Độc lực của các chủng vibrio đối với tôm sú và tôm thẻ chân trắng
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm so sánh độc lực của các chủng vi khuẩn Vibrio campbellii (LMG21363), V. harveyi (BB120) và V. harveyi (LMG11226) đối với tôm sú Penaeus monodon và tôm thẻ chân trắng P. vannamei sạch bệnh. Tôm được gây nhiễm với liều 5 x 105, 106, 5 x 106, 107, 5 x 107 , 108hoặc 5 x 108 CFU/tôm. Nhóm đối chứng được tiêm nước muối sinh lý. Tỷ lệ chết cao được tìm thấy khi tiêm tôm với V. campbellii (LMG21363) so với hai chủng còn lại. Tỷ lệ chết cộng dồn khi tiêm tôm với V. campbellii (LMG21363) liều 107 CFU cao và có khác biệt có ý nghĩa thống kê so với khi tiêm cùng liều chủng V. harveyi (LMG11226) và V. harveyi (BB120) (p < 0,05). Tỷ lệ chết 96% được ghi nhận sau 12 giờ gây nhiễm với V. campbellii (LMG21363) liều 107 CFU/tôm trong khi 30% và 4% tỷ lệ chết được tìm thấy khi gây nhiễm cùng liều chủng V. harveyi (LMG11226) và V. harveyi (BB120). Ba chủng vi khuẩn cho thấy có độc lực như nhau đối với tôm sú và tôm thẻ chân trắng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Độc lực của các chủng vibrio đối với tôm sú và tôm thẻ chân trắng
83TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 ĐỘC LỰC CỦA CÁC CHỦNG VIBRIO ĐỐI VỚI TÔM SÚ VÀ TÔM THẺ CHÂN TRẮNG Lê Hồng Phước1, Nguyễn Thị Hiền1, Võ Hồng Phượng1, Nguyễn Phạm Hoàng Huy1, Ngô Thị Bích Phượng1, Nguyễn Trung Hiếu1 TÓM TẮT Nghiên cứu này được thực hiện nhằm so sánh độc lực của các chủng vi khuẩn Vibrio campbellii (LMG21363), V. harveyi (BB120) và V. harveyi (LMG11226) đối với tôm sú Penaeus monodon và tôm thẻ chân trắng P. vannamei sạch bệnh. Tôm được gây nhiễm với liều 5 x 105, 106, 5 x 106, 107, 5 x 107 , 108 hoặc 5 x 108 CFU/tôm. Nhóm đối chứng được tiêm nước muối sinh lý. Tỷ lệ chết cao được tìm thấy khi tiêm tôm với V. campbellii (LMG21363) so với hai chủng còn lại. Tỷ lệ chết cộng dồn khi tiêm tôm với V. campbellii (LMG21363) liều 107 CFU cao và có khác biệt có ý nghĩa thống kê so với khi tiêm cùng liều chủng V. harveyi (LMG11226) và V. harveyi (BB120) (p < 0,05). Tỷ lệ chết 96% được ghi nhận sau 12 giờ gây nhiễm với V. campbellii (LMG21363) liều 107 CFU/tôm trong khi 30% và 4% tỷ lệ chết được tìm thấy khi gây nhiễm cùng liều chủng V. harveyi (LMG11226) và V. harveyi (BB120). Ba chủng vi khuẩn cho thấy có độc lực như nhau đối với tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Từ khóa: Penaeus monodon, Penaeus vannamei, virulence, Vibrio I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thời gian gần đây tôm nuôi phát triển nhiều ở các nước và đặc biệt ở Đông Nam Châu Á. Sản lượng tôm có liên quan đáng kể với ô nhiễm môi trường và các bệnh truyền nhiễm hay không truyền nhiễm (Primavera, 1997). Báo cáo về dịch bệnh do vi khuẩn phát sáng ở các trang trại nuôi tôm cho thấy có liên quan đáng kể đến sản lượng nuôi (Karunasagar và ctv., 1994). Vi khuẩn thuộc giống Vibrio được xem là dồi dào và là vi sinh vật tự do trong môi trường nước biển. Ví dụ như đại diện gần 80% của quần thể vi khuẩn ở nước bề mặt vùng biển Tây Thái Bình Dương (Tsukamoto và ctv.., 1993). Leaño và ctv.. (1998) phân lập và định danh 172 chủng vi khuẩn từ tôm bệnh và tìm thấy khoảng 90% các chủng vi khuẩn phân lập thuộc giống Vibrio. V. harveyi và V. campbellii có thể nhiễm trên tôm ở các giai đoạn ấu trùng, tôm trưởng thành và cả giai đoạn tôm bố mẹ (Gómez-Gil và ctv., 1998; Lavilla-Pitogo và ctv., 1998). V. harveyi được xem là một trong những loài vi khuẩn quan trọng gây nên bệnh phát sáng trên tôm nuôi cả trong trại giống và tôm sú nuôi thương phẩm (Lavilla-Pitogo và ctv., 1990). Tại Philippines, mật độ vi khuẩn V. harveyi ở mức rất thấp 102 CFU/ml cũng đã gây thiệt hại nghiêm trọng trong trại sản xuất giống tôm sú (Lavilla-Pitogo và ctv., 1990). Bệnh nhiễm khuẩn có liên quan đến loài vi khuẩn phát sáng V. harveyi được báo cáo là đã gây thiệt hại chính trong ương nuôi ấu trùng tôm ở Úc (Pizzutto và Hirst, 1995), Nam Mỹ (Álvarez và ctv., 1998; Robertson và ctv., 1998) và Mexico (Vandenberghe và ctv., 1999). Bệnh thường xảy ra trong tháng nuôi đầu tiên và gây tỷ lệ chết đến 50%. Vi khuẩn phát sáng 1 Trung Tâm Quốc Gia Quan Trắc Cảnh Báo Môi Trường & Phòng Ngừa Dịch Bệnh Thủy Sản Khu Vực Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. Email: lehongphuoc@yahoo.com 84 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Vibrio là vi khuẩn cơ hội vì vậy thường kết hợp với các yếu tố bất lợi khác. Nghiên cứu mô bệnh học cho thấy đối với tôm nhiễm vi khuẩn phát sáng có sự tập trung sinh khối lớn của vi khuẩn này ở vùng miệng (Lavilla-Pitogo và ctv., 1990) cùng với teo và hoại tử ống gan tụy (Robertson và ctv., 1998). Nhiều kiểu gây nhiễm đã được nghiên cứu như phương pháp ngâm (Roque và ctv., 1998; Soto-Rodríguez và ctv., 2006), qua đường miệng (De la Peña và ctv., 1995) và phương pháp tiêm (Pizarro và Alfaro, 1994; Wang và Chen, 2006). Nhiều loài tôm đã được sử dụng trong gây nhiễm như P. monodon (Prayitno và Latchford, 1995; Lee và ctv., 1996), P. vannamei (Robertson và ctv., 1998; Wang và Chen, 2006), P. setiferus, P. duorarum, P. aztecus (Lightner và Lewis, 1975), P. indicus, P. semisculatus (Hameed, 1995), và P. stylirostris (Saulnier và ctv., 2000). Mục đích của nghiên cứu này là để xác định chủng vi khuẩn có độc lực thấp để nghiên cứu vai trò của protein sốc nhiệt trong kích thích hệ thống miễn dịch trên tôm sú đồng thời cũng so sánh độc lực của các chủng vi khuẩn đối với 2 loài tôm khác nhau. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Tôm thí nghiệm và điều kiện nuôi Tôm sú và tôm thẻ chân trắng sạch bệnh được dùng trong thí nghiệm. Tôm được nuôi trong bể tuần hoàn nhiệt độ 28-30oC, độ mặn 20 gL-1, và pH từ 7,8-8,1. Tôm được cho ăn với thức ăn viên Lucky star từ một công ty của Đài Loan. Tôm được cho ăn bằng 2,5% trọng lượng cơ thể. Tôm được chuyển lên bể kính 100 lít và thuần dưỡng 1 tuần trước khi tiến hành thí nghiệm. 2.2. Chuẩn bị vi khuẩn gây nhiễm Ba chủng vi khuẩn Vibrio campbellii (LMG21363), V. harveyi (LMG11226) và V. harveyi (BB120) có nguồn gốc từ phòng thí nghiệm Vi sinh vật của Đại Học Ghent, Bỉ được dùng cho các thí nghiệm gây nhiễm. Các chủng vi khuẩn này được giữ giống trong 20% glycerol và giữ ở -80oC sau đó cấy trên môi trường Thiosulfate Citrate Bile Succrose Agar (TCBS) và ủ ở 28oC trong 24 giờ. Khuẩn lạc đơn được chuyển sang môi trường Nutrient Broth + 2%o NaCl tăng sinh qua đêm ở 28oC với tốc độ lắc 150 vòng/phút. Canh khuẩn được chuyển sang ống ly tâm và ly tâm ở tốc độ 2200 g trong 15 phút, bỏ dịch nổi, rửa cặn 2 lần với nước muối sinh lý vô trùng. Mật độ vi khuẩn được xác định bằng cách đo mật độ quang sau đó tính OD =1 tương ứng với 1,2 x 109 CFU/ml. 2.3. Thí nghiệm gây nhiễm Nước biển nuôi tôm có độ mặn 20 gL-1 được xử lý với 30 mgL-1 chlorine trong 3 ngày với sục khí mạnh sau đó trung hòa bằng Na2S2O3 để loại trừ dư lượng của chlorine. Thí nghiệ ... 2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 3.4. Thí nghiệm 4: Gây nhiễm tôm thẻ chân trắng với các liều khác nhau của V. harveyi (BB120), V. harveyi (LMG11226) và V. campbellii (LMG21363) Cũng giống như kết quả thí nghiệm trên tôm sú, V. campbellii (LMG21363) vẫn được xem là chủng có độc lực cao nhất. Từ kết quả thí nghiệm này cho thấy cả tôm sú và tôm thẻ chân trắng đều rất mẫn cảm với các loài Vibrio được kiểm tra và không thấy có tính chuyên biệt cho tôm sú hay tôm thẻ chân trắng (đồ thị 3.4) Đồ thị 3.4. Tỷ lệ chết cộng dồn tôm thẻ chân trắng (%) sau khi gây nhiễm với các liều khác nhau của V. harveyi (BB120), V. harveyi (LMG11226) và V. campbellii (LMG21363) Ở tất cả các thí nghiệm, tôm yếu sắp chết đều có chung hiện tượng là đục cơ tại chỗ tiêm. Đối với tôm sống sót tại chỗ tiêm dần dần chuyển sang đốm đen của hiện tượng melanine hóa. Hầu hết lát cắt mô học ghi nhận trường hợp tập trung tế bào máu tại vùng tiêm và ở các cơ quan khác như tim, cơ quan bạch huyết (lympho). Hình 3.1. Tôm bị đục cơ tại chỗ tiêm Hình 3.2. Hiện tượng huy động tế báo máu tại chỗ tiêm Vi khuẩn có độc lực thấp nhất được dùng làm thí nghiệm thăm dò việc hoạt hóa hệ thống miễn dịch của tôm sú bằng cách kết hợp vi khuẩn có độc lực thấp và Heat Shock Protein 70 (Hsp70). Tôm được tiêm 10 µg of Hsp70 sau đó 1 giờ tiếp tục tiêm V. harveyi (BB120) liều 106 89TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 CFU tôm-1. Kết quả thăm dò cho thấy gen tổng hợp Phenoloxidase proPO1 tăng 6,03 lần so với đối chứng nhưng không thấy tăng proPO2. Ngược lại ở các nghiệm thức tiêm đơn vi khuẩn hoặc Hsp70 không thấy tăng đáng kể proPO1. IV. THẢO LUẬN Có rất nhiều kiểu gây nhiễm đã được thực hiện bởi nhiều tác giả trong và ngoài nước dùng để kiểm tra tác nhân gây bệnh hoặc nghiên cứu về sinh bệnh đối với Vibrio trên tôm. Các thí nghiệm lây nhiễm đã quan tâm đến các yếu tố có thể làm ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm như loài tôm, cỡ tôm, chủng vi khuẩn dùng để thí nghiệm, liều gây nhiễm, kiểu gây nhiễm, điều kiện gây sốc (nhiệt độ, độ mặn, ammonia). Phần lớn các thí nghiệm trước đây không phải là trên đối tượng tôm sạch bệnh hoặc nguồn tôm chọn lọc di truyền nhất định. Vì vậy, đối với nghiên cứu này việc dùng tôm sạch bệnh làm thí nghiệm là một trong những điểm thuận lợi làm hạn chế yếu tố vi sinh (vi khuẩn gây bệnh khác) có thể lảm ảnh hưởng đến kết quả. Bệnh do Vibrio trên tôm được tìm thấy với nhiều loài gây ra như Vibrio anguillarum (Lightner, 1996), V. alginolyticus (Selvin và Lipton, 2003), V. parahaemolyticus (Alapide- Tendencia và Dureza, 1997), V. harveyi (Prayitno và Latchford, 1995), V. penaeicida (Saulnier và ctv., 2000), V. campbellii-like (Hameed, 1995) và thỉnh thoảng có V. splendidus (Lavilla Pitogo và ctv., 1998). V. harveyi được xem là một trong những loài nguy hiểm nhất gây nên hiện tượng bệnh phát sáng trong trại giống cũng như ngoài ao nuôi tôm sú thương phẩm (Lavilla- Pitogo và ctv., 1990). V. harveyi được báo cáo là gây thiệt hại nghiêm trọng trong trại giống ở Philippine (Lavilla-Pitogo ctv., 1990), Úc (Pizzutto và Hirst, 1995), Nam Mỹ (Álvarez và ctv., 1998; Robertson và ctv., 1998) và Mexico (Vandenberghe và ctv., 1999). Trong nghiên cứu này, tất cả các chủng khảo sát đều là vi khuẩn phát sáng. Tuy nhiên, cả 3 chủng cho thấy có độc lực khác nhau đối với tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Điều này có thể kết luận rằng không phải tất cả các loài vi khuẩn phát sáng đều có độc lực cao. Theo Ruwandeepika ctv. (2011), V. harveyi 11226 được cho là có độc lực rất thấp ở Artemia và kể cả V. harveyi BB120 cũng có độc lực rất thấp. Tuy nhiên qua nghiên cứu này cho thấy V. harveyi 11226 vẫn có độc lực cao đối với tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Trái lại, V. harveyi BB120 vừa độc lực thấp trên tôm sú lẫn Artemia (Defoirdt và ctv., 2005). Điều này cho thấy mức độ mẫn cảm của Vibrio cũng tùy thuộc vào vật chủ. Trong nghiên cứu này, hiện tượng đục cơ tại chỗ tiêm được ghi nhận đối với tôm sắp chết. Tuy nhiên đối với tôm sống sót lại thấy hiện tượng melanine hóa. Hiện tượng này cũng đã được ghi nhận bởi nhóm tác giả Sarathi và ctv. (2007). Nhóm tác giả này quan sát thấy hiện tượng huy động các tế bào máu và melanine hóa tại nơi tiêm tôm Fenneropenaeus indicus với Vibrio alginolyticus. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ tôm chết tập trung ở 9-24 giờ sau khi gây nhiễm. Điều này cũng tương tự như quan sát của Nash và ctv. (1992). Nhóm tác giả này cũng kết luận rằng liều tiêm tùy thuộc vào độc lực vi khuẩn, loài tôm, cỡ tôm thí nghiệm. Lê Hồng Phước và ctv. (2008) ghi nhận tôm chết trong khoảng 6-12 giờ sau khi tiêm tôm thẻ chân trắng với V. campbellii liều 107 CFU tôm-1. V. KẾT LUẬN Không phải các loài Vibrio phát sáng đều có độc lực cao đối với tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Trong số các loài Vibrio được kiểm tra thì V. campbellii (LMG21363) có độc lực cao nhất đối với tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Tỷ lệ chết 96% được ghi nhận trong khoảng 12 giờ sau khi tiêm khi gây nhiễm tôm sú liều 107 CFU tôm-1. V. harveyi BB120 có độc lực thấp nhất trong số các loài vi khuẩn kiểm tra. Loài vi khuẩn này 90 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 chỉ gây chết tôm nuôi ở liều gây nhiễm cho tôm 107 CFU hoặc cao hơn. Các loài vi khuẩn kiểm tra như trên đều cho thấy độc lực tương đồng trên tôm sú và tôm thẻ chân trắng. LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu này được thực hiện với nguồn kinh phí từ Quỹ Phát Triễn Khoa Học & Công Nghệ Quốc Gia NAFOSTED (National Foundation for Science and Technology Development). Nhóm tác giả chân thành cám ơn Quỹ đã tài trợ cho chương trình nghiên cứu. Cám ơn GS.TS. Peter Bossier đã có nhiều góp ý cho nghiên cứu này TÀI LIỆU THAM KHẢO Alapide-Tendencia, E.V. and Dureza, L.A., 1997. Isolation of Vibrio spp. from Penaeus monodon (Fabricius) with red disease syndrome. Aquaculture, 154, p.107-14. Álvarez, J.D., Austin, B., Álvarez, A.M. and Reyes, H., 1998. Vibrio harveyi: a pathogen of penaeid shrimps and fish in Venezuela. J Fish Dis, 21, p.313-16. Bell, T.A. and Lightner, D.V., 1988. A handbook of normal penaeid shrimp histology. The World Aquaculture Society, Baton Rouge. De la Peña, L.D., Nakai, T. and Muroga, K., 1995. Dynamics of Vibrio sp. in organs of orally infected Kuruma prawn, Penaeus japonicus. Fish Pathol, 30(1), p.39-45. Defoirdt, T., Bossier, P., Sorgeloos, P. and Verstraete, W., 2005. The impact of mutations in the quorum sensing systems of Aeromonas hydrophila, Vibrio anguillarum and Vibrio harveyi on their virulence towards gnotobiotically cultured Artemia franciscana. Environ Microbiol, 7 (8), p.1239-47. Gómez-Gil, B., Herrera-Vega, M.A., Abreu-Grobois, F.A. and Roque, A., 1998b. Bioencapsulation of two different Vibrio species in nauplii of the brine shrimp (Artemia franciscana). Appl Environ Microbiol, 64, p.2318-22. Hameed, A.S.S., 1995. Susceptibility of three Penaeus species to a Vibrio campbelli-like bacterium. J World Aquacult Soc, 26(3), p.315-19. Karunasagar, I., Pai, R., Malathi, G.R. and Karunasagar, I., 1994. Mass mortality of Penaeus monodon larvae due to antibiotic-resistant Vibrio harveyi infection. Aquaculture, 128, p.203-09. Lavilla-Pitogo, C.R.M., Baticados, C.L., Cruz Lacierda, E.R. and de La Peña, L.D., 1990. Occurrence of luminous bacterial disease of Penaeus monodon larvae in the Philippines. Aquaculture, 91, p.1-13. Lavilla-Pitogo, C.R., Leaño, E.M. and Paner, M.G., 1998. Mortalities of pond-cultured juvenile shrimp, Penaeus monodon, associated with dominance of luminescent vibrios in the rearing environment. Aquaculture, 164, p.337-49. Leaño, E.M., Lavilla-Pitogo, C.R. and Paner, M.G., 1998. Bacterial flora in the hepatopancreas of pond-reared Penaeus monodon juveniles with luminous vibriosis. Aquaculture, 164, p.367-74. Lightner, D.V. and Lewis, D.H., 1975. A septic bacterial disease syndrome of penaeid shrimp. Mar Fish Rev, 37, p.25-28. Lightner, D.V., 1996. A Handbook of Pathology and Diagnostic Procedures for Diseases of Penaeid Shrimp. World Aquaculture Society, Baton Rouge. Nash, G., Nithimathachoke, C., Tungmandi, C., Arkarjarmorin, A., Prathampipat, P. and Ruamthaveesub, P., 1992. Vibriosis and its control in pond-reared Penaeus monodon in Thailand. In: Shariff, I.M., Subasinghe, R.P., Arthur, J.R. (Eds.), Diseases in Asian Aquaculture, Fish Health Section, Asian Fisheries Society, Manila, The Phillippines. p. 143-155. Phuoc, L.H., Corteel, M., Nauwynck, H.J., Pensaert, M.B., Alday-Sanz, V., van den Broeck, W., Sorgeloos, P. and Bossier, P., 2008. Increased susceptibility of white spot syndrome virus- infected Penaeus vannamei to Vibrio campbellii. J Environ Microbiol, 10(10), 2718-27. Pizarro, F. and Alfaro, J., 1994. Reproductive performance of Penaeus stylirostris females injected with heat-killed Vibrio alginolyticus. J World Aquacult Soc, 25, p.576-78. 91TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Pizzutto, M. and Hirst, R.G.,1995. Classification of isolates of Vibrio harveyi virulent to Penaeus monodon larvae by protein profile analysis and M13 DNA fingerprinting. Dis Aquat Org 21, p.61- 68. Pfaffl, M.W., 2001. A new mathematical model for relative quantification in real-time RT-PCR. Nucleic Acids Res 29, p.2002-07. Prayitno, S.B. and Latchford, J.W., 1995. Experimental infection of crustaceans with luminous bacteria related to Photobacterium and Vibrio. Effect of salinity and pH on infectiosity. Aquaculture, 132, p.105-112. Primavera, J.H., 1997. Socio-economic impacts of shrimp culture. Aquacult Res, 28, p.815-27. Ruwandeepika, H.A., Defoirdt, T., Bhowmick, P.P., Karunasagar, I., Karunasagar, I., Bossier P., 2011. In vitro and in vivo expression of virulence genes in Vibrio isolates belonging to the Harveyi clade in relation to their virulence towards gnotobiotic brine shrimp (Artemia franciscana). J Environ Microbiol, 13(2), p.506-17. Robertson, P.A.W., Calderon, J., Carrera, L., Stark, J.R., Zherdmant, M. and Austin, B., 1998. Experimental Vibrio harveyi infections in Penaeus vannamei larvae. Dis Aquat Org, 32, p.151-155. Roque, A., Turnbull, J.F., Escalante, G. and Gomez- Gil, B., 1998. Development of a bath challenge for the marine shrimp Penaeus vannamei Boone, 1931. Aquaculture, 169, p. 283-90. Sarathi, M., Ishaq Ahmed, V.P., Venkatesan, C., Balasubramanian, G., Prabhi anhavathy, J. and Sahul Hameed, A.S., 2007. Comparative study on immune response of Fenneropenaeus indicus to Vibrio alginolyticus and white spot syndrome virus. Aquaculture, 271, p.8-20. Saulnier, D., Haffner, P., Goarant, C., Levy, P. and Ansquer, D., 2000. Experimental infection models for shrimp vibriosis studies: a review. Aquaculture, 191, p.133-144. Selvin, J.L. and Lipton, A.P., 2003. Vibrio alginolyticus associated with white spot disease of Penaeus monodon. Dis Aquat Org, 57, p.147-150. Soto-Rodríguez, S.A., Simoes, N., Roque, A. and Gómez Gil, B., 2006. Pathogenicity and colonization of Litopenaeus vannamei larvae by luminescent vibrios. Aquaculture, 258, p.109-15. Tsukamoto, K.K., Oyaizu, H., Nanba, K. and Simidu, U., 1993. Phylogenic relationship of marine bacteria, mainly members of the family Vibrionaceae, determined on the basis of 16S rRNA sequences. Int J Syst Bacteriol, 43, p.8-19. Vandenberghe, J., Verdonck, L., Robles Arozarena, R., Rivera, G., Bolland, A., Balladares, M., Gómez- Gil, B., Calderón, J., Sorgeloos, P. and Swings, J., 1999. Vibrios associated with Litopenaeus vannamei larvae, postlarvae, broodstock, and hatchery probionts. Appl Environ Microbiol, 65, p. 2592-97. Wang, F.I. and Chen, J.C., 2006. The immune response of tiger shrimp Penaeus monodon and its susceptibility to Photobacterium damselae subsp. damselae under temperature stress. Aquaculture, 258, p.34-41. 92 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 VIRULENCE OF VIBRIO STRAINS TO Penaeus monodon AND Penaeus vannamei SHRIMP Le Hong Phuoc1, Nguyen Thi Hien1, Vo Hong Phuong1, Nguyen Pham Hoang Huy1, Ngo Thi Bich Phuong1, Nguyen Trung Hieu1 ABSTRACT This study was conducted to test the virulence of Vibrio campbellii (LMG21363), V. harveyi (BB120) and V. harveyi (LMG11226) to specific pathogen free Penaeus monodon and P. vannamei shrimp. Juvenile shrimp were injection challenged with 5 x 105, 106, 5 x 106, 107, 5 x 107 , 108 or 5 x 108 CFU shrimp-1 of Vibrio strains. Control receiving blank inoculum was included. High mortal- ity was observed when injecting shrimp with V. campbellii (LMG21363) compared to that of two other Vibrio strains. Cumulative shrimp mortality after injection with 107 CFU of V. campbellii (LMG21363) was significantly higher than that in shrimp injected with the same dose of V. harveyi (LMG11226) and V. harveyi (BB120) (p < 0.05). Ninety six percent mortality was obtained at 12 hours post injection (hpi) with 107 CFU shrimp-1 of V. campbellii (LMG21363) while 30% and 4% mortality was observed in treatment with V. harveyi (LMG11226) and V. harveyi (BB120), respec- tively. Three bacterial strains showed the same virulence trend to P. monodon and P. vannamei. Keywords: Penaeus monodon, Penaeus vannamei, virulence, Vibrio Người phản biện: TS. Đinh Thị Thủy Ngày nhận bài: 5/9/2013 Ngày thông qua phản biện: 20/9/2013 Ngày duyệt đăng: 15/10/2013 1 Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment & Epidemic, Research Institute for Aquaculture No.2. Email: lehongphuoc@yahoo.com
File đính kèm:
- doc_luc_cua_cac_chung_vibrio_doi_voi_tom_su_va_tom_the_chan.pdf