mạnh động lượng nhỏ, số lần ít mà thay đổi trình tự sử dụng thành “số từ + động lượng từ + động từ”, lúc này số từ chỉ hạn chế là một (一). Ví dụ, 一 脚 trong 踢 一 脚 đứng sau động từ, làm bổ ngữ, biểu thị số lần phát sinh của động tác 踢 là một (一). Tùy theo sự khác nhau về số lần động tác 踢 thực hiện, có thể thay đổi thành Đặng Thụy Liên / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 01(44) (2021) 90-96 96 踢 两 脚, 踢 三 脚... Ngoài ra, 一 脚 trong câu 一 脚 踢 翻 了 桌 上 的 菜 đứng trước động từ, làm trạng ngữ, biểu thị phương thức để thực hiện động tác, số từ một (一) không thể đổi thành số từ khác. Hai cách biểu thị này có ý nghĩa khác nhau: cụm 一 脚 đầu tiên biểu thị ý nghĩa khách quan, nói rõ số lần động tác thực hiện là một (一), không nhấn mạnh về lượng của động tác. Cụm từ 一 脚 trong câu sau đứng trước động từ làm trạng ngữ, mang ý nghĩa chủ quan, ngoài việc biểu thị kết quả của động tác, còn nhấn mạnh ý nghĩa dù động tác chỉ tiến hành một lần, nhưng kết quả đã đạt đến mức độ như mong đợi hoặc vượt quá mong đợi. Thứ tư, khi biểu thị lượng của động tác, người nói vì muốn biểu thị động lượng nhỏ, thời lượng ngắn hoặc theo ý đồ của bản thân mà giảm “lượng” này đi, bằng cách dùng động lượng từ biểu thị mức độ “lượng” ít mơ hồ, không cụ thể, như 一 下, 一 会 儿..., ví dụ 等 一 下,看 一 会 儿... Động lượng từ chuyên dụng 一 下 và động lượng từ vay mượn là danh từ biểu thị thời gian 一 会 儿 đứng sau động từ, nói rõ số lần tiến hành của động tác 等, 看 là ít, biểu thị động lượng nhỏ, thời lượng ngắn. Những động lượng nhỏ này trên thực tế có thể là nhỏ hoặc không, nhưng nhỏ đến bao nhiêu, người nói cũng không biểu thị rõ ràng, cụ thể, mà chỉ căn cứ theo phán đoán và quan điểm của mình để biểu thị một mức độ nhỏ mang tính mơ hồ. Không chỉ vậy, có lúc, để biểu thị mục đích và ý đồ của mình, người nói giảm thiểu lượng động tác và lượng thời gian, khiến đối phương cảm thấy động tác dễ dàng được thực hiện mà không tốn quá nhiều thời gian và sức lực, còn mang lại cho người nghe cảm giác nhẹ nhàng, dễ chịu hơn. 6. Lời kết “Lượng” của hành vi, động tác và sự kiện mang tính trừu tượng, được đo lường thông qua sự có mặt của động lượng từ đứng sau động từ. Đây chính là quá trình con người phản ánh hành vi động tác trong thế giới khách quan vào ngôn ngữ của mình. Thông qua “lượng” được biểu thị, có thể biểu thị được mục đích, ý đồ và sắc thái tình cảm của mình. Nắm được mối tương quan giữa động từ và động lượng từ, cùng những nguyên tắc kết hợp giữa chúng cũng giúp người học có thể kết hợp một cách chính xác hai thành phần này, đồng thời hiểu thêm về tri nhận chủ quan của chủ thể sử dụng. Tài liệu tham khảo [1] David Lee (2014), Dẫn luận ngôn ngữ học tri nhận, Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. [2] Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận (Ghi chép và suy nghĩ), Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội. [3] 陈 昌 来 (2002),现 代 汉 语 动 词 的 句 法 语 义 属 性 研 究,上 海:学 林 出 版 社. [4] 范 晓、杜 高 印、陈 光 磊 (1987),汉 语 动 词 概 述,上 海:上 海 教 育 出 版 社. [5] 方 绪 军 (2000),现 代 汉 语 实 词,上 海:华 东 师 范 大 学 出 版 社. [6] 何 杰 (2008),现 代 汉 语 量 词 研 究 (增 编版) (2000 年 初 版),北 京:北 京 语 言 大 学 出 版 社. [7] 李 宇 明 (2000),汉 语 量 范 畴 研 究,武 汉:华 中 师 范 大 学 出 版 社. [8] 刘 月 华 (1984),动 量 词 “下” 与 动 词 重 叠 比 较,汉 语 学 习,01-08. [9] 马 庆 株 (1992),汉 语 动 词 和 动 词 性 结 构,北 京:北 京 语 言 学 院 出 版 社. [10] 沈 家 煊 (1995),“有 界” 与 “无 界”,中 国 语 文, (5):367-380. [11] 徐 枢 (1985),宾 语 和 补 语,哈 尔 滨:黑 龙 江 人 民 出 版 社. [12] 张 媛 (2016),现 代 汉 语 动 量 构 式 的 认 知 研 究,外 语 教 学, (3):26-29. [13] 赵 元 任 著、吕 叔 湘 译 (1979),汉 语 口 语 语 法(1968 年 初 版),北 京:商 务 印 书 馆. [14] 朱 德 熙 (2017),语 法 讲 义(1982 年 初 版),北 京:商 务 印 书 馆.
File đính kèm:
- dong_luong_tu_trong_han_ngu_hien_dai_va_tri_nhan_chu_quan_cu.pdf