Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn

Đào tạo gắn với thực tiễn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại của các trường Cao đẳng, Đại học ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thì việc đưa ra những vấn đề của thực tiễn gắn với từng nội dung công việc của ngành nghề đào tạo vào lý thuyết là yêu cầu cấp thiết, để sản phẩm đào tạo của Nhà trường đáp ứng được nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, việc hướng cho sinh viên tiếp cận thực tiễn không phải chỉ ở những học phần thực hành, thực tập mà cần được thực hiện cả trong quá trình giảng dạy những học phần mang tính chất lý thuyết. Học phần Kế toán thuế thuộc nhóm kiến thức chuyên ngành kế toán. Là học phần mang tính chất lý thuyết, cung cấp những vấn đề cơ bản về kế toán các loại thuế. Vậy làm thế nào để giảng dạy học phần Kế toán thuế hướng đến tiếp cận thực tiễn giúp sinh viên chủ động tiếp thu bài giảng và gắn được nội dung học phần với chuyên môn sau này. Bài viết đề cập đến một số phương pháp giảng dạy học phần Kế toán thuế, hướng sinh viên tiếp cận thực tiễn công việc kế toán gắn với các nội dung trong học phần

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn trang 1

Trang 1

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn trang 2

Trang 2

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn trang 3

Trang 3

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn trang 4

Trang 4

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn trang 5

Trang 5

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn trang 6

Trang 6

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn trang 7

Trang 7

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 11900
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN 
 ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
 HỌC PHẦN KẾ TOÁN THUẾ THEO HƢỚNG TIẾP CẬN THỰC TIỄN 
 TS. Đƣờng Thị Quỳnh Liên 
 Khoa Kinh tế - Trƣờng Đại học Vinh 
Tóm tắt: 
 Đào tạo gắn với thực tiễn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại của 
các trường Cao đẳng, Đại học ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh việc đổi mới nội dung, 
chương trình, phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thì việc đưa 
ra những vấn đề của thực tiễn gắn với từng nội dung công việc của ngành nghề đào tạo 
vào lý thuyết là yêu cầu cấp thiết, để sản phẩm đào tạo của Nhà trường đáp ứng được 
nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, việc hướng cho sinh viên tiếp cận thực tiễn không phải chỉ 
ở những học phần thực hành, thực tập mà cần được thực hiện cả trong quá trình giảng 
dạy những học phần mang tính chất lý thuyết. Học phần Kế toán thuế thuộc nhóm kiến 
thức chuyên ngành kế toán. Là học phần mang tính chất lý thuyết, cung cấp những vấn 
đề cơ bản về kế toán các loại thuế. Vậy làm thế nào để giảng dạy học phần Kế toán 
thuế hướng đến tiếp cận thực tiễn giúp sinh viên chủ động tiếp thu bài giảng và gắn 
được nội dung học phần với chuyên môn sau này. Bài viết đề cập đến một số phương 
pháp giảng dạy học phần Kế toán thuế, hướng sinh viên tiếp cận thực tiễn công việc kế 
toán gắn với các nội dung trong học phần. 
Từ khóa: Kế toán, kế toán thuế, thuế, thực tiễn, phương pháp 
1. Đặt vấn đề 
 Có thể thấy rằng, với cách thức đào tạo như hiện nay, kết quả của việc đào tạo 
kế toán và nhu cầu tuyển dụng khó có thể gặp nhau. Một trong những nguyên nhân 
chủ yếu là chương trình đào tạo tại các trường đại học quá nặng nề về hàn lâm mà 
thiếu kỹ năng mềm cũng như những kiến thức chuyên môn. Chính vì vậy, việc đưa 
thực tế vào giảng dạy các học phần chuyên ngành kế toán là yêu cầu bức thiết của các 
trường có đào tạo nguồn nhân lực kế toán trong giai đoạn hiện nay. Thực trạng đào tạo 
ngành kế toán hiện nay có thể đánh giá rằng “nội dung môn học vẫn còn nặng lý 
thuyết thuần túy”. Mặc dù trong mấy năm gần đây, nhiều trường dại học, học viện đã 
có những đổi mới tích cực trong phương pháp giảng dạy theo hướng giảm giờ lý 
15 
 Kỷ yếu Hội thảo khoa học năm 2020 
thuyết, tăng giờ thực hành và giờ tự học của sinh viên. Tuy nhiên, hiệu quả của việc 
này còn thấp, vì cơ sở vật chất và kinh phí của các trường thường quá thiếu. Mặc khác, 
sự phối hợp với các doanh nghiệp để sinh viên đi thực tập tốt nghiệp còn gặp nhiều 
khó khăn, thời gian thực tập ít, thậm chí chỉ là hình thức. 
 Học phần Kế toán thuế cung cấp kiến thức căn bản về kế toán các sắc thuế; giúp 
cho người được đào tạo biết được phương pháp hạch toán, kê khai, nộp và quyết toán 
các loại thuế hiện nay đang áp dụng đối với từng loại hình sản xuất kinh doanh, từng 
ngành nghề của các tổ chức, cá nhân. Hướng sinh viên tiếp cận thực tiễn, giúp sinh 
viên thấy được ý nghĩa thực sự của nghề nghiệp, từ đó tạo động lực để sinh viên phấn 
đấu trở thành kế toán thuế chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng trong 
tương lai. 
2. Thực trạng giảng dạy học phần kế toán thuế theo hƣớng tiếp cận thực tiễn 
 Nghiên cứu chương trình đào tạo ngành kế toán tại các trường đại học kinh tế 
Việt Nam cho thấy, học phần kế toán thuế bao gồm các kiến thức cơ bản sau: 
 Tổng quan về thuế và kế toán thuế 
 Kế toán thuế xuất nhập khẩu 
 Kế toán thuế tiêu thụ đặc biệt 
 Kế toán thuế giá trị gia tăng 
 Kế toán thuế thu nhập doanh nghiệp 
 Kế toán thuế thu nhập cá nhân 
 Kế toán thuế tài nguyên 
 Kế toán các loại thuế khác, phí và lệ phí 
 Có thể thấy rằng, tổng quan về thuế và kế toán thuế là phần lõi của học phần 
còn kế toán các loại thuế (xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt, giá trị gia tăng, thu nhập 
doanh nghiệp, thu nhập cá nhân, tài nguyên, thuế khác, phí và lệ phí) là cách thức để 
kế toán thực hiện hạch toán các loại thuế và lập báo cáo thuế. Tương ứng với từng nội 
dung của khối kiến thức cơ bản, giảng viên cần tập trung vào những vấn đề cốt lõi, để 
định hướng cho sinh viên tiếp cận thực tiễn. 
 Thực tế hiện nay, giảng viên dạy học phần kế toán thuế tại các trường đại học, 
cao đẳng bước đầu đã sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. Tuy nhiên, việc sử 
dụng phương pháp dạy học tích cực mới chỉ ở mức không thường xuyên. Mức độ sử 
 16 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN 
dụng phương pháp dạy học tích cực qua đánh giá của sinh viên, giảng viên có sử dụng 
dạy phương pháp dạy học tích cực, tuy nhiên cũng chỉ ở mức không thường xuyên. 
 Một số trường đại học, cao đẳng bắt đầu đưa vào chương trình giảng dạy học 
phần kế toán thuế phong phú theo lĩnh vực và theo loại hình đơn vị: thực hành kê khai 
thuế đối với doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp xây lắp, doanh nghiệp kinh doanh 
dịch vụ, du lịch Ban đầu vẫn kê khai thủ công đối với từng loại thuế. Bên cạnh đó, 
có một số trường lại tăng cường thực hành nghiệp vụ hoặc làm bài tập lớn đối với học 
phần kế toán thuế. Qua cách làm thủ công này, sinh viên được rèn luyện tính tỉ mỉ, cẩn 
thận, hình dung được quy trình kê khai thuế, hạch toán thuế là lập báo cáo thuế một 
cách rõ ràng. Tuy nhiên, còn hạn chế việc chuẩn bị và nhận biết chứng từ cho các 
nghiệp vụ kinh tế. Hơn nữa, việc tiếp cận thực tế hoàn toàn thủ công không thực sự là 
phù hợp với thực tế xã hội. Bù lại,ưu điểm của chương trình đào tạo này là, các trường 
đại học kinh tế đã đưa vào giảng dạy các học phần kế toán máy trên các phần mềm kế 
toán được sử dụng phổ biến, giúp người học tiếp cận gần hơn với việc ứng dụng công 
nghệ thông tin trong học tập và làm việc. 
 Hiện nay ở nước ta ước tính phải trên 80% doanh nghiệp đã sử dụng các phần 
mềm kế toán, ngay cả những doanh nghiệp chưa sử dụng phần mềm kế toán, các kế 
toán viên đa số cũng được trang bị máy tính và sử dụng bảng tính Excel trong công 
việc. Việc sử dụng phần mềm kế toán đã đơn giản hóa rất nhiều công việc kế toán: Chỉ 
cần cập nhật chính xác các chứng từ hoặc nghiệp vụ kinh tế phát sinh, sau đó “có 
phần mềm” xử lý thông tin, đưa ra các báo cáo cơ bản theo yêu cầu. Chính việc sử 
dụng phần mềm kế toán đã thay đổi hẳn cách thức tiến hành công việc kế toán. Thực tế 
là vậy, nhưng trong giảng dạy đa số các trường đào tạo lại tách biệt việc trang bị kiến 
thức, kỹ năng kế toán và việc áp dụng công nghệ nên việc ứng dụng công nghệ vào 
học tập rất hạn chế. 
 Ngoài ra, còn rất nhiều cơ sở đào tạo nghề, cao đẳng, đại học cũng đang dần đổi 
mới phương pháp dạy học tăng cường thực hành nghề nghiệp cho sinh viên hướng đến 
thực tiễn, nhằm đáp ứng nhu cầu của người học và nhà tuyển dụng. Điều này hứa hẹn 
sẽ mang lại hiệu quả đào tạo tích cực và giúp người học tự tin trước cơ hội tìm kiếm 
việc làm đúng chuyên ngành. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là giảng dạy học phần kế toán 
thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn đang dần như một xu thế tất yếu, vậy làm sao để 
nâng cao chất lượng giảng dạy học phần này? 
17 
 Kỷ yếu Hội thảo khoa học năm 2020 
 Như vậy, phương pháp dạy học môn kế toán thuế tại các trường cao đẳng, đại 
học hiện nay chủ yếu vẫn là phương pháp thuyết trình truyền thống, các nhóm phương 
pháp dạy học tích cực ít được sử dụng chỉ đạt mức độ trung bình. Đa số giảng viên 
giảng dạy môn kế toán thuế đều đạt chuẩn về kiến thức chuyên môn, tuy nhiên vẫn còn 
một số hạn chế như: Kinh nghiệm giảng dạy còn thiếu, giảng viên chưa qua đào tạo 
nghiệp vụ sư phạm bài bản, một số chưa sử dụng tốt các phần mềm tin học ứng dụng. 
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất phục vụ dạy học cũng chưa đầy đủ, phòng học chuyên 
môn còn thiếu, đặc biệt phòng học kế toán mô phỏng. 
3. Giải pháp đổi mới phƣơng pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hƣớng 
tiếp cận thực tế 
 Từ những tồn tại, hạn chế nêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm đổi 
mới phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế để sinh viên sau khi ra trường có 
thể đáp ứng được nhu cầu thực tế. 
 Về phía giảng viên 
 Giảng viên trực tiếp giảng dạy học phần kế toán thuế là người có ảnh hưởng lớn 
nhất và trực tiếp tới hiệu quả giờ dạy, bởi vậy những giải pháp đề xuất mang tính cụ 
thể, gần gũi nhất đối với bản thân người dạy đó là: 
 Trong từng tiết học: 
 Thứ nhất, chuẩn bị chu đáo nội dung và thiết kế giáo án, đề cương chi tiết trước 
giờ dạy: Lập kế hoạch dạy học chi tiết cho từng tiết dạy, thể hiện rõ ràng nhiệm vụ tiết 
học, mục tiêu kết quả cần đạt được và hình thức kiểm tra kết quả của SV. Đối tượng 
SV phong phú với nhiều mức độ tiếp thu khác nhau, cần thiết kế giáo án phù hợp để 
phát huy tính chủ động của SV. Gợi nhớ lý thuyết để vận dụng và hướng SV vào bản 
chất nghiệp vụ, ghi nhớ quy trình. Từ đó, xác định những chứng từ cần thiết lập và thu 
thập cho mỗi nghiệp vụ hơn là chỉ định khoản Nợ /Có. 
 Thứ hai, điều hành tổ chức giờ dạy: Điều quan trọng trong tiết dạy tiếp cận thực 
tế là Giảng viên phải tổ chức và điều khiển các đối tượng SV trên lớp. Giảng viên 
thường xuyên đặt sinh viên vào vị trí một nhân viên kế toán, để xem xét vấn đề và trả 
lời câu hỏi của giảng viên. Để lôi cuốn được các SV cùng tham gia, có thể chia lớp học 
thành các nhóm học tập (tùy theo quy mô lớp và năng lực người học để chia nhóm). 
Với việc chia nhóm, SV có điều kiện hỗ trợ lẫn nhau, bài học trở thành quá trình học 
 18 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN 
hỏi lẫn nhau chứ không chỉ thụ động tiếp thu từ giáo viên. Tổ chức hướng dẫn SV trả 
lời câu hỏi tình huống, gợi mở, khuyến kích SV tích cực hoạt động, đồng thời quan 
sát, theo dõi và bổ trợ SV khi cần. 
 Thứ ba, chia nhỏ nội dung giờ dạy: Nội dung của học phần kế toán thuế thường 
có dung lượng khá lớn, giảng viên có thể giảm nhẹ việc học bằng cách chia nhỏ các 
nội dung trong mỗi phần: Hoàn thiện bộ chứng từ kế toán thuế, thực hành lên sổ sách 
kế toán và báo cáo thuế. Có thể kết hợp chúng với nhau, để tránh sự nhàm chán, tuy 
nhiên sâu chuỗi và liên kết lại, để tránh phá vỡ sự logic vốn có của kế toán. 
 Thứ tư, tìm sự hỗ trợ từ SV khá - giỏi: Trong quá trình dạy học, Giảng viên 
quan sát và phát hiện những SV học tốt, tiếp thu nhanh, giao nhiệm vụ để chính các 
học sinh này sẽ đóng vai người hỗ trợ, có nhiệm vụ giải thích và hướng dẫn các bạn 
cùng nhóm thực hiện tốt nhiệm vụ của giờ học. Việc này, giúp các em thoải mái trao 
đổi, không sợ sai, đồng thời có cơ hội để thảo luận, tăng kỹ năng phối hợp, làm việc 
nhóm. Theo đó, cần có hướng động viên khuyến khích các em, tạo động lực để SV thi 
đua và hợp tác nhóm hiệu quả. 
 Cho cả môn học: 
 Giảng dạy nghiệp vụ kế toán thuế phải bắt đầu từ việc “dành nhiều thời gian 
dạy người học về phương pháp, kỹ năng, cách tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các 
thiết bị,... Theo đó, phải chuyển đổi cách học từ “nhớ” sang học để “hiểu” và học để 
“vận dụng”. Điều này, đặc biệt phù hợp và thiết thực với phương pháp giảng dạy, đào 
tạo nghiệp vụ kế toán thuế, vì kế toán thuế là một học phần chuyên ngành có tính logic 
và hệ thống rất cao. 
 Thứ nhất, giảng viên cần cập nhật những kiến thức thực tế, thiết kế bài giảng 
thực tế và sinh động. Bài giảng trên cơ sở nguyên cứu những bài báo của nước ngoài 
và những thông tin trong nước trên cơ sở hiểu rõ bản chất của vấn đề để trình bày và 
thiết kế bài giảng cho phù hợp với từng tiết giảng bằng cách tìm kiếm những tình 
huống thực tế đưa vào bài giảng. 
 Thứ hai, phát huy mô hình “học lẫn nhau” theo nhóm. Theo đó, giảng viên tập 
trung vào thảo luận, hướng dẫn phát hiện vấn đề, giám sát việc tham dự thảo luận theo 
các mục tiêu học thuật, học mang tính chủ động và sâu hơn; Chú ý tính thực hành 
trong từng phần giảng. 
19 
 Kỷ yếu Hội thảo khoa học năm 2020 
 Áp dụng phương pháp giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng tiếp cận 
thực tiễn trên hệ thống bài tập tình huống mang tính hệ thống, tổng hợp cao kết hợp 
với việc ứng dụng phần mềm kế toán trong xử lý bài tập tình huống. Ngoài hệ thống 
nghiệp vụ đã xây dựng từ trước, mỗi giảng viên có thể lập một cơ sở dữ liệu với hệ 
thống chứng từ kế toán thuế, nghiệp vụ kinh tế,... gần với mô hình thực tế của DN 
trong một kỳ kế toán và yêu cầu SV sử dụng công cụ excel hoặc phần mềm kế toán để 
thực hiện các yêu cầu (từ việc cập nhật chứng từ, cho đến việc đưa ra các báo cáo 
thuế). Việc xử lý bài tập tình huống tổng hợp này là phương thức tốt nhất để trang bị, 
rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp cơ bản cho SV và là yêu cầu, động lực bắt buộc học 
viên phải có sự liên hệ, tra cứu, vận dụng kiến thức các môn học có liên quan. 
 Thứ ba, giảng viên tạo không khí tích cực trong giờ học, trong đó chú ý dung 
hòa phù hợp giữa học và chơi. Đây là hai vấn đề không đối nghịch nhau mà ngược lại, 
khi người học tìm thấy niềm vui trong học tập thì việc học cũng trở nên dễ dàng hơn. 
 Thứ tư, người dạy trực quan hóa (trình bày nội dung bằng hình ảnh) các bài 
giảng. Con người không chỉ học bằng cách nghe, mà còn học được bằng cách quan sát. 
Vì thế, tất cả các nội dung quan trọng cần phải được trực quan hóa và trong suốt tiết 
học phải làm cho người học có thể nhìn thấy càng lâu càng tốt. Trực quan hóa được 
thực hiện thông qua các phương tiện giảng dạy như: bảng, bảng ghim, trình chiếu, 
tranh ảnh, hình vẽ... 
 Nếu giờ giảng chỉ xoay quanh những kiến thức sách vở và người học không 
nhận thấy mối quan hệ với cuộc sống thực tại, nghĩa là buổi học không đảm bảo yêu 
cầu. Kiến thức lý thuyết có thể được người học ghi nhớ trong các kỳ kiểm tra, nhưng 
khi thi xong, kiến thức đó sẽ biến mất. Lý thuyết là quan trọng để chúng ta lý giải các 
vấn đề. Tuy nhiên, nếu không có mối liên hệ với thực tế, lý thuyết chẳng có tác dụng 
gì. 
 Thứ năm, cần thay đổi cách phương pháp giảng dạy, đào tạo nghiệp vụ kế toán 
thuế theo hướng lấy người học làm trung tâm. Lấy người học làm trung tâm là mang 
lại tính chủ động, sáng tạo cho người học trong việc tiếp thu kiến thức kỹ năng. Lấy 
người học làm trung tâm còn có ý nghĩa là, phải dạy những gì người học cần chứ 
không phải là dạy những gì mà cơ sở đào tạo có khả năng thực hiện. Hướng SV tự 
 20 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN 
thực hiện rèn luyện các kỹ năng cần thiết: Tỷ mỉ, cẩn thận, thành thạo chuyên môn, 
ứng dụng tin học và làm việc theo nhóm, ... 
 Thứ sáu, xây dựng và đổi mới ngân hàng đề thi mang tính tổng hợp cao. Đề thi 
gồm 2 phần: Một là: Phần trình bày hiểu biết về các văn bản, thông tư, quyết định liên 
quan đến vấn đề kế toán thuế cụ thể theo hiểu biết của SV; Hai là: Phần bài tập tình 
huống thực tế đều được lồng ghép, đưa vào đề thi đánh giá năng lực người học. Điều 
này đòi hỏi ở SV tính chủ động tìm hiểu để có được kết quả đánh giá tốt ở môn học. 
 Về phía bộ môn, khoa và nhà trường 
 Thứ nhất, xây dựng các chương trình giảng dạy học phần kế toán thuế theo 
hướng tiếp cận thực tiễn, phải gắn với nhu cầu về nghề nghiệp của xã hội. Để thực 
hiện được yêu cầu này, khi xây dựng chương trình đào tạo cần dựa trên việc phân tích 
nghề, phân tích công việc kế toán thuế một cách đầy đủ, khoa học. Giảm thời gian, 
thời lượng các học phần giáo dục đại cương để tăng thêm thời gian học tập các học 
phần chuyên ngành hướng đến tiếp cận thực tiễn. Ngoài việc giảng dạy ở các học phần 
cụ thể, nên xây dựng những bộ số liệu bài tập tổng hợp, điều này giúp người học dễ 
dàng có được sự hình dung và cách tiếp cận hệ thống về nghề nghiệp. Những bài tổng 
hợp tạo sự mới lạ còn góp phần tạo sự hứng thú, tăng sự chủ động cho SV trong việc 
học tập. 
 Thứ hai, kịp thời trong việc hỗ trợ trang thiết bị, cơ sở vật chất (máy tính, máy 
chiếu, phòng học, ...) để nâng cao chất lượng giảng dạy học phần kế toán thuế theo 
hướng tiếp cận thực tiễn. Đồng thời, tăng cường các buổi sinh hoạt chuyên đề, seminar 
trao đổi kinh nghiệm cách thức tổ chức tiết học kế toán thuế hiệu quả. Lắng nghe 
nguyện vọng của SV, giảng viên để có hướng điều chỉnh phù hợp nâng cao chất lượng 
giảng dạy. 
 Thứ ba, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy học phần kế toán thuế theo hướng 
tiếp cận thực tiễn phải song hành với việc nâng cao chất lượng của cán bộ giảng dạy 
kế toán thuế, theo hướng gắn với kỹ năng nghề nghiệp thực tế. Bởi vậy, cần tăng 
cường tập huấn kỹ năng nghề thực tế cho đội ngũ giảng viên. Thực hiện liên kết chặt 
chẽ với khối DN, cơ sở sử dụng lao động nhằm nhìn ra hướng đào tạo thiết thực, theo 
nhu cầu xã hội. Làm được những công việc đó chúng ta mới đào tạo ra những thế hệ 
sinh viên có chuyên môn cao, có kỹ năng nghề nghiệp tốt đáp ứng được yêu cầu của 
21 
 Kỷ yếu Hội thảo khoa học năm 2020 
nhà tuyển dụng, điểu này hoàn toàn phù hợp và cần thiết trong dạy học học phần kế 
toán thuế đối với sinh viên ngành kế toán hiện nay. 
 Như vậy, đổi mới phương pháp giảng dạy, đào tạo học phần kế toán thuế theo 
hướng tiếp cận thực tiễn phải xuất phát từ người học, phải lấy người học làm trung 
tâm. Việc lấy người học làm trung tâm có tác dụng rất lớn trong việc phát huy tính chủ 
động, sáng tạo của người học. Kế toán thuế là một học phần chuyên ngành mang tính 
logic cao, nên nếu áp dụng được phương pháp dạy và học hợp lý sẽ rất thuận lợi trong 
việc khai thác sự chủ động, sáng tạo của người học, phát huy được nguyên lý “nắm bắt 
bản chất - học ít biết nhiều”. 
Tài liệu tham khảo 
1. Đinh Văn Tiến – Ulrich Lipp (2003), Cẩm nang phương pháp sư phạm, NXB TP. 
Hồ Chí Minh; 
2. Lê Công Triêm (chủ biên), Nguyễn Đức Vũ, Trần Thị Tú Anh (2002), Một số vấn 
đề hiện nay của PPDH Đại học, NXB Giáo dục, Hà Nội; 
3. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, NXB 
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; 
4. Trần Khánh Đức (2013), Lý luận và PPDH hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội. 
5. Đào Thị Thúy Liễu Thách (2015), Thách thức và cơ hội trong việc đổi mới phương 
pháp dạy kế toán, Tạp chí Kế toán và Kiểm toán. 
6. Hồng Hạnh (2016), Nhiều bất cập trong đào tạo ngành Kế toán - Kiểm toán, Báo 
điện tử Dân trí. 
7. Nguyễn Văn Đức (2018), Mô hình thực hành kế toán ảo - đáp án cho bài toán nâng 
cao chất lượng đào tạo ngành kế toán, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán. 
 22 

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_phuong_phap_giang_day_hoc_phan_ke_toan_thue_theo_huo.pdf