Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy

Hệ thống lưu vực sông Nhuệ - Đáy đang chịu sự gia tăng về số lượng và lưu lượng nước

thải từ các hoạt động sản xuất, sinh hoạt. Các nguồn thải mang theo các chất hữu cơ, kim loại nặng,

vi sinh vật, tích lũy trong trầm tích và hệ sinh thái dưới nước gây ảnh hưởng đến môi trường nước

và hệ sinh thái. Trong nghiên cứu này, sự tích lũy kim loại nặng trong trầm tích tại khu vực hạ lưu

sông Đáy được đánh giá thông qua chỉ số rủi ro sinh thái tiềm năng của một số kim loại trong trầm

tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong 22 mẫu trầm tích tại khu vực hạ lưu sông Đáy đều phát

hiện sự có mặt của các kim loại Cu, Pb, Cd, Cr với hàm lượng dao động trong khoảng tương ứng là

15,8 ÷ 82,6; 13,1÷ 72,1; 0,189 ÷ 2,43; 16,1 ÷ 97,3 mg/kg trọng lượng khô. Chỉ số rủi ro sinh thái

tiềm năng của các kim loại nằm trong khoảng từ 11,4 đến 78,7 nên khu vực nghiên cứu có mức độ

rủi ro kim loại thấp. Số liệu này có thể làm rõ mức độ rủi ro tiềm năng của khu vực và là cơ sở khoa

học của các biện pháp kiểm soát và giảm thiểu các nguồn gây ô nhiễm môi trường từ các hoạt động

kinh tế xã hội của lưu vực sông Nhuệ - Đáy.

Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy trang 1

Trang 1

Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy trang 2

Trang 2

Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy trang 3

Trang 3

Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy trang 4

Trang 4

Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy trang 5

Trang 5

Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy trang 6

Trang 6

Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy trang 7

Trang 7

Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 10040
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy

Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 140-147 
 140 
Đánh giá sự tích lũy và rủi ro sinh thái một số kim loại nặng 
trong trầm tích mặt khu vực hạ lưu sông Đáy 
Lê Thị Trinh, Kiều Thị Thu Trang, Nguyễn Thành Trung, 
Nguyễn Khánh Linh, Trịnh Thị Thắm* 
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, 
41A Phú Diễn, Cầu Diễn, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 13 tháng 12 năm 2018 
Chỉnh sửa ngày 20 tháng 12 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 21 tháng 12 năm 2018 
Tóm tắt: Hệ thống lưu vực sông Nhuệ - Đáy đang chịu sự gia tăng về số lượng và lưu lượng nước 
thải từ các hoạt động sản xuất, sinh hoạt. Các nguồn thải mang theo các chất hữu cơ, kim loại nặng, 
vi sinh vật, tích lũy trong trầm tích và hệ sinh thái dưới nước gây ảnh hưởng đến môi trường nước 
và hệ sinh thái. Trong nghiên cứu này, sự tích lũy kim loại nặng trong trầm tích tại khu vực hạ lưu 
sông Đáy được đánh giá thông qua chỉ số rủi ro sinh thái tiềm năng của một số kim loại trong trầm 
tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong 22 mẫu trầm tích tại khu vực hạ lưu sông Đáy đều phát 
hiện sự có mặt của các kim loại Cu, Pb, Cd, Cr với hàm lượng dao động trong khoảng tương ứng là 
15,8 ÷ 82,6; 13,1÷ 72,1; 0,189 ÷ 2,43; 16,1 ÷ 97,3 mg/kg trọng lượng khô. Chỉ số rủi ro sinh thái 
tiềm năng của các kim loại nằm trong khoảng từ 11,4 đến 78,7 nên khu vực nghiên cứu có mức độ 
rủi ro kim loại thấp. Số liệu này có thể làm rõ mức độ rủi ro tiềm năng của khu vực và là cơ sở khoa 
học của các biện pháp kiểm soát và giảm thiểu các nguồn gây ô nhiễm môi trường từ các hoạt động 
kinh tế xã hội của lưu vực sông Nhuệ - Đáy. 
Từ khoá: Kim loại nặng, trầm tích, rủi ro sinh thái, hạ lưu sông Đáy 
1. Mở đầu 
Sông Đáy là một chi lưu nằm bên hữu ngạn 
của sông Hồng (từ 20033’ đến 21019’ vĩ độ Bắc 
và 105017’ đến 105050’ kinh độ Đông), chiều dài 
sông chính khoảng 247km (tính từ cửa Hát Môn 
đến cửa Đáy trước khi đổ ra biển Đông), diện 
_________ 
 Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-983307385. 
 Email: tttham@hunre.edu.vn 
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4351 
tích lưu vực khoảng 6.595 km2. Lưu vực được 
giới hạn bao bởi đê sông Hồng ở phía Bắc, phía 
Đông giáp với lưu vực sông Nhuệ, phía Tây giáp 
tỉnh Hòa Bình, phía Nam giáp tỉnh Hà Nam. 
Sông Đáy lấy nguồn nước chính từ sông 
Hồng và chảy ra vịnh Bắc Bộ. Sông Đáy có lòng 
sông chảy gọn trong vùng đồng bằng Bắc Bộ với 
https://doi.org/10.25073/2588-1140/vnunst.4243 
 https://doi.org/10.25073/2588-1140/vnunst.4243 
L.T. Trinh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 140-147 
141 
dòng sông chảy song song bên hữu ngạn hạ lưu 
sông Hồng. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài 
nguyên và Môi trường [1], hệ thống lưu vực sông 
Nhuệ - Đáy đang chịu sự gia tăng về số lượng và 
lưu lượng nguồn thải nước thải từ các hoạt động 
sản xuất, sinh hoạt. Tính đến tháng 10/2016, trên 
lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy có 1.982 nguồn 
thải, trong đó có 1.662 nguồn thải từ cơ sở sản 
xuất, kinh doanh; 39 nguồn thải từ khu công 
nghiệp, cụm công nghiệp; 137 từ cơ sở y tế và 
144 làng nghề. Thành phố Hà Nội là địa phương 
có tổng số nguồn thải cao nhất chiếm tới 60% 
trên toàn lưu vực. Trong khi đó số lượng nguồn 
thải tại các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Hòa Bình 
và Ninh Bình cũng có chiều hướng gia tăng [1]. 
Các nguồn thải có khả năng gây ô nhiễm các chất 
hữu cơ, chất rắn, kim loại nặng, gây đục, nhiễm 
vi khuẩn và gây hiện tượng phú dưỡng cho môi 
trường sông Nhuệ - Đáy. 
Nghiên cứu về kim loại nặng trong trầm tích 
với mục đích nhằm hiểu rõ các tác động của 
chúng đến hệ sinh thái dưới nước. Kim loại nặng 
là một trong những nhóm chất ô nhiễm môi 
trường quan trọng cần được nghiên cứu để đánh 
giá tác động của ô nhiễm môi trường đến sức 
khỏe con người và hệ sinh thái tự nhiên [2]. Trầm 
tích cũng là một thành phần cơ bản trong môi 
trường cung cấp thức ăn cho hệ sinh thái tự nhiên 
cũng như con người. Các chất ô nhiễm từ trầm 
tích cũng là nguồn phơi nhiễm quan trọng của hệ 
sinh thái dưới nước và con người. 
Kim loại nặng trong môi trường nước tại 
nhiều khu vực trên thế giới thường có hàm lượng 
không cao nhưng đó là nguồn gốc của sự tích lũy 
và gia tăng nồng độ kim loại trong trầm tích, đặc 
biệt tại các khu vực cửa sông, ven biển. Nhiều 
nghiên cứu chỉ ra rằng kim loại nặng như đồng 
(Cu), Chì (Pb), Cadimi (Cd) và Crom (Cr) trong 
môi trường nước, đất, sinh học là những kim loại 
rất cần thiết cho quá trình trao đổi chất của cơ thể 
sống, tuy nhiên nó sẽ gây độc ở một nồng độ nhất 
định. Nồng độ của các kim loại này phụ thuộc rất 
nhiều vào nguồn gốc phát sinh từ các hoạt động 
phát triển kinh tế xã hội [2] 
Các rủi ro tiềm năng của kim loại nặng đối 
với hệ sinh thái tại khu vực nghiên cứu được 
đánh giá theo các hệ số: [3], [4]: 
- Hệ số làm giàu trầm tích (EF) 
- Chỉ số tích lũy địa chất (Igeo) 
- Chỉ số tải ô nhiễm (PLI) 
- Chỉ số rủi ro sinh thái tiềm năng 
Phương pháp chỉ số rủi ro sinh thái tiềm năng 
là một trong những phương pháp được xem xét 
trên cả hai yếu tố là nống độ của kim loại trong 
môi trường và hệ số đáp ứng độc học. 
Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá chỉ 
số rủi ro sinh thái tiềm năng của một số kim loại 
trong trầm tích khu vực hạ lưu sông đáy nhằm 
hiểu rõ mức độ rủi ro tiềm năng của khu vực. Kết 
quả nghiên cứu có thể là cơ sở khoa học của các 
biện pháp kiểm soát và giảm thiểu các nguồn gây 
ô nhiễm môi trường từ các hoạt động kinh tế xã 
hội của lưu vực sông Nhuệ - Đáy. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Lấy mẫu và bảo quản mẫu 
Các vị trí lấy mẫu được lựa chọn trên cơ sở 
khảo sát thực tế dọc sông Đáy từ Hà Nam đến 
cửa Đáy và bản đồ địa giới khu vực nghiên cứu. 
Quá trình khảo sát cho thấy, sông Đáy chảy qua 
Hà Nam tiếp nhận các nguồn thải từ sản xuất sơn, 
xi măng, phân bón... Tại địa phận tỉnh Ninh 
Bình, các nguồn thải chủ yếu là sản xuất cơ khí, 
xi măng, phân bón, tại Nam Định là cơ khí đúc 
 ...  
hưởnga2 
112 108 4,2 160 
Mức độ thấp nhất 
có ảnh hưởngb 
31 16 0,6 26 
Mức độ gây ảnh 
hưởng nghiêm 
trọngb 
250 110 10 110 
a1, a2: QCVN 43:2012/BTNMT - Quy chuẩn kỹ 
thuật Quốc gia về chất lượng trầm tích đối với trầm 
tích nước ngọt; đối với trầm tích nước mặn, lợ. 
b: Hướng dẫn về chất lượng trầm tích tỉnh 
Ontario, Canada – các giá trị quy định để bảo vệ hệ 
thủy sinh. 
Kết quả hàm lượng Pb trong mẫu trầm tích 
dao động từ 15,8 mg/kg (tại vị trí SD4) đến 82,6 
mg/kg trọng lượng khô (vị trí SD16). Kết quả 
phân tích hàm lượng chì ở tất cả các mẫu đều 
không vượt quá giá trị giới hạn của trầm tích 
nước ngọt (91,3 mg/kg trọng lượng khô) và trầm 
tích nước mặn, nước lợ (112 mg/kg trọng lượng 
khô) được quy định trong quy chuẩn chất lượng 
trầm tích QCVN 43: 2012/BTNMT. Theo hướng 
dẫn về chất lươṇg trầm tích tỉnh Ontario – 
Canada các giá tri ̣ quy điṇh để bảo vê ̣ hê ̣ thủy 
sinh, 12/22 vị trí có hàm lươṇg Pb vươṭ mức ảnh 
hưởng thấp (LEL) từ 1,06 (vị trí SD 11) đến 2,66 
lần (vị trí SD16). 
Pb Cu Cd Cr
-10
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
110
H
µ
m
 l
-
î
n
g
 m
g
/K
g
 t
rä
n
g
 l
-
î
n
g
 k
h
«
Kim lo¹i 
Hình 2. Hàm lượng kim loại nặng trong mẫu trầm 
tích khu vực nghiên cứu. 
Kết quả hàm lượng kim loại ở bảng 1 cũng 
cho thấy hàm lượng Cu trong các mẫu trầm tích 
nằm trong khoảng từ 13,1 mg/kg đến 72,1 mg/kg 
trọng lượng khô. Hàm lượng của tất cả các mẫu 
đều nằm trong giới hạn của QCVN 
43:2012/BTNMT đối với cả trầm tích nước ngọt 
và nước mặn, nước lợ. Tuy nhiên theo hướng dẫn 
chất lượng trầm tích tỉnh Ontario - Canada thì chỉ 
có duy nhất điểm SD4 có hàm lượng Cu nằm 
dưới mức ảnh hưởng thấp LEL, các mẫu còn 
lại đều vượt mức ảnh hưởng thấp từ 1,08 đến 
5,2 lần. 
Với khoảng giá trị hàm lượng từ 0,189 đến 
2,43 mg/kg trọng lượng khô, kết quả phân tích 
kim loại Cd trong mẫu trầm tích tại tất cả các vị 
trí đều không vượt giá trị giới hạn được quy 
định trong QCVN 43:2012/BTNMT. Các vị trí 
lấy mẫu bên trong sông có hàm lượng Cd cao 
hơn nhiều so với các điểm ngoài cửa sông 
(trung bình từ 3- 4 lần). Theo hướng dẫn chất 
lượng trầm tích tỉnh Ontario - Canada, hàm 
lượng Cd tại khu vực nghiên cứu đều dưới mức 
SEL, trong khi với mức ảnh hưởng thấp LEL, các 
vị trí lấy mẫu trong sông đều vượt từ 1,2 đến 4,0 
lần, cao nhất ở vị trí SD8 đạt giá trị 2,43 mg/kg 
trọng lượng khô. 
L.T. Trinh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 140-147 
144 
Hàm lượng Cr trong các mẫu trầm tích dao 
động từ 16,1 đến 97,3 mg/kg trọng lượng khô. 
Theo quy chuẩn chất lượng trầm tích QCVN 43: 
2012/BTNMT chỉ có 2/22 vị trí có hàm lượng Cr 
vượt giá trị giới hạn đối với trầm tích nước ngọt 
là vị trí SD1 (vượt 1,08 lần) và vị trí SD3 (vượt 
1,03 lần). Ngược lại, khi so sánh hàm lượng Cr 
với hướng dẫn chất lượng trầm tích tỉnh Ontario 
– Canada thì chỉ có 02 vị trí (SD9, SD12) có giá 
trị nằm dưới mức ảnh hưởng thấp (LEL) còn lại 
tất cả các vị trị đều vượt giá trị LEL từ 1,07 đến 
3,74 lần và tiến gần đến giá trị ở mức đô ̣có khả 
năng gây ảnh hưởng nghiêm troṇg đến hê ̣ 
thủy sinh. 
So sánh với một số nghiên cứu tại Việt Nam 
về hàm lượng kim loại trong trầm tích, trầm tích 
sông Đáy có mức độ tích lũy KLN tương đối 
tương đồng so với trầm tích tại sông Hàn, Đà 
Nẵng (hàm lượng Pb: 28,2 ÷ 65,1; Cu: 31,1 ÷ 
76,9; Cd: 0,038 ÷ 0,156; Cr: 43,7 ÷ 58,3 mg/kg 
trọng lượng khô) [9]. Trong khi đó, hàm lượng 
KLN trong trầm tích sông Đáy cao hơn nhiều so 
với hàm lượng các kim loại trong trầm tích khu 
vực sông Mê Kông (Pb: 0,9 ÷ 6,6; Cu: 28,4 ÷ 
35,7; Cd: 0,1 ÷ 2,4; mg/kg trọng lượng khô), đặc 
biệt là kim loại chì. Sông Soài Rạp thuộc hệ 
thống sông Sài Gòn – sông Đồng Nai cũng chịu 
ảnh hưởng bởi nhiều hoạt động công nghiệp, đặc 
biệt là các khu sản xuất điện tử, điện lạnh nên 
hàm lượng kim loại nặng trong trầm tích sông tại 
đây cũng khá cao, với hàm lượng Pb: 28,2 ÷ 
43,9; Cu: 16,4 ÷ 24,7; Cr: 307 ÷ 357 mg/kg trọng 
lượng khô [10]. Như vậy, có thể thấy, hàm lượng 
các kim loại trong trầm tích sông Đáy ở mức thấp 
so với các khu vực khác trong nước. 
Kết quả hàm lượng kim loại nặng trong trầm 
tích sông Đáy khá tương đồng với hàm lượng 
kim loại nặng trong trầm tích sông Korotoa, 
Bangladesh (Pb: 36 ÷ 83; Cu: 35 ÷ 118; Cd: 0,26 
÷ 2,8; Cr: 55 ÷ 183 mg/kg trọng lượng khô) [11] 
hay cửa sông Karnaphuli, Bangladesh (Pb: 23,66 
÷ 25,05; Cu: 20,34 ÷ 33,06; Cr: 77,0 ÷ 99,8 
mg/kg trọng lượng khô) [12] 
Tuy nhiên, hàm lượng kim loại nặng trong 
trầm tích sông Hindon, Ấn Độ (Pb: 27,56 ÷ 
313,57; Cu: 21,7 ÷ 280,33; Cd: 0,29 ÷ 6,29 
mg/kg trọng lượng khô) cao hơn nhiều so với 
hàm lượng các kim loại này tại khu vực hạ lưu 
sông Đáy. Quá trình công nghiệp hóa và gia tăng 
dân số nhanh tại lưu vực sông Hindon là nguyên 
nhân gây ra sự tích lũy kim loại nặng tương đối 
cao trong trầm tích sông Hindon [13]. Tương tự, 
hàm lượng các kim loại nặng trong trầm tích 
sông Ganga, Ấn Độ cũng khá cao so với nghiên 
cứu này với Pb 148,83 – 211,36; Cu: 12,67 – 84; 
Cd: 9,52 – 79; Cr: 126,84 – 196,11 mg/kg trọng 
lượng khô do đây là nơi tiếp nhận các nguồn thải 
không được xử lý từ các hoạt động nông nghiệp, 
công nghiệp của khu vực [14]. 
3.2. Đánh giá rủi ro sinh thái tiềm năng 
Áp dụng công thức tính từ mục 2.3, nhóm 
nghiên cứu đã tiến hành tính toán yếu tố rủi ro 
của từng KLN và hệ số rủi ro sinh thái tiềm năng. 
Bảng 2 thể hiện kết quả tính toán của các hệ số. 
Từ kết quả trong bảng 2 kết hợp với thang 
đánh giá mức độ rủi ro cho thấy, yếu tố rủi ro 
sinh thái (Er
i ) của Pb dao động từ 1,13 đến 5,9; 
Cu từ 1,31 đến 7,21; Cd từ 5,66, đến 72,8 và Cr 
từ 0,36 đến 2,16. Thứ tự yếu tố rủi ro sinh thái 
của từng kim loại trong trầm tích được sắp xếp 
theo như sau: Er
i (Cd) = 29,8 > Er
i (Cu) = 3,97 > 
Er
i (Pb) = 2,82 > Er
i (Cr) = 1,16. Có thể thấy, Cd 
là yếu tố rủi ro sinh thái chính trong tổng số bốn 
kim loại nghiên cứu. Như vậy, theo phương pháp 
đánh giá rủi ro sinh thái của Hakanson thì các 
kim loại Pb, Cu, Cd, Cr đều có mức độ rủi ro sinh 
thái thấp trong nghiên cứu này. 
Ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu đánh 
giá về mức độ rủi ro sinh thái của kim loại nặng 
trong trầm tích các sông. Trước nghiên cứu này, 
nhóm nghiên cứu cũng đã tiến hành đánh giá rủi 
sinh thái tại khu vực cửa sông, ven biển sông 
Hàn, thành phố Đà Nẵng. Kết quả các chỉ số rủi 
ro sinh thái của các kim loại đều thấp hơn so với 
nghiên cứu này, cụ thể yếu tố rủi ro sinh thái của 
Cu, Cd, Pb, Cr lần lượt là 2,01, 0,560, 1,74 và 
0,660 [9]. Do đặc tính tích lũy và nguồn thải khác 
nhau nên mức độ tích lũy và rủi ro tại các khu 
vực sẽ có sự khác nhau.
L.T. Trinh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 140-147 
145 
Bảng 2. Chỉ số rủi ro sinh thái kim loại nặng trong trầm tích 
TT Kí hiệu 
Eri 
RI 
Pb Cu Cd Cr 
1 SD1 1,50 4,63 30,3 2,16 38,6 
2 SD2 1,45 3,93 22,2 1,17 28,8 
3 SD3 1,65 6,01 36,8 2,05 46,5 
4 SD4 1,13 2,88 21,9 0,621 26,6 
5 SD5 2,82 4,09 32,3 1,17 40,4 
6 SD6 1,44 3,80 32,2 1,65 39,0 
7 SD7 1,48 3,72 43,1 1,72 50,1 
8 SD8 2,52 1,78 72,8 1,52 78,7 
9 SD9 4,07 4,42 42,7 0,358 51,5 
10 SD10 1,46 1,61 26,9 0,898 30,9 
11 SD11 2,41 2,56 32,9 1,14 39,0 
12 SD12 1,23 3,92 29,8 0,547 35,6 
13 SD13 5,14 5,69 41,7 1,28 53,8 
14 SD14 4,09 3,63 31,9 0,960 40,6 
15 SD15 4,43 3,91 42,3 1,04 51,6 
16 SD16 5,90 7,21 32,7 1,53 47,3 
17 SD17 5,09 5,05 32,5 1,16 43,8 
18 SD18 2,88 4,95 9,22 0,98 18,0 
19 SD19 2,36 4,02 5,66 1,15 13,2 
20 SD20 5,12 6,66 17,3 1,23 30,4 
21 SD21 1,88 1,31 7,62 0,635 11,4 
22 SD22 1,91 1,47 11,3 0,652 15,3 
Trung bình 2,82 3,97 29,8 1,16 
4. Kết luận 
Hàm lượng KLN (Cu, Pb, Cd, Cr) trong trầm 
tích khu vực hạ lưu sông Đáy dao động trong 
khoảng tương ứng là 15,8 ÷ 82,6; 13,1 ÷ 72,1; 
0,2 ÷ 2,43; 16,1 ÷ 97,3 mg/kg trọng lượng khô. 
Tại hầu hết các vị trí lấy mẫu, hàm lượng này đều 
nằm dưới giới hạn cho phép của QCVN 43:2012 
về chất lượng trầm tích. Kết quả nghiên cứu này 
cho thấy, khu vực nghiên cứu chưa bị ô nhiễm 
kim loại nặng. Tuy nhiên khi đánh giá với tiêu 
chuẩn chất lượng trầm tích tỉnh Ontario, Canada, 
trầm tích sông Đáy có dấu hiệu bị ô nhiễm đối 
với các kim loại nghiên cứu. Kết quả đánh giá 
rủi ro sinh thái của các kim loại nặng trong trầm 
tích khu vực nghiên cứu cũng chỉ ra mức độ rủi 
so sinh thái thấp của tất cả các kim loại với chỉ 
số rủi ro sinh thái tiềm năng nằm trong khoảng 
từ 11,45 đến 78,66. Trong các kim loại nghiên 
cứu, Cd là yếu tố rủi ro sinh thái chính với một 
số điểm có yếu tố rủi ro lên mức độ vừa phải. 
Kết quả đánh giá rủi ro sinh thái tiềm năng 
của một số kim loại tại khu vực cho thấy mức độ 
rủi ro tiềm ẩn tác động đến hệ sinh thái dưới nước 
khi trầm tích bị ô nhiễm kim loại nặng. Trong 
nghiên cứu này, tuy các kim loại đều chưa bị ô 
nhiễm nhưng với đặc tính tích lũy kim loại của 
trầm tích cũng như nguy cơ rủi ro tiềm ẩn tồn tại 
sẽ có những tác động tiêu cực trong tương lai. Do 
vậy, kết quả này là cơ sở khoa học để thực hiện 
các biện pháp giảm thiểu các nguồn thải nội địa, 
quản lý tốt các nguồn nước thải từ hoạt động 
công nghiệp, khai khoáng và làng nghề tại lưu 
vực sông Nhuệ - Đáy. 
L.T. Trinh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 140-147 
146 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Bộ Tài 
nguyên và Môi trường, Đề tài cấp bộ mang mã 
số: TNMT 2017.04.09. 
Nghiên cứu này có sự tham gia thực hiện của 
nghiên cứu sinh Nguyễn Khánh Linh là nghiên 
cứu sinh thuộc đề án 911 của Trường Đại học 
Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Tổng cục Môi trường (2017), Báo cáo tổng hợp kết 
quả quan trắc môi trường nước lưu vực sông Nhuệ 
- Đáy 
[2] Cruz-Guzman M., Celis R., Hermosín M.C., 
Koskinen W.C., Nater E.A., Cornejo J. (2006), 
Heavy metal adsorption by Montmorillonites 
modified with natural organic cations. Soil Sci. 
Soc. Am. J. 70, (1), 215. 
[3] Ding X.G., Ye S.Y., Gao Z.J. (2005), Methods of 
heavy metal pollution evaluation for offshore 
sediments, Marine Geol Lett. 21, (8), pp 31- 36. 
[4] Lars Hakanson (1980), An ecological risk index for 
aquatic pollution control. A sedimentological 
approach, Water research. 14 (8), pp. 975-1001. 
[5] TCVN 6663-15: 2008, Chất lượng nước - Lấy mẫu 
(ISO 566715: 1999) Phần 15: Hướng dẫn bảo quản 
và xử lý mẫu bùn và trầm tích, Bộ Khoa học và 
Công nghệ 
[6] US - Environmental Protection Agency (1996), 
EPA 3050B Acid digestion of sediments, sludges 
and soils. 
[7] F Ackermann (1980), A procedure for correcting 
the grain size effect in heavy metal analyses of 
estuarine and coastal sediment, Environmental 
Technology, 1(11): pp. 518-527 
[8] TCVN 4080:2011 - Chất lượng đất: Phương pháp 
xác định độ ẩm và hệ số khô kiệt, Bộ Khoa học và 
Công nghệ 
[9] Lê Thị Trinh (2017), Đánh giá sự tích lũy và rủi ro 
sinh thái một số kim loại nặng trong trầm tích cửa 
sông Hàn, Thành phố Đà Nẵng, Tạp chí Khoa học 
ĐHQGHN: Khoa học Tự nhiên và Công nghệ,. 
33(3), p. 112. 
[10] Nguyễn Văn Phương, Mai Hương, Nguyễn Thị 
Huệ (2017), Đánh giá ô nhiễm kim loại nặng (Cu, 
Pb, Cr) và As trong trầm tích cửa sông Soài Rạp, 
hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai, Tạp chí Môi 
trường – Tổng cục Môi trường 
[11] Md Saiful Islam, Md Kawser Ahmed, Mohammad 
Raknuzzaman, Md Habibullah-Al-Mamun, 
Muhammad Kamrul Islam (2015), Heavy metal 
pollution in surface water and sediment: a 
preliminary assessment of an urban river in a 
developing country, Ecological Indicators. 48, pp. 
282-291. 
[12] Ai-jun Wang, Ahmed Kawser , Yong-hang Xu , 
Xiang Ye , Seema Rani and Ke-liang Chen (2016), 
Heavy metal accumulation during the last 30 years 
in the Karnaphuli River estuary, Chittagong, 
Bangladesh, Springer Plus, 5(1): p. 2079. 
[13] Mayuri Chabukdhara, Arvind K Nema (2012), 
Assessment of heavy metal contamination in 
Hindon River sediments: a chemometric and 
geochemical approach, Chemosphere. 87(8), pp. 
945-953 
[14] Mayank Pandey, Smriti Tripathi, Ashutosh Kumar 
Pandey, and BD Tripathi, Risk assessment of metal 
species in sediments of the river Ganga, Catena, 
2014. 122: p. 140-149. 
L.T. Trinh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 34, Số 4 (2018) 140-147 
147 
Heavy Metal Accumulation and Potential Ecological Risk 
Assessment of Surface Sediments from Day River 
Downstream 
Le Thi Trinh, Kieu Thi Thu Trang, Nguyen Thanh Trung, 
Nguyen Khanh Linh, Trinh Thi Tham 
Hanoi University of Natural Resources & Environment, 41A Phu Dien, Cau Dien, Hanoi, Vietnam 
Abstract: According to the statistics of management agencies, the Nhue - Day river basin system is 
experiencing an increase in the number of polluted sources and waste water flow from production and 
living activities. The accumulation of persistent organic substances, heavy metals, etc., in sediments 
affects the quality of river water and the aquatic living system. In this study, the accumulation of heavy 
metals in sediments from the Day River downstream was assessed based on potential ecological risk 
index. Results of the research, All heavy metals were detected in sediment samples with mean 
concentrations of Cu, Pb, Cd and Cr were range of 15.8 ÷ 82, 6; 13.1 ÷ 72.1; 0,189 ÷ 2,43; 16.1 ÷ 97.3 
mg / kg dry weight. The potential ecological risk indexs (RI) for metals were varied from 11.4 to 78.7, 
show that this area has a low level of risk for heavy-metal. This data can clarify the potential risk level 
of the area which is the scientific basis for taking solution to control and reduce the sources of 
environmental pollution of the Nhue - Day river basin system. 
Keywords: Heavy metal, sediment, potential ecological risk, downstream Day River. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_su_tich_luy_va_rui_ro_sinh_thai_mot_so_kim_loai_nan.pdf