Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại

Biện pháp tu từ ẩn dụ góp phần giúp nhà văn khai thác khả năng biểu

hiện của ngôn từ nghệ thuật, thể hiện những khả năng độc đáo trong cách sử dụng ngôn

ngữ, đặc biệt là trong tổ chức ngữ nghĩa của các định ngữ nghệ thuật. Bài viết khảo sát

205 câu văn có vận dụng phép tu từ ẩn dụ trong các định ngữ nghệ thuật, với phương

pháp phân tích, miêu tả và một số thủ pháp trong nghiên cứu ngôn ngữ học như: thống

kê - phân loại, phân tích ngữ nghĩa, thay thế, lược bỏ Kết quả khảo sát cho thấy,

phép ẩn dụ tu từ, đặc biệt là ẩn dụ bổ sung, là một phương thức tạo nên giá trị nghệ

thuật cho các định ngữ. Các định ngữ nghệ thuật đó có cấu tạo đa dạng và phong phú,

được phân bố ở hầu hết các thành phần câu. Đồng thời, chúng đã thực hiện tốt chức

năng biểu cảm, chức năng miêu tả và làm đẹp cho câu văn trong các tác phẩm. Nhà

văn có thể thể hiện cảm nhận đa chiều về đời sống, cách quan sát và miêu tả cuộc sống

theo cách riêng, độc đáo của mình. Đây là cơ sở để làm nên phong cách ngôn ngữ tác

giả của các nhà văn.

Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trang 1

Trang 1

Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trang 2

Trang 2

Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trang 3

Trang 3

Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trang 4

Trang 4

Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trang 5

Trang 5

Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trang 6

Trang 6

Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trang 7

Trang 7

Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trang 8

Trang 8

Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 10240
Bạn đang xem tài liệu "Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại

Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại
T. T. M. Hạnh / Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại 
 32 
ĐỊNH NGỮ NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG PHÉP TU TỪ ẨN DỤ 
TRONG CÁC TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 
Trần Thị Mỹ Hạnh 
Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh 
Ngày nhận bài 12/10/2020 ngày nhận đăng 24/12/2020 
Tóm tắt: Biện pháp tu từ ẩn dụ góp phần giúp nhà văn khai thác khả năng biểu 
hiện của ngôn từ nghệ thuật, thể hiện những khả năng độc đáo trong cách sử dụng ngôn 
ngữ, đặc biệt là trong tổ chức ngữ nghĩa của các định ngữ nghệ thuật. Bài viết khảo sát 
205 câu văn có vận dụng phép tu từ ẩn dụ trong các định ngữ nghệ thuật, với phương 
pháp phân tích, miêu tả và một số thủ pháp trong nghiên cứu ngôn ngữ học như: thống 
kê - phân loại, phân tích ngữ nghĩa, thay thế, lược bỏ Kết quả khảo sát cho thấy, 
phép ẩn dụ tu từ, đặc biệt là ẩn dụ bổ sung, là một phương thức tạo nên giá trị nghệ 
thuật cho các định ngữ. Các định ngữ nghệ thuật đó có cấu tạo đa dạng và phong phú, 
được phân bố ở hầu hết các thành phần câu. Đồng thời, chúng đã thực hiện tốt chức 
năng biểu cảm, chức năng miêu tả và làm đẹp cho câu văn trong các tác phẩm. Nhà 
văn có thể thể hiện cảm nhận đa chiều về đời sống, cách quan sát và miêu tả cuộc sống 
theo cách riêng, độc đáo của mình. Đây là cơ sở để làm nên phong cách ngôn ngữ tác 
giả của các nhà văn. 
Từ khóa: Định ngữ; định ngữ nghệ thuật; phép tu từ ẩn dụ; tác giả. 
1. Đặt vấn đề 
Nghiên cứu định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong văn xuôi Việt 
Nam hiện đại là một vấn đề mới mẻ. Tuy là một vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn 
nhưng cho tới nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lí thuyết 
cũng như ứng dụng. Vì thế, trước hết, chúng tôi xin làm rõ những khái niệm và vấn đề có 
liên quan. 
1.1. Khái niệm định ngữ và định ngữ nghệ thuật 
Về khái niệm “định ngữ” và “định ngữ nghệ thuật” (ĐNNT), cho tới nay, đã có 
nhiều cách xác định hai khái niệm này trong giới nghiên cứu ngôn ngữ học. Các tác giả 
Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp coi định ngữ là “một loại thành phần phụ có thể 
đứng trước nòng cốt câu hoặc chen vào giữa chủ ngữ và vị ngữ, có nhiệm vụ biểu thị 
những ý nghĩa hạn định về tình thái hoặc cách thức cho sự tình được nêu trong câu” 
(Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp, 2004, tr. 304). Ví dụ: - Đột nhiên, Hộ nảy ra ý 
định muốn lại gần Từ, nhìn kĩ xem mặt Từ lúc bấy giờ ra sao (Nam Cao); - Bỗng đùng 
một cái, tôi nghe tin anh chết (Nam Cao); - Vậy thì hắn đích thực là một con người hay 
lật lọng (Nam Cao). Các định ngữ, theo quan niệm của hai tác giả, có thể dễ dàng thay 
đổi vị trí mà không làm thay đổi hay mất đi ý nghĩa của toàn bộ câu văn. 
Khác với quan niệm của hai tác giả trên, đa số các nhà nghiên cứu Việt ngữ đều 
coi định ngữ là thành phần phụ đứng sau danh từ. Theo tác giả M. B. Emeneau (1951) 
trong ngữ danh từ tiếng Việt, định ngữ là thành phần đứng sau danh từ trung tâm 
(DTTT). Cùng quan điểm này, tác giả Diệp Quang Ban coi “định ngữ là thành phần phụ 
Email: hanhtranthimy@ncehcm.edu.vn 
Trường Đại học Vinh Tạp chí khoa học, Tập 49 - Số 4B/2020, tr. 32-40 
 33 
của từ đi kèm danh từ và nêu lên những đặc trưng của vật do danh từ ấy biểu thị” 
(Nguyễn Văn Tu, 1978, tr. 90). Các tác giả Hoàng Dũng, Nguyễn Thị Ly Kha coi định 
ngữ là thành tố phụ đứng sau danh từ trung tâm và phân chúng thành hai loại định ngữ: 
“định ngữ hạn định (restrictive adjunct) có tác dụng thu hẹp ngoại diên của khái niệm do 
danh từ trung tâm biểu thị và định ngữ trang trí (epitheton ornantium) chỉ sự thông báo 
thêm một phẩm chất bổ sung của đối tượng biểu thị” (Hoàng Dũng, Nguyễn Thị Ly Kha, 
2007, tr. 1). 
“Định ngữ nghệ thuật” được xem xét trên cơ sở quan niệm coi định ngữ là thành 
phần phụ của cụm danh từ và là phương tiện giúp nhà văn thể hiện dụng ý nghệ thuật của 
mình. Định ngữ nghệ thuật là một phương tiện hữu hiệu để xây dựng hình tượng nghệ 
thuật trong ngôn ngữ văn chương và thực tế nó đã được sử dụng một cách khá phổ biến 
trong các văn bản nghệ thuật ngôn từ nhờ khả năng biểu đạt của nó. A. N. Veclovxki cho 
rằng: “Lịch sử của định ngữ nghệ thuật là lịch sử của phong cách thi ca dưới dạng rút 
gọn” (Nguyễn Văn Tu, 1978, tr. 171). 
Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, không phải lúc nào định ngữ trong câu 
cũng trở thành định ngữ nghệ thuật. Chỉ khi nó là “một phương thức chuyển nghĩa, 
trong đó, một từ (hoặc một cụm từ) đóng vai trò phụ nghĩa cho một từ (hoặc một cụm 
từ) khác nhằm làm nổi bật một đặc điểm nào đó của đối tượng để tạo nên ấn tượng 
thẩm mỹ” mới trở thành định ngữ nghệ thuật (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc 
Phi, 2004, tr. 119). 
ĐNNT trong quan niệm này có điểm tương đồng với khái niệm định ngữ trang trí 
mà tác giả Hoàng Dũng, Nguyễn Thị Ly Kha “chỉ sự thông báo thêm một phẩm chất bổ 
sung của đối tượng biểu thị” (Hoàng Dũng, Nguyễn Thị Ly Kha, 2007, tr. 1). Sử dụng 
ĐNNT “mang lại một ý nghĩa mới cho sự vật, hiện tượng, không chỉ ý nghĩa vốn có mà 
còn là ý nghĩa có thể có, tạo cảm xúc cho người đọc, người nghe” (Lê Bá Hán và cs., 
2004, tr. 120). Tựu trung, có thể hiểu, định ngữ hay ĐNNT đều nằm trong cấu trúc của 
một đơn vị thông báo; trong đó, định ngữ là thành phần phụ sau của cụm danh từ, có 
chức năng miêu tả, làm rõ hơn về ý nghĩa cho danh từ; định ngữ nghệ thuật là loại định 
ngữ không chỉ miêu tả, làm rõ hơn về ý nghĩa cho danh từ mà còn tạo ra thông tin tình 
thái và thẩm mỹ. 
1.2. Khái niệm phép tu từ ẩn dụ 
Trong nghiên cứu ngôn ngữ văn chương, ẩn dụ được coi là cách thức chuyển đổi 
tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa sự vật có sự tương đồng hay giống nhau. Tác giả 
Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Ẩn dụ là cách gọi tên sự vật hiện tượng bằng tên gọi của một sự 
vật hiện tượng khác, giữa chúng có mối quan hệ tương đồng” (Đỗ Hữu Châu, 1962, tr. 
54). Tác giả Nguyễn Đức Tồn gọi bản chất của phép ẩn dụ là “phép thay thế tên gọi hoặc 
chuyển đặc điểm thuộc tính của sự vật này sang sự vậ ... h thành trên cơ sở tính không đồng loại giữa hai khái niệm: một 
khái niệm trừu tượng và một khái niệm cụ thể, những khái niệm trừu tượng đã chuyển 
nghĩa từ trường nghĩa vật chất sang trường nghĩa tinh thần. 
Kết quả khảo sát cho thấy, số lượng các ẩn dụ tượng trưng được sử dụng không 
nhiều trong các ĐNNT, chỉ có 11 trường hợp, chiếm 5,4%. Chẳng hạn: sự ngất lịm thô 
rắn, những tiên cảm đau đớn, sự ngu ngốc tàn bạo của tôi, niềm đau êm dịu, một tình 
thương trầm mặc, buồn bã và không lời, một nỗi tiếc nuối cay đắng 
Ản dụ tượng trưng trong các ĐNNT đưa đến cho người đọc những cảm xúc, nhận 
thức bất ngờ về thế giới tâm hồn, thế giới tâm linh. Các cung bậc cảm xúc của con người 
rất phức tạp nhưng vô hình và khó gọi tên. Nhờ ẩn dụ tượng trưng, thế giới cảm xúc hiện 
ra thật rõ ràng, cụ thể. Ví dụ: 
(5) Thế nhưng tuyệt nhiên không phải là sự ngất lịm thô rắn, nặng nề như khi 
trúng đạn bị thương hoặc khi mê man bất tỉnh vì sốt cao. 
(Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh) 
Cảm giác lúc một sự kiện đột ngột, đau đớn xảy ra khiến cho mọi giác quan của 
con người như ngừng hoạt động, kết hợp với thô rắn, nặng nề đem đến cho người đọc 
cảm nhận trọn vẹn về cảm xúc. Đó không chỉ là cảm giác đột ngột mà còn có cả sự ngột 
ngạt, khó chịu, bức bối trong cảm xúc của con người trước một sự kiện bất ngờ nào đó. 
Sự ngất lịm (bất ngờ, đau đớn) dường như có thể cầm nắm được, sờ được, cảm nhận 
được ngay lập tức ở người chiến sĩ được miêu tả trong văn. 
T. T. M. Hạnh / Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại 
 36 
(6) Chẳng hiểu sao cậu cảm thấy một nỗi tiếc nuối cay đắng, cảm thấy cái việc 
phải rời đây ra về là nặng nề quá sức mình. 
(Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh) 
Cảm giác tiếc nuối được cụ thể hóa bằng một cảm xúc cay đắng, đó là sự tiếc 
nuối âm ỉ, dai dẳng và đầy sự dằn vặt. Sự kết hợp giữa ĐNNT chỉ cảm xúc (cay đắng) 
với DTTT chỉ một khái niệm trừu tượng (nỗi tiếc nuối) giúp cho người đọc có thể cảm 
nhận được bằng sự trải nghiệm về cảm xúc của chính mình dòng tâm trạng, cảm xúc nuối 
tiếc day dứt được nhà văn miêu tả trong câu văn. 
d. Biến thể của phép tu từ ẩn dụ 
Thông thường, biến thể của tu từ ẩn dụ bao gồm hai nhóm: nhân hóa và vật hóa. 
Tuy nhiên, trong khảo sát của chúng tôi, nhóm biến thể vật hóa không xuất hiện. Nhóm 
biến thể nhân hóa trong ĐNNT được dùng 15 lượt, chiếm tỉ lệ 7,3% trong số các ĐNNT 
có sử dụng phép tu từ ẩn dụ. 
Nhân hóa là gán cho những đối tượng vốn không phải là con người những thuộc 
tính của con người, được hình thành trên cơ sở những liên tưởng những nét giống nhau 
giữa đối tượng được nói đến và con người. Sự liên tưởng này là hoàn toàn chủ quan 
nhưng cần phù hợp với tâm lí và thói quen sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng. Chẳng hạn: 
những cái giếng sâu nước ặc lên như vừa rót dầu sôi vào, tất cả bấy nhiêu cái luồng 
giận dữ của một con thác, làn nước ghen oán, cơn đau xé ruột xé lòng Ví dụ: 
(7) Mỗi một kì đánh ghen, nước các vùng lại đổ về như thác và dâng cao mãi lên; 
đỉnh non Tản, muốn cho khỏi ngụp lặn dưới làn nước ghen oán, lại có dịp để ngoi lên 
cao thêm nữa thêm mãi. 
(Trên đỉnh non Tản - Nguyễn Tuân) 
Sông nước bao đời nay luôn trôi chảy theo quy luật tự nhiên, của thời tiết. Thế 
nhưng, bằng hình thức nhân hóa, bằng ĐNNT miêu tả cảm xúc của con người (ghen 
oán), làn nước trong miêu tả của nhà văn trở thành có cảm xúc, có linh hồn. Người đọc 
có thể hình dung được sự khủng khiếp và khốc liệt của dòng sông bởi cái ghen của con 
người luôn dữ dội và khó lường. Những biểu hiện thất thường của thời tiết, cơn lũ trên 
dòng sông trở thành phương tiện đánh ghen của những thế lực siêu nhiên trong vũ trụ. 
(8) Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết; yêu ngọn cỏ gió đùa, mây trôi lãng đãng 
() yêu con bướm đa tình bay lượn trên giàn hoa thiên lý, cái áo nhung xanh nổi bật lên 
trong vườn quýt đỏ, cam vàng, trông mới lại càng yêu những giọt mưa bé tỉ ti đọng lại 
trên nhung mướt làm cho người đẹp óng a óng ánh như thiên thần trong mộng. 
(Thương nhớ mười hai - Vũ Bằng) 
Đa tình là từ để chỉ tính cách của những con người dễ nảy sinh tình cảm yêu 
đương với người khác giới. Trong ví dụ (8) ĐNNT đa tình kết hợp với DTTT là con 
bướm khiến cho nó như mang tính cách của một chàng trai trăng hoa, cuồng nhiệt trong 
tình yêu. Cách kết hợp này dựa trên sự tương đồng của con người đa tình với những con 
bướm luôn bay lượn, đùa vui trên những bông hoa trong vườn xuân. 
Tìm hiểu các ĐNNT có sử dụng phép ẩn dụ tu từ, chúng ta có thể thống kê tần số 
xuất hiện của chúng bằng bảng sau: 
Trường Đại học Vinh Tạp chí khoa học, Tập 49 - Số 4B/2020, tr. 32-40 
 37 
Bảng 1: Bảng thống kê các ĐNNT sử dụng phép ẩn dụ tu từ 
 Ẩn dụ 
hình tượng 
Ẩn dụ 
bổ sung 
Ẩn dụ 
tượng trưng 
Biến thế 
ẩn dụ 
Số lượng 17 162 11 15 
Tổng 8,3% 79% 5,4 7,3 
Kết quả thống kê cho thấy, ĐNNT có phép ẩn dụ bổ sung được sử dụng nhiều 
nhất trong số các trường hợp có sử dụng phép ẩn dụ. Có được tỉ lệ này là nhờ phép ẩn dụ 
bổ sung đã đem đến một cách nhìn, cách tiếp cận bất ngờ và thú vị cho sự vật được nêu ở 
DTTT. Nó thể hiện cách nhìn, cách cảm nhận về thế giới rất riêng của nhà văn. Các phép 
ẩn dụ khác: ẩn dụ hình tượng, ẩn dụ tượng trưng, biến thể ẩn dụ (nhân hóa) có tỉ lệ xuất 
hiện trong ĐNNT tương đối thấp do các phép tu từ này phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ 
thơ hơn là ngôn ngữ văn xuôi, đặc biệt là trong khuôn khổ của một thành phần phụ trong 
câu: định ngữ nghệ thuật. 
2.2. Chức năng các định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ 
Trước khi bàn đến chức năng của ĐNNT, cần làm rõ chức năng của định ngữ 
trong câu văn cũng như trong cụm danh từ được nói đến. Theo nhóm tác giả sách Từ điển 
giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (Nguyễn Như Ý và cs., 1996) định ngữ “có chức năng 
bổ sung thêm cho thành phần chính bằng quan hệ phụ thuộc, chỉ ra các thuộc tính, tính 
chất của người, vật, sự vật, hiện tượng do danh từ làm thành phần chính gọi tên”. 
Với ĐNNT, bên cạnh vai trò phụ nghĩa cho một từ, các định ngữ còn phải thực 
hiện chức năng “làm nổi bật một đặc điểm nào đó” của đối tượng để “tạo nên ấn tượng 
thẩm mỹ” (Hoàng Dũng, Nguyễn Thị Ly Kha, 2007). Có nghĩa là, chức năng quan trọng 
của ĐNNT là phải hướng đến, khơi gợi được ở người đọc cảm xúc và hướng người đọc 
đến tính thẩm mỹ của văn học. 
Có thể thấy, chức năng đầu tiên của các ĐNNT có phép tu từ ẩn dụ là góp phần 
tăng giá trị biểu cảm cho câu văn. Nhờ phép tu từ ẩn dụ, các áng văn trở nên mượt mà, 
sống động và đầy sức hấp dẫn người đọc. Không chỉ làm đẹp câu văn, ĐNNT sử dụng 
phép tu từ ẩn dụ còn miêu tả các đối tượng từ nhiều góc độ, nhiều dáng vẻ khác nhau, 
khắc họa một cách rõ nét, sinh động. Khi so sánh hai câu văn, giá trị của ĐNNT được thể 
hiện một cách rõ nét nhất: 
(9) Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa 
rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tung rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với 
đàn trâu da cháy bùng bùng. 
(Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân) 
Âm thanh của con thác không phải là thứ thanh âm bình thường của nước. Người 
đọc có thể nghe được những tiếng gào thét dữ dội, có thể cảm nhận được sức nóng tỏa ra, 
có thể nhìn thấy cả một khung cảnh, một không gian cuồn cuộn, đầy mối hiểm nguy từ 
âm thanh của con thác đó. Âm thanh được miêu tả từ rất nhiều góc nhìn, nhiều cách cảm 
nhận khác nhau với tầng tầng lớp lớp những hình ảnh: một ngàn con trâu mộng, rừng tre 
nứa nổ lửa, rừng lửa, da cháy bùng bùng... Các yếu tố được miêu tả như chồng lên nhau, 
bổ trợ cho nhau làm tăng tiết tấu, nhịp điệu cho câu văn. Và như vậy, không chỉ bổ sung 
thêm một khía cạnh ngữ nghĩa, ĐNNT còn thực hiện chức năng miêu tả và làm đẹp cho 
câu văn trên. 
T. T. M. Hạnh / Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại 
 38 
Người đọc thông qua các ĐNNT sử dụng phép tu từ ẩn dụ có thể cảm nhận được 
cái nhìn, sự quan sát tinh tế, độc đáo và nhạy cảm của nhà văn trong các tác phẩm. Nhờ 
vậy, các ĐNNT cũng đồng thời thực hiện chức năng, nhiệm vụ làm đẹp cho tác phẩm. 
Mỗi câu văn có sử dụng ĐNNT đều có khả năng miêu tả một cách độc đáo, nhiều chiều, 
góp phần tạo nên sự gợi cảm của ngôn ngữ, sự sinh động trong việc miêu tả hình tượng 
trong các áng văn. Các yếu tố được miêu tả trùng điệp không chỉ giúp miêu tả đối tượng 
nhiều chiều mà còn góp phần tạo nên tính nhạc, làm nên chất thơ trong các câu văn, 
khiến chúng trở nên sinh động và giàu hình ảnh. 
Cũng giống như những thói quen sử dụng từ ngữ trong sáng tác, các ĐNNT có 
phép ẩn dụ cũng là nơi góp phần thể hiện phong cách ngôn ngữ của các tác giả. Đó là cái 
nhìn của nhà văn về thế giới khách quan, cách cảm nhận và quan sát những hiện tượng 
xung quanh mỗi người. 
Với Nguyễn Tuân, bậc thầy của ngôn từ, sự xuất hiện của các ĐNNT chính là 
phương tiện giúp ông biểu đạt những cảm nhận phong phú và nhiều chiều về đối tượng. 
Những lối mòn trong miêu tả về sự vật, hiện tượng, con người đều không được chấp 
nhận trong văn ông. Bởi vậy, đối tượng được miêu tả của Nguyễn Tuân bao giờ cũng nổi 
bật và sinh động với những hình hài, đường nét, góc cạnh riêng không lẫn vào ai khác. 
Màu đỏ của dòng sông Đà là cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, dòng sông Đà 
được miêu tả bởi nhiều góc độ, nhiều cung bậc khác nhau: dòng thác hùm beo, làn nước 
ghen oán, cái nét hung ác của con thác này, cái luồng giận dữ của một con thác Ông 
không ngại tung ra các hình ảnh ẩn dụ trong ĐNNT để làm rõ các thuộc tính, đặc điểm 
của đối tượng mà danh từ biểu đạt. Do đó, trong các tác phẩm của ông, có không hiếm 
những câu văn được mở rộng tối đa để có thể chứa những thành phần phụ “phát triển đến 
mức đôi khi làm nhòe mờ cả phần nòng cốt của câu” (Đặng Lưu, 2005). 
Với Vũ Bằng, vạn vật, cỏ cây đều mang linh hồn, đều đồng điệu với tâm hồn 
người lữ khách xa quê: một gốc đèn rầu rĩ, mây lưu lạc, một cái giường mệt nhọc, chân 
trời tẻ ngắt, gió vàng heo hút Đó là tiếng lòng của một người lữ thứ, nhìn đâu cũng 
đau đáu nỗi nhớ quê nhà, nhớ người thương. 
3. Kết luận 
“Định ngữ nghệ thuật là kết quả sự phát hiện của nhà văn” (Lê Bá Hán, Trần 
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, 2004, tr. 120). Bằng ĐNNT, người viết đã đem đến cho độc 
giả những nhận thức mới mẻ về đối tượng, đó là kết quả của một cách nhìn, một cách 
cảm nhận, một lối liên tưởng độc đáo và khác lạ. 
Tìm hiểu các ĐNNT sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt 
Nam hiện đại, chúng tôi có một số nhận xét sau: Thứ nhất, phép ẩn dụ tu từ là một 
phương thức tạo nên giá trị nghệ thuật cho các định ngữ, đặc biệt là ẩn dụ bổ sung. Thứ 
hai, các ĐNNT sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm có cấu tạo đa dạng và phong 
phú, được phân bố ở hầu hết các thành phần câu. Thứ ba, các ĐNNT sử dụng phép tu từ 
ẩn dụ đã thực hiện tốt chức năng biểu cảm, chức năng miêu tả và làm đẹp cho câu văn 
trong các tác phẩm. Đây là nơi để nhà văn khắc họa muôn mặt, cảm nhận đa chiều về đời 
sống, là nơi thể hiện cách quan sát và miêu tả cuộc sống theo cách riêng, độc đáo của 
mình. Đây là cơ sở để làm nên phong cách ngôn ngữ tác giả của các nhà văn. 
Trường Đại học Vinh Tạp chí khoa học, Tập 49 - Số 4B/2020, tr. 32-40 
 39 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Phan Mậu Cảnh (2000). Lí thuyết thực hành văn bản tiếng Việt. NXB Đại học Quốc gia 
Hà Nội 
Đỗ Hữu Châu (1962). Giáo trình Việt ngữ. Hà Nội: NXB Giáo dục. 
Hoàng Dũng, Nguyễn Thị Ly Kha (2007). Về các thành tố phụ sau trung tâm trong danh 
ngữ tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ (4), tr. 24-34 
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (2004). Từ điển thuật ngữ văn học. 
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Trần Thị Mỹ Hạnh (2016). Định ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của các nhà văn Tự 
Lực văn đoàn. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, Số 6/2016, tr. 83-91. 
Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (1993). Phong cách học tiếng Việt. Hà 
Nội: NXB Giáo dục. 
Đặng Lưu (2005). Định ngữ nghệ thuật trong ngôn ngữ trần thuật của Nguyễn Tuân. 
Ngôn ngữ và Đời sống, Số 11 (201), tr. 15-18. 
Nguyễn Thị Nhung (2008). Định tố tính từ trong tiếng Việt. Luận án Tiến sĩ. 
Emeneau, M.B (1951). Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar. Berkeley & Los 
Angeles: University of CA. 
Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Nguyễn Văn Hiệp (2004). Thành phần câu tiếng Việt. 
NXB Giáo dục. 
Nguyễn Đức Tồn (2007). Bản chất của ẩn dụ. Tạp chí Ngôn ngữ (11). 
Nguyễn Văn Tu (1978). Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại. NXB Đại học và Giáo dục 
chuyên nghiệp. 
Trần Đình Sử (1998). Giáo trình dẫn luận thi pháp học. NXB Giáo dục. 
Nguyễn Như Ý (chủ biên), Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lệ (1996). Từ 
điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học. NXB Giáo dục. 
T. T. M. Hạnh / Định ngữ nghệ thuật sử dụng phép tu từ ẩn dụ trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại 
 40 
SUMMARY 
ARTISTIC ATTRIBUTES USING METAPHORS 
IN VIETNAM’S MODERN PROSE 
Tran Thi My Hanh 
Ho Chi Minh City National College of Education 
Received on 12/10/2020, accepted for publication on 24/12/2020 
Metaphors in literature contribute greatly to exploit the expressive ability of artistic 
words and expressing author’s writing style, especially when they are engaged in the semantic 
organization of artistic attributes. The article examines 205 sentences whose attributes consisting 
of metaphors, applying analytical, descriptive methods and a number of tactics in linguistics 
methodology such as statistics - classification, semantic analysis, replacement, omission The 
findings suggest that metaphors, especially complementary ones, greatly enrich the artistic value 
for the attributes. Those attributes have diversified and rich structures, distributed in most of 
sentence components. At the same time, they perform well the functions of emotion, description 
and aesthetic. A writer can express his multidimensional worldview in his own way, which partly 
shapes his writing style. 
Keywords: Attributes; artistic attributes; metaphor; writer. 

File đính kèm:

  • pdfdinh_ngu_nghe_thuat_su_dung_phep_tu_tu_an_du_trong_cac_tac_p.pdf