Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn

Bài báo phân tích và đánh giá các ý kiến của một số nhà văn về thực trạng, cách

thức dạy học tác phẩm văn chương và vấn đề phát huy vai trò bạn đọc sáng tạo của học

sinh trong nhà trường phổ thông. Tuy chỉ là điểm nhìn của một số nhà văn nhưng đó có

thể xem là những luận cứ khoa học khẳng định xu thế đổi mới dạy học văn theo hướng

phát triển năng lực cảm thụ văn học của học sinh.

Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn trang 1

Trang 1

Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn trang 2

Trang 2

Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn trang 3

Trang 3

Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn trang 4

Trang 4

Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn trang 5

Trang 5

Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn trang 6

Trang 6

Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 8420
Bạn đang xem tài liệu "Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn

Dạy học văn trong nhà trường từ điểm nhìn của một số nhà văn
TP CH KHOA HC − S
 5/2016 17 
DY HC VN TRONG NH TR NG T !I"M NHN 
CA M#T S% NH VN 
Bùi Minh Đức1 
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 
Tóm tắt: Bài báo phân tích và đánh giá các ý kiến của một số nhà văn về thực trạng, cách 
thức dạy học tác phẩm văn chương và vấn đề phát huy vai trò bạn đọc sáng tạo của học 
sinh trong nhà trường phổ thông. Tuy chỉ là điểm nhìn của một số nhà văn nhưng đó có 
thể xem là những luận cứ khoa học khẳng định xu thế đổi mới dạy học văn theo hướng 
phát triển năng lực cảm thụ văn học của học sinh. 
Từ khoá: nhà văn, học sinh, bạn đọc, sáng tạo, đổi mới, dạy văn, đọc hiểu. 
1. MỞ ĐẦU 
Những năm qua, vấn đề đổi mới dạy học tác phẩm văn học đang được đặt ra cấp thiết 
ở nước ta. Cách dạy và học văn theo lối cũ (giảng văn) đã không còn phù hợp với chiến 
lược giáo dục và đào tạo con người trong tình hình mới cũng như sự thay đổi hệ hình dạy 
học trên thế giới hiện nay. Xu hướng chung của dạy học văn hiện đại là dạy cho học sinh 
cách đọc văn, tạo các cơ hội để người học trở thành bạn đọc sáng tạo của các nhà văn (NV) 
qua quá trình tiếp nhận tác phẩm. Quan điểm này không chỉ được các nhà khoa học sư 
phạm ngữ văn đề xuất, luận giải mà còn sớm được khẳng định trong ý kiến của nhiều nhà 
văn, nhà thơ (sau đây gọi chung là nhà văn) - những người sáng tạo ra tác phẩm văn 
chương (TPVC). 
2. NỘI DUNG 
2.1. Dạy văn phải để học sinh được đọc văn, được nói lên những suy nghĩ, cảm 
nhận của mình về tác phẩm 
Trong một lần phát biểu trao đổi với anh chị em giáo viên (GV) về vấn đề giảng dạy 
văn học, nhà thơ Tố Hữu cho rằng không nên chỉ bắt học sinh (HS) "học thuộc lòng" mà 
1 Nhận bài ngày 10.05.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 24.05.2016 
Liên hệ tác giả: Bùi Minh Đức; Email: duckhsp@gmail.com 
18 TRNG I HC TH  H NI 
"cần phải dành phần tự do cho các em. Phải để cho các em đọc và để chúng nói lên cảm 
thụ của chúng" [1, tr. 77]. Nhà thơ Phạm Hổ cũng có suy nghĩ tương tự: "Thầy, cô dạy văn 
nên giúp các em tự cảm thụ trước rồi mới bổ sung thêm những cảm thụ của riêng mình để 
các em tham khảo. Và cuối cùng là để các em tự thu hoạch lấy" [2, tr. 166]. Dù không trực 
tiếp đề cập đến người đọc HS, nhưng những ý kiến của Hoài Thanh cũng là những gợi ý 
gián tiếp nhưng rất sâu sắc về thái độ đúng đắn với người học. Ông viết: "Người đọc có 
quyền được tôn trọng, được phát biểu ý kiến của mình về thơ, về mọi vấn đề. Người phê 
bình phải biết lắng nghe, biết thăm dò ý kiến bạn đọc" [4, tr. 1052]. Cũng theo chiều hướng 
đó, với một niềm tin vào những bạn đọc nhà trường non trẻ, nhà thơ Bằng Việt đã "mách 
nước" cho các bạn HS con đường đồng thể nghiệm, đồng sáng tạo với NV: "Khi phân tích, 
tìm hiểu một bài văn, bài thơ các em nên tự đặt mình vào vị trí của tác giả, để cùng suy 
luận, cân nhắc với tác giả. Vì sao tác giả lại viết thế này mà không viết thế kia? Nếu là 
mình thì chỗ này mình đặt câu thế nào, mình sẽ dùng chữ gì, hình ảnh gì mà không để như 
tác giả viết? Cách suy luận đó có tác dụng làm HS không thụ động, không bị tiếp nhận một 
cách khiên cưỡng, mà phát huy óc chủ động, sức sáng tạo của riêng mình... với tư duy của 
một người đồng sáng tạo, đồng tác giả"... [5, tr. 3]. Như vậy, trong suy nghĩ của những 
người sáng tác, HS không phải là một đối tượng thụ động đón nhận sự cảm thụ của GV mà 
là những chủ thể cảm thụ, bạn đọc của NV. Các ý kiến nêu trên đã toát lên một tư tưởng 
sâu sắc, có ý nghĩa sư phạm đối với việc dạy học văn trong nhà trường: GV cần phải tạo 
các cơ hội để HS được tự mình tham gia vào việc đọc văn, cảm thụ văn chương thay vì 
thầy, cô giáo đọc hộ, cảm hộ. 
Nhưng để làm được điều đó, người GV phải tôn trọng HS, phải xem các em là bạn đọc 
nhà trường của NV như chính các NV hằng mong muốn. Ngay cả khi sự cảm thụ của học 
trò chưa hoàn toàn đúng thì cũng không vì thế mà người GV đánh mất niềm tin vào tính 
cực, sáng tạo của HS bởi ít nhiều "nó cũng đem lại một sự có ích" nào đó như chính nhà 
thơ Phạm Tiến Duật đã thừa nhận: "Từ đó (tức là từ câu chuyện về cậu bạn Thịnh Cóc) tôi 
thực sự có ý thức, thoạt đầu là trong các bài tập làm văn, viết ra, nói ra cố gắng cho thật 
đúng cái cảm giác của mình" [2, tr. 173]. Thế nhưng, một thái độ như vậy không dễ định 
hình và trở thành một nguyên tắc trong dạy học của nhiều GV. Ký ức về thời đi học của tác 
giả Bài thơ về tiểu đội xe không kính vẫn còn nguyên sự ám ảnh về cái "ấm ức" của tuổi 
thơ: "hình như người lớn hay áp đặt những điều có sẵn lên bọn trẻ con chúng tôi" 
[2, tr. 173]. Người lớn chưa thực sự tin vào con trẻ cũng như người thầy giáo của nhà thơ 
"đã không thực sự cầu thị" trước cảm nhận rất tinh tế của cậu HS Thịnh Cóc trong bài văn 
miêu tả. Đây cũng là tình trạng phổ biến trong tâm lý của nhiều GV dạy văn hiện nay. Và 
đó chính là lý do để nhà văn Nguyên Ngọc quả quyết: "Một triết lý giáo dục nhằm tạo ra 
con người tự do thì cũng tất yếu đòi hỏi một phương pháp giáo dục khác... Phương pháp 
TP CH KHOA HC − S
 5/2016 19 
giáo dục này đòi hỏi trước tiên một sự tôn trọng tối đa đối với người học, coi người học 
không phải là cái bình vô cảm bị động để cho mình cứ rót kiến thức vào" [3, tr. 12]. 
2.2. HS là bạn đọc sáng tạo của NV, là người có thể đem đến cho tác phẩm 
những ý nghĩa mới mà khi viết NV chưa chắc đã nghĩ ra 
Trả lời phỏng vấn của báo Tiền phong (số 167, ngày 23/8/2005) nhân bài văn được 
điểm 10 trong kỳ thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng năm 2005, nhà văn Kim Lân khẳng 
định: "Chính bạn đọc, người đọc đã khám phá ra cho tôi nhiều hơn. Bài viết của Trang1 đã 
thêm một lần khám phá ra cái mới của tác phẩm". Kim Lân cho biết khi viết "Vợ nhặt", 
ông viết theo tình cảm, một cách tự nhiên như là sự thăng hoa của tâm hồn với một ý định: 
"trong cái đói, cái khát ấy con người ta vẫn hướng về sự sống, khát khao sự sống". Cái ý 
đồ nghệ thuật này đã bắt ông phải viết như thế và tự nhiên những chi tiết đó đã xuất hiện 
như thế, chứ "cũng không nghĩ được nhiều, được sâu như sự phân tích trong bài viết của 
Nguyễn Thị Thu Trang". Thậm chí khi đọc bài văn của em HS này, ông còn cho rằng: 
"Trang đã tìm ra sự mới mẻ hơn so với những bài của những cây đại thụ". Điều này chứng 
tỏ Kim Lân đã đọc các bài nghiên cứu, phân tích "Vợ nhặt" của một số cây bút phê bình 
văn học có uy tín để hiểu được sự sáng tạo riêng của một bạn đọc HS. Không phủ nhận 
việc Trang phải học các thầy mới viết được như thế nhưng bằng linh cảm của một NV, 
bằng thái độ tôn trọng dành cho một bạn đọc nhà trường non trẻ về tuổi đời nhưng khá "già 
dặn" trong cảm thụ, tác giả đã khẳng định: "Trang đã viết theo cảm nhận của mình chứ 
không phải viết theo lối bắt chước thầy. Đấy là sự sáng tạo". Từ trường hợp Nguyễn Thị 
Thu Trang, Kim Lân đã khái quát: "Thông thường thì bạn đọc phát hiện, mổ xẻ tác phẩm 
giúp NV chứ NV khi viết thì cũng chưa nghĩ được sâu sắc đến thế. Tôi thấy bài viết của 
cháu Trang đã nâng tầm truyện "Vợ nhặt" của tôi". 
Một vài ý kiến của nhà văn Kim Lân xoay quanh bài văn được điểm 10 đã hé mở 
nhiều điều thú vị về cảm thụ văn học nhà trường, về tính sáng tạo của độc giả HS. Đó là 
một tiền đề thực tiễn, một luận cứ khoa học đáng phải suy nghĩ về đổi mới phương pháp 
dạy học văn ở nhà trường phổ thông hiện nay. 
2.3. Trong quá trình dạy học văn, người GV nên quan tâm tới việc gợi mở và 
huy động vốn sống, kinh nghiệm thẩm mỹ riêng của HS 
Trong mỗi con người HS đều chứa đựng những tiềm năng của một bạn đọc, một chủ 
thể cảm thụ. Việc khơi gợi, đánh thức, huy động những tiềm năng ấy trong dạy học văn rất 
1 NguyễnThị Thu Trang - HS trường Quốc học Huế, người được điểm 10 môn Văn trong kỳ thi tuyển sinh 
Đại học, Cao đẳng năm 2005. 
20 TRNG I HC TH  H NI 
được các nhà văn, nhà thơ coi trọng. Trước hết là thế giới tâm hồn phong phú, trong trẻo, 
nhạy bén và rất giàu cảm xúc của lứa tuổi học trò. Nhà văn Nguyễn Minh Châu, trong Thư 
gửi thế giới cảm xúc hồn nhiên, đã viết: "Mỗi con người các em đang lưu giữ một kho báu 
mà chính các nhà văn lớn của nền văn học hiện đại trên thế giới đang đi tìm. Đó là cái khả 
năng cảm xúc hồn nhiên, nguyên sơ của tâm hồn loài người" [2, tr. 150]. Nhiệm vụ của 
người GV là phải "mở" cái "kho báu" ấy, tức là phải tìm ra câu thần chú "Vừng ơi, mở ra" 
để tâm hồn HS có thể ngân rung với nhịp điệu của thi ca, trái tim các em có thể đập cùng 
nhịp với nhân vật, với tác giả, từ đó mà "đồng cảm", mà "thanh lọc". Không chỉ những 
người làm thơ, làm văn mới giàu cảm xúc, mới rung động trước những áng thơ hay, những 
bài văn bất hủ mà "hình như tất cả các em đều trải qua một phút chấn động như thế, được 
thức tỉnh như vậy" (Chế Lan Viên). Đã từng đi qua những tháng năm học trò, đã từng 
không ít lần "chấn động" và "thức tỉnh" trước các áng văn, nhà thơ Chế Lan Viên đặc biệt 
xem trọng việc "bồi dưỡng cho các em sau khi các em được chấn động bởi tiếng vang ban 
đầu" [2, tr. 21]. Ông đề nghị anh chị em GV dạy văn: "... phải tiếp tục nuôi cho các em sự 
rung động thường xuyên" [2, tr. 21]. Bởi dạy học văn mà không có rung động thiết tha, 
không có cảm xúc, tình điệu, không có mê say, hứng thú... thì cũng chẳng thể có một sự 
cảm thụ văn học đích thực. Ý kiến của Nguyễn Minh Châu và Chế Lan Viên đã làm sáng 
tỏ hơn một trong những yêu cầu bức thiết và đặc thù của dạy học TPVC trong nhà trường: 
đó là ý thức nuôi dưỡng và phát huy con người bạn đọc trong HS. 
Cùng với cảm xúc là kinh nghiệm sống, những trải nghiệm riêng mà người đọc HS 
đang sở hữu, nhà thơ Giang Nam nhớ lại: "Vào cái tuổi lên 8, lên 9, tôi đã được các anh tôi 
cho đi theo con trâu trong gia đình, đã nhiều lần ngồi trên lưng trâu khi chúng đang gặm cỏ 
hoặc lững thững kéo về chuồng, nên khi học một bài văn ngắn về thú vui chăn trâu, tôi đã 
thả cho trí tưởng tượng của mình mặc sức bay bổng với chú bé chăn trâu trong bài" 
[2, tr. 27]. Trong trường hợp này, người học trò Nguyễn Sung (tên thật của Giang Nam) đã 
vận dụng những kinh nghiệm thực tế của bản thân vào việc học văn. Cậu đã thấy: "trong 
những trang giấy, những câu chuyện mà mình đọc có biết bao điều gần gũi với mình" và từ 
đó mạnh dạn liên hệ, thể nghiệm. Nếu vốn sống đã giúp cậu tiếp nhận bài văn một cách dễ 
dàng và hiệu quả thì trí tưởng tượng lại giúp Giang Nam mở rộng giới hạn bài học và sáng 
tạo ra những ý mới mẻ. Về sau này khi đã trở thành nhà thơ, ông mới hiểu mỗi lần học văn 
như thế là một lần xuất hiện "sự đồng cảm, sự rung động tâm hồn" ở ông - một bạn đọc 
HS. Câu chuyện nhỏ về thuở đi học của nhà thơ Giang Nam càng cho chúng ta thấy rõ một 
sự thật không thể chối bỏ: HS không đến với văn chương bằng một tâm hồn trống rỗng mà 
trái lại, các em cũng có vốn sống riêng (dù chỉ trong một chừng mực nhất định) và càng 
đáng quý hơn là các em luôn sẵn sàng cái tâm thế ứng dụng, cái khả năng thể nghiệm nó 
TP CH KHOA HC − S
 5/2016 21 
trong lúc học văn. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã kể lại câu chuyện thú vị về cậu bạn tên là 
Thịnh Cóc: thầy giáo nêu đề bài: "Em hãy tả lại khung cảnh làng em vào ban đêm trăng 
sáng và nói lên tình cảm của mình đối với quê hương". Cậu ta đã viết một bài văn trong đó 
có một câu mà khi thầy trả bài cả lớp "cười lăn cười bò": "Đi khỏi cây đa Còng một đoạn 
em đã thấy làng em. Ven làng, tiếng chó cắn như tiếng ếch kêu" [2, tr. 172]. "Cắn" ở đây 
có nghĩa là sủa - một tiếng địa phương vùng trung du Phú Thọ - nhưng câu văn vẫn rất "kỳ 
dị", bởi làm gì có loài chó nào sủa ộp ộp. Ấy thế nhưng mấy tháng sau, nhân đi xem phim 
ở xã bên về, đứng ở bên này cánh đồng, nhìn về làng và nghe tiếng chó sủa, nhà thơ Phạm 
Tiến Duật mới hiểu "Thì ra, nghe xa, tiếng chó sủa rất giống tiếng ếch kêu" [2, tr. 173], và 
như thế thì câu văn của Thịnh Cóc là có lý. Thịnh Cóc đã từ cảm nhận, trải nghiệm của 
riêng mình để viết câu văn ấy. Chỉ tiếc là thầy giáo đã không hiểu. Thầy đã phê bình cậu 
học trò này. 
Nhà thơ Tố Hữu có lần nói: "Đừng nghĩ rằng HS không biết gì cả. Có những điều các 
em cảm thụ khác với thầy. Phải khác, vì các em là thế hệ mới" [1, tr. 77]. Về điều này, nhà 
phê bình văn học Hoài Thanh cũng đã đúc kết: "Mỗi bạn đọc đều có một cuộc sống riêng, 
những điều từng trải riêng và đều xuất phát từ vốn nhận thức, vốn tình cảm riêng mà tiếp 
thu và phê phán, nên ý kiến của bạn đọc nếu được gợi lên được thì thường rất phong phú" 
[4, tr. 1052]. 
2.4. Giờ văn phải là một giờ học thật thoải mái, HS được GV hướng dẫn đọc 
văn, phát hiện những điều thú vị của văn chương, cuộc đời... và sau mỗi giờ 
học lại tiếp tục suy nghĩ, tìm tòi rồi hình thành thói quen tự học 
Mục đích của dạy học TPVC không phải là nhằm buộc HS nhớ những điều GV dạy 
mà trước hết là để cho HS say mê với tác phẩm, hứng thú đi vào cái thế giới diệu kỳ của 
nghệ thuật văn chương, để cho sự tiếp xúc của các em với tác phẩm còn đọng lại được 
những ấn tượng lâu bền, có sức thanh lọc và kích thích các em tiếp tục suy nghĩ. Nhà thơ 
J.Becher đã từng nói: "Đối với cái bí mật của thơ ca, thì phải khám phá nó theo cái kiểu 
làm sao để cái diệu kỳ ẩn trong cái bí mật ấy không bị mất đi mà trái lại, việc khám phá cái 
bí mật ấy lại càng khiến cho cái bí mật ấy tăng thêm sức quyến rũ" [1, tr. 46]. Tức là phải 
làm thế nào để sau khi nghe giảng, HS vẫn cảm thấy chưa thoả mãn, vẫn còn háo hức 
muốn đọc lại tác phẩm, vẫn còn "say sưa suy nghĩ thêm, tìm tòi và học hỏi thêm". Muốn 
vậy, "giờ giảng văn phải trở thành một giờ hấp dẫn, một giờ sôi nổi, một giờ rất hứng thú 
với HS" (Phạm Văn Đồng). Tác giả của Thi nhân Việt Nam cũng từng viết: "người nghiên 
cứu và cả người giảng dạy sẽ phạm sai lầm lớn, có thể nói là phạm tội lỗi nếu chúng ta làm 
tiêu tan hết mọi vẻ đẹp thật của văn thơ... Chớ để văn thơ biến thành gánh nặng, nhất là đối 
22 TRNG I HC TH  H NI 
với các em" [4, tr. 1038]. Tức là GV phải kiến tạo không khí văn học, sự thoải mái và hứng 
thú ở HS trong học văn. HS phải thực sự cảm thấy niềm vui thích cao nhất (cách nói của 
Mác mà Hoài Thanh đã dẫn) trong sự hưởng thụ thẩm mỹ. Về điều này, nhà thơ Giang 
Nam cũng có suy nghĩ tương tự: "làm thế nào để thấy học văn không còn là món nợ mà là 
một thú vui"... 
Thực tế đã cho thấy, việc dẫn dắt HS phát hiện cái hay, cái đẹp của thơ văn sẽ tạo nên 
trong các em niềm phấn khởi, hứng thú muốn tự mình tiếp tục đọc, tiếp tục khám phá 
những cái hay, cái đẹp khác của TPVC. Đối với những giờ học như thế, nhà văn Nguyên 
Ngọc cho là "một hạnh phúc lớn" của học trò, bởi theo sự nhìn nhận, đánh giá của ông, thì 
"suốt quá trình học là cả một cuộc đi tìm, khám phá bất tận, một cuộc phiêu lưu đầy bất 
ngờ thú vị do tự mình làm chủ, những chân lý do chính tự mình khám phá ra - cùng với và 
được sự hỗ trợ của người bạn lớn là người thầy". Dạy như thế thì không chỉ phát huy được 
vai trò chủ thể cảm thụ, bạn đọc sáng tạo ở HS mà còn tạo lập và bồi dường cho các em "ý 
chí và khả năng tự học, niềm say mê và khả năng tự khám phá thế giới", đúng với tinh thần 
của dạy học văn hiện đại: Học văn hôm nay là để sống cuộc sống mai sau. Trong bối cảnh 
của thời đại "Sống cũng là học thường xuyên, học suốt đời", "Người có học là người biết 
tự học" thì đây chính là cái quý giá nhất mà "nhà trường cho ta". 
3. KẾT LUẬN 
Tuy chỉ đứng từ góc độ của người sáng tác, nhưng bằng kinh nghiệm và sự am hiểu 
các quy luật văn học, các nhà văn, nhà thơ đã có nhiều ý kiến bổ ích đáng phải lưu tâm về 
vấn đề dạy học TPVC ở nhà trường phổ thông. Nhìn chung, quan điểm của nhiều tác giả 
văn học là không được bỏ qua, hạ thấp vai trò của HS - những bạn đọc nhà trường. Theo 
cách nhìn nhận này thì người GV giỏi không chỉ là người giảng văn hay, mà trước hết phải 
là người biết động viên, khích lệ, lôi cuốn HS vào quá trình tìm hiểu, khám phá cái hay, cái 
đẹp của áng văn, áng thơ một cách tích cực, sáng tạo. Nói cách khác, người GV Ngữ văn 
lành nghề phải là người biết "môi giới", "đệm đàn" cho người học, là người bắc nhịp cầu 
đồng cảm giữa NV và bạn đọc HS, người góp phần kiến tạo trạng thái "cộng hưởng cảm 
xúc" trong giờ học tác phẩm văn học. 
Chính ý kiến của một số NV như trên đã cung cấp thêm cho các nhà phương pháp dạy 
học Ngữ văn những luận cứ khoa học hữu ích để khẳng định tư tưởng dạy học đọc hiểu và 
hướng tới việc hình thành năng lực cảm thụ văn học sáng tạo cho HS. 
TP CH KHOA HC − S
 5/2016 23 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Duy Bình (1983), Dạy văn dạy cái hay, cái đẹp, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
2. Nhiều tác giả (2006), Hồi nhỏ các nhà văn học văn như thế nào?, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
3. Nhiều tác giả (2006), Khoa học giáo dục đi tìm diện mạo mới, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
4. Hoài Thanh toàn tập (1999), tập 2, Nxb Văn học. 
5. Tạp chí Văn học và tuổi trẻ, số tháng 1 (131) / 2007, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
6. Đỗ Ngọc Thống (2011), Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam, Nxb 
Giáo dục Việt Nam. 
7. Beach R& Marshall J (1991), Response to literature and the teaching of literature, Harcour 
Brace Janovich Publisher, Orlando, Florida. 
SOME WRITERS’ OPINIONS ON TEACHING LITERATURE 
AT SCHOOLS 
Abstract: In this article, the author presented the analysis and evaluation of some writers' 
opinions on current situations, methods of teaching literary works and solutions of 
promoting students’ creative role in schools. These opinions, which were though given by 
some writers, could be considered as scientific arguments asserting the innovation trend 
of teaching literature towards developing students’ literary reading capacity. 
Keywords: writer, student, reader, creative, innovation, teaching literature, reading 
comprehension. 

File đính kèm:

  • pdfday_hoc_van_trong_nha_truong_tu_diem_nhin_cua_mot_so_nha_van.pdf