Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng

Đặt vấn đề: Bệnh giun, sán gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người, trường hợp nặng có thể gây tử

vong. Có nhiều loại giun, sán gây bệnh, phổ biến ở các nước trên thế giới là giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ,

giun lươn; các loài sán lá gan, sán lá ruột, sán dây, ấu trùng sán dây lợn. Nhiễm giun, sán ảnh hưởng đến sự

phát triển về thể chất, tinh thần và trí tuệ con người. Do đó, việc áp dụng các biện pháp tẩy giun dựa vào cộng

đồng cần phải được triển khai rộng rãi ở nhiều địa phương góp phần làm giảm các tác hại do giun sán gây ra.

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng tại 3 điểm thuộc 3 tỉnh ở khu vực

Nam Bộ - Lâm Đồng từ tháng 6/2017 – 10/2018.

Phương pháp nghiên cứu: Can thiệp cộng đồng.

Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng trang 1

Trang 1

Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng trang 2

Trang 2

Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng trang 3

Trang 3

Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng trang 4

Trang 4

Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng trang 5

Trang 5

Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng trang 6

Trang 6

Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng trang 7

Trang 7

Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng trang 8

Trang 8

Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng trang 9

Trang 9

pdf 9 trang viethung 3620
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng

Đánh giá hiệu quả quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 115
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUY TRÌNH TẨY GIUN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG 
Đoàn Bình Minh*, Lê Thành Đồng*, Phùng Thị Thanh Thúy* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Bệnh giun, sán gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người, trường hợp nặng có thể gây tử 
vong. Có nhiều loại giun, sán gây bệnh, phổ biến ở các nước trên thế giới là giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ, 
giun lươn; các loài sán lá gan, sán lá ruột, sán dây, ấu trùng sán dây lợn. Nhiễm giun, sán ảnh hưởng đến sự 
phát triển về thể chất, tinh thần và trí tuệ con người. Do đó, việc áp dụng các biện pháp tẩy giun dựa vào cộng 
đồng cần phải được triển khai rộng rãi ở nhiều địa phương góp phần làm giảm các tác hại do giun sán gây ra. 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng tại 3 điểm thuộc 3 tỉnh ở khu vực 
Nam Bộ - Lâm Đồng từ tháng 6/2017 – 10/2018. 
Phương pháp nghiên cứu: Can thiệp cộng đồng. 
Kết quả: Tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất chung ở các điểm nghiên cứu trước lúc tẩy giun là 11,30% 
(79/699). Trong đó giun đũa 1,00% (7/699) với 100,00% (7/7) cường độ nhiễm nhẹ, giun tóc 0,72% (5/699) 
với 100,00% (5/5) cường độ nhiễm nhẹ, giun móc/mỏ 9,59% (67/699) với 68,66% (46/67) cường độ nhiễm 
nhẹ, 25,37% (17/67) cường độ nhiễm trung bình, 5,97% (4/67%) cường độ nhiễm nặng; Tỉ lệ nhiễm giun 
sau 6 tháng tẩy giun giảm xuống còn 1,71% (12/700). Trong đó giun đũa 0,14% (1/700) với 100,00% (1/1) 
cường độ nhiễm nhẹ, giun tóc 0% (0/700), giun móc/mỏ 1,57% (11/700) với 100,00% (11/11) cường độ 
nhiễm nhẹ; Tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất sau 12 tháng tẩy giun là 2% (14/700). Trong đó giun đũa 
0,29% (2/700) với 100,00% (2/2) cường độ nhiễm nhẹ, giun tóc 0% (0/700), giun móc/mỏ 1,71% (12/700) 
với 100,00% (12/12) cường độ nhiễm nhẹ. 
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả của quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng. 
Từ khóa: tẩy giun, giun sán, giun truyền qua đất 
ABSTRACT 
EVALUATING THE EFFECTIVENESS OF THE PROCESS OF COMMUNITY-BASED DEWORMING 
Le Thanh Dong, Doan Binh Minh, Phung Thi Thanh Thuy 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 115 – 123 
Background: Helminthiases have negative impacts on human health, severe cases can be fatal. There are 
many helminth species causing diseases; the most common ones in the world are Ascariasis, Trichuriasis, 
strongyloidiasis; fascioliasis (fluke disease), tapeworm. Helminth infections affect the physical, mental and 
intellectual human development. Therefore, it is necessary to apply community-based deworming procedure 
widely in many areas, which is contributing to reduce harms from helminth infections. 
Objective: To evaluate the effectiveness of community-based deworming procedure at 3 sites of 3 provinces 
in the Southern region - Lam Dong province from June 2017 to October 2018. 
Methods: Community intervention. 
Results: The prevalence of soil – transmitted helminth infections in the study sites before deworming was 
11.30% (79/699). In which, Ascaris accounted for 1.00% (7/699) with 100,00% light-intensity infections (7/7); 
Trichuris accounted for 0.72% (5/699) with 100,00% light-intensity infections (5/5); hookworm accounted for 
*Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Lê Thành Đồng ĐT: 0912009217 Email: lethanhdong@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 116
9.59% (67/699) with 68.66% light-intensity infections (46/67), 25.37% moderate-intensity infections (17/67), 
5.97% heavy-intensity infections (4/67). After 6 months of deworming, the prevalence of soil – transmitted 
helminth infections decreased to 1.71% (12/700). In which, the proportion of Ascaris was 0.14% (1/700) with 
100.00% light-intensity infections (1/1); the figure for Trichuris was 0.00% (0/700); the figure for hookworm was 
1.57% (11/700) with 100.00% light-intensity infections (11/11). After 12 months of deworming, the prevalence 
of soil – transmitted helminth infections was 2.00% (14/700). In which, Ascaris attributed 0.29% (2/700) with 
100.00% light-intensity infections (2/2); Trichurs did 0.00% (0/700), hookworm did 1.71% (12/700) with 
100.00% light-intensity infections (12/12). 
Conclusion: Research results showed the effectiveness of community-based deworming process. 
Keywords: deworming, helminths, soil-transmitted helminths 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Các loại giun đường ruột ở người chủ yếu 
gồm giun đũa (Ascaris lumbricoides), giun tóc 
(Trichuris trichiura) và giun móc/mỏ (Ancylostoma 
duodenale/Necator americanus) và thường gọi là 
giun truyền qua đất (Soil-transmitted helminth). 
Đây là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ 
biến trên toàn thế giới và ảnh hưởng chủ yếu 
đến những người dân nghèo và ở những cộng 
đồng dân cư còn kém phát triển. Người bị nhiễm 
giun truyền qua đất là do ăn phải trứng giun từ 
thức ăn bị ô nhiễm, qua rau sống, qua bàn tay 
bẩn, qua nước uống. Đối với giun móc/mỏ ấu 
trùng xâm nhập xuyên qua da vào cơ thể và gây 
bệnh cho người. Các triệu chứng thường gặp khi 
bị nhiễm giun như gầy yếu, da xanh, hay bị đau 
bụng, rối loạn tiêu hóa, chán ăn, ăn uống khó 
tiêu, bụng chướng, chậm lớn. Điều kiện thời tiết 
tại nước ta thuận lợi cho sự phát triển của giun 
cùng với điều kiện vệ sinh môi trường kém, tập 
quán sinh hoạt, canh tác đã tạo điều kiện thuận 
lợi cho sự nhiễm và lan truyền bệnh này. Các 
bệnh giun truyền qua đất cho đến nay vẫn bị 
xếp vào nhóm những bệnh “bị lãng quên”, chưa 
có sự đầu tư thích đáng, mà mới chỉ có một vài 
tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ cho hoạt 
động này ở một số vùng có tỉ lệ nhiễm cao, 
nhưng không mang tính thường xuyên. 
Trong 10 năm qua hoạt động phòng chống 
giun sán đã đạt được những kết quả khích lệ 
như giảm tỉ lệ nhiễm giun, giảm được cường 
độ nhiễm và giảm tác hại của bệnh giun tới 
người bệnh và cộng đồng. Việc tẩy gi ...  1,72 0,86 1,72 1,29 
Lê Bình (CT) 
n = 233 
SL (+) 0 0 0 0 0 0 0 0 
TL (%) 0,00 0 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 
Chung 
n = 700 
SL (+) 1 2 0 0 11 12 12 14 
TL (%) 0,14 0,29 0,00 0,00 1,57 1,71 1,71 2,00 
Hình 1: Tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất trước tẩy giun và sau tẩy giun 6, 12 tháng 
Bảng 6: Cường độ nhiễm giun sau 6 tháng và 12 tháng tẩy giun 
Địa điểm Loại giun 
6 tháng 12 tháng 
Nhẹ Trung Bình Nặng Nhẹ Trung Bình Nặng 
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL 
An Nhơn 
n = 234 
Giun đũa 1 100,00% 0 0,00% 0 0,00% 1 100,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Giun tóc 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Giun móc/mỏ 7 100,00% 0 0,00% 0 0,00% 10 100,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Kim Dinh 
n = 233 
Giun đũa 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 1 0,43% 0 0,00% 0 0,00% 
Giun tóc 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Giun móc/mỏ 4 100,00% 0 0,00% 0 0,00% 2 100,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Lê Bình 
n = 233 
Giun đũa 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Giun tóc 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Giun móc/mỏ 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Chung 
n = 700 
Giun đũa 1 100,00% 0 0,00% 0 0,00% 2 100,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Giun tóc 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Giun móc/mỏ 11 100,00% 0 0,00% 0 0,00% 12 100,00% 0 0,00% 0 0,00% 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 120
Cường độ nhiễm giun sau 6 tháng tẩy giun 
có 12 mẫu (cường độ nhiễm nhẹ) và sau 12 tháng 
tẩy giun có 14 mẫu (cường độ nhiễm nhẹ). 
Không có mẫu nhiễm nào có cường độ nhiễm 
trung bình và nhiễm nặng sau 6 tháng và 12 
tháng tẩy giun (Bảng 6). 
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ nhiễm, cường độ nhiễm giun tại cộng 
đồng trước lúc tẩy giun 
Từ kết quả Bảng 1 cho thấy tỉ lệ nhiễm giun 
truyền qua đất (giun đũa, giun tóc, giun 
móc/mỏ) ở 3 điểm điều tra là 11,30 %. Giun 
móc/mỏ có tỉ lệ nhiễm cao nhất trong 3 nhóm 
giun được xét nghiệm, tỉ lệ nhiễm loài giun 
móc/mỏ là 9,59% (67/699). Ngược lại tỉ lệ nhiễm 
của 2 loài giun còn lại là giun đũa và giun tóc rất 
thấp chỉ chiếm 1,00% (7/699) đối với giun đũa, 
0,72% (5/233) đối với giun tóc. 
Tỉ lệ nhiễm giun móc/mỏ chung của 3 điểm 
9,59% (67/699): Tỉ lệ nhiễm cao tập trung ở xã An 
Nhơn 15,45% (36/233), xã Kim Dinh 10,30% 
(24/233) và thấp nhất ở phường Lê Bình 3,00% 
(7/233). 
Tỉ lệ nhiễm giun tóc chung của 3 điểm 0,72% 
(5/699)): Tỉ lệ nhiễm cao tập trung ở xã An Nhơn 
1,29% (3/233), xã Kim Dinh 0,43% (1/233) và 
phường Lê Bình 0,43% (1/233). 
Tỉ lệ nhiễm giun đũa chung của 3 điểm 
1,00% (7/699): Tỉ lệ nhiễm cao tập trung ở xã An 
Nhơn 1,29% (3/233), xã Kim Dinh 1,29% (3/233) 
và thấp nhất ở phường Lê Bình 0,43% (1/233). 
Tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất tại 3 điểm 
nghiên cứu, tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất 
của xã An Nhơn cao nhất lên đến 18,03% 
(42/233), đây là xã thuộc huyện Đạ Tẻ, tỉnh 
Lâm Đồng, nơi đây có điều kiện thổ nhưỡng, 
khí hậu thích hợp cho sự phát triển của giun 
truyền qua đất, xã có nhiều dân tộc sinh sống 
bao gồm đồng bào dân tộc gốc Tây Nguyên, 
Tày, Nùng, chủ yếu của người dân là lâm 
nghiệp và nông nghiệp, tập quán sinh hoạt của 
người dân tiếp xúc nhiều với môi trường đất, 
vấn đề vệ sinh môi trường chưa được quan 
tâm nhiều, người dân địa phương chưa có 
nhiều điều kiện để xây nhà vệ sinh phù hợp. 
Tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở phường Kim 
Dinh 12,02% (28/233), điều kiện thổ nhưỡng và 
khí hậu ở đây cũng phù hợp với sự phát triển 
của giun truyền qua đất tuy nhiên kinh tế chủ 
yếu của người dân ở đây chủ yếu là hoạt động 
hương mại nên ít tiếp xúc với môi trường đất. 
Phường Lê Bình có tỉ lệ nhiễm giun truyền qua 
đất thấp nhất là 3,86% (9/233), đây là phường 
thuộc quận Cái Răng, TP. Cần Thơ, điều kiện 
thổ nhưỡng, khí hậu cũng như tập quán sinh 
hoạt của người dân ở đây ít liên quan đến giun 
truyền qua đất. Nhìn chung, tỉ lệ nhiễm giun 
truyền qua đất ở các điểm nghiên cứu này 
tương đối phù họp với các nghiên cứu trước 
đây như: 
Theo nghiên cứu của Wim van der Hoek: 
Thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở Việt 
Nam. Tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở vùng 
đồng bằng/ven biển: giun đũa 78,5%, giun tóc 
36,5%, giun móc/mỏ 29,7%; tỉ lệ nhiễm giun 
truyền qua đất ở miền núi/cao nghuyên: giun 
đũa 39,8%, giun tóc 13,6%, giun móc/mỏ 37,0%; 
tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở khu vực thành 
thị: giun đũa 34,7%, giun tóc 16,5%, giun 
móc/mỏ 1,1%; tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở 
khu vực ven thành thị: giun đũa 66.8%, giun tóc 
49,0%, giun móc/mỏ 34,3%; tỉ lệ nhiễm giun 
truyền qua đất ở khu vực nông thôn: giun đũa 
63,8%, giun tóc 35,3%, giun móc/mỏ 25,6%(4). Tỉ 
lệ nhiễm giun truyền qua đất ở Đồng bằng Sông 
Hồng: giun đũa 58,3%, giun tóc 50,5%, giun 
móc/mỏ 28,8%; tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở 
miền núi phía Bắc: giun đũa 75,4%, giun tóc 
38,1%, giun móc/mỏ 26,5%; tỉ lệ nhiễm giun 
truyền qua đất ở ven biển Bắc Trung bộ: giun 
đũa 84,1%, giun tóc 40,2%, giun móc/mỏ 27,8%; 
tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở Tây Nguyên: 
giun đũa 30,2%, giun tóc 17,4%, giun móc/mỏ 
47,8%; tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở ven biển 
Bắc Trung bộ: giun đũa 34,0%, giun tóc 3,8%, 
giun móc/mỏ 41,1%; tỉ lệ nhiễm giun truyền qua 
đất ở Đông Nam bộ: giun đũa 12,7%, giun tóc 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 121
3,4%, giun móc/mỏ 35,9%; tỉ lệ nhiễm giun 
truyền qua đất ở Đồng bằng sông Cửu Long: 
giun đũa 14,8%, giun tóc 0,1%, giun móc/mỏ 
15,9%(4). 
Theo nghiên cứu của Silver ZA, phân bố địa 
lý của giun truyền qua đất và ảnh hưởng của 
kiểu cộng đồng dân cư ở Nam Á và Đông Nam 
Á - Một đánh giá có hệ thống. Nghiên cứu đã 
thống kê có hệ thống các tài liệu được xuất bản 
từ ngày 1 tháng 1 năm 1990 đến ngày 15 tháng 6 
năm 2015 để đánh giá mối liên quan giữa tỉ lệ 
giun tryền qua đất và kiểu cộng đồng (nông 
thôn, thành thị hoặc dân tộc) ở Nam Á và Đông 
Nam Á. Các nước này bao gồm: Bhutan, Ấn Độ, 
Pakistan, Sri Lanka, Bangladesh, Nepal, 
Maldives và Afghanistan (SAARC) và Malaysia, 
Brunei, Campuchia, Lào, Việt Nam, Philippines, 
Myanmar, Indonesia, Singapore và Thái Lan 
(ASEAN)(2). 
Giun móc/mỏ: trong số các quốc gia có trong 
phân tích của nghiên cứu này, Lào đã đóng góp 
19 nghiên cứu và 27.087 người tham gia có tỉ lệ 
người nhiễm giun móc cao nhất (30%, 17–48%), 
tiếp theo là Việt Nam (16 nghiên cứu, 12049 
người tham gia, 29%, 14–52%) và Campuchia (13 
nghiên cứu, 14461 người tham gia, 28%, 18–
42%). Các quốc gia có tỉ lệ người nhiễm giun 
móc thấp nhất là Pakistan (4 nghiên cứu, 2209 
người tham gia, 2%, 1–7%), Bangladesh (7 
nghiên cứu, 2886 người tham gia, 3%, 1–17%) và 
Myanmar (4 nghiên cứu, 1000 người tham gia, 
4%, 1–18%)(2). 
Giun tóc: tỉ lệ người nhiễm Trichuris cao 
nhất ở Philippines (4 nghiên cứu, 788 người 
tham gia, 76%, 45–93%) và Malaysia (21 nghiên 
cứu, 7907 người tham gia, 72%, 59–83). Tỉ lệ 
nhiễm này cao hơn nhiều so với tỉ lệ nhiễm phổ 
biến ở các nước khác. Tỉ lệ nhiễm Trichuris thấp 
nhất ở Pakistan (4 nghiên cứu, 2209 người tham 
gia, 1%, 0–1%)(2). 
Giun đũa: dựa trên kết quả phân tích của 
nghiên cứu, Ascaris khá phổ biến ở khắp Nam Á 
và Đông Nam Á. Myanmar (5 nghiên cứu, 3497 
người tham gia, 55%, 35–71%) và Philippines (4 
nghiên cứu, 788 người tham gia, 59% 46–72%) có 
tỉ lệ nhiễm cao nhất. Thái Lan có tỉ lệ nhiễm 
Ascaris thấp hơn nhiều so với các nước khác ở 
Đông Nam Á (15 nghiên cứu, 8312 người tham 
gia, 1%, 0–6%)(2). 
Nhìn chung tỉ lệ nhiễm giun truyền qua đất 
chủ yếu là giun móc/mỏ ở tất cả các điểm nghiên 
cứu nếu tỉ lệ nhiễm giun móc/mỏ cao kéo theo tỉ 
lệ nhiễm giun truyền qua đất cao hơn các điểm 
còn lại. Kết quả nghiên cứu cho thấy có thể do 
đặc điểm lây truyền sang người của 3 nhóm 
giun này, trong đó giun móc/mỏ lan truyền sang 
người do đặc điểm chui qua da, do con người 
tiếp xúc với môi trường đất trong quá trình lao 
động chân tay, do thói quen đi chân đấtcòn 
giun đũa và giun tóc lan truyền sang người chủ 
yếu là do nuốt phải trứng của chúng nhưng 
ngày nay ý thức an toàn vệ sinh thực phẩm của 
người dân cao hơn nên có thể dẫn đến vấn đề tỉ 
lệ nhiễm 2 loài giun này ngày càng giảm. 
Nghiên cứu đã phân tích cường độ nhiễm 
giun truyền qua đất ở mẫu phân người bị nhiễm 
trứng giun (79 mẫu: 7 mẫu nhiễm giun đũa, 5 
mẫu nhiễm giun tóc, 67 mẫu nhiễm giun 
móc/mỏ) theo bảng 2 ở các mức độ nhiễm nhẹ, 
nhiễm trung bình và nhiễm nặng, kết quả cho 
thấy cường độ nhiễm của từng loại giun (giun 
đũa, giun tóc, giun móc/mỏ) ở các điểm nghiên 
cứu: giun đũa có 7 mẫu phân nhiễm giun đũa ở 
mức độ nhiễm nhẹ, không có mẫu nhiễm giun 
đũa ở cường độ trung bình và nhiễm nặng; cả 5 
mẫu phân nhiễm giun tóc đều ở cường độ 
nhiễm nhẹ; 67 mẫu phân nhiễm giun móc/mỏ có 
46 mẫu nhiễm ở mức độ nhẹ, 17 mẫu nhiễm ở 
mức trung bình và 4 mẫu ở mức nặng. 
Nghiên cứu của Trần Thị Huệ Vân, nghiên 
cứu tỉ lệ nhiễm giun móc/mỏ và yếu tố liên 
quan của người dân trong độ tuổi 15-65 tại xã 
Bến Củi, Dương Minh Châu, Tây Ninh, năm 
2012. Nghiên cứu cắt ngang, 329 người 15 - 65 
tuổi tại xã Bến Củi, huyện Dương Minh Châu, 
tỉnh Tây Ninh. 93,07% có cường độ nhiễm nhẹ, 
5,94% nhiễm trung bình, 0,99% nhiễm nặng(3). 
Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hương: Tình 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 122
hình nhiễm các bệnh giun truyền qua đất ở 
học sinh tiểu học tại tỉnh Cao Nguyên Lâm 
Đồng. Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành 
tại 5 trường tiêu học của 5 xã thuộc huyện Đức 
Trọng, Lâm Đồng. Có 367 học sinh tiểu học 
tham gia xét nghiệm phân, 100% học sinh 
nhiễm giun với cường độ nhiễm nhẹ(1). 
Kết quả tẩy giun ở cộng đồng 
Tổng số 900 người tham gia tẩy giun bằng 
thuốc mebendazole 500mg với liều duy nhất. 
Kết quả sau 6 tháng và 12 tháng tẩy giun, tỉ lệ 
nhiễm giun truyền qua đất đã giảm như sau 
(Bảng 4 và Hình 1): 
Giun đũa 
Trước lúc tẩy giun 1,00% (7/699), sau 6 tháng 
tẩy giun tỉ lệ nhiễm giun đũa đã giãm xuống còn 
0,14% (1/700), sau 12 tháng tẩy giun tỉ lệ nhiễm 
giun tăng lên 0,29% (2/700). 
Giun tóc 
Trước lúc tẩy giun 0,72% (5/699), sau 6 tháng 
tẩy giun tỉ lệ nhiễm giun tóc xuống 0% (0/700), 
sau 12 tháng tẩy giun vẫn không phát hiện 
trường hợp nhiễm giun tóc (0/700). 
Giun móc/mỏ 
Trước lúc tẩy giun 9,59% (67/699), sau 6 
tháng tẩy giun tỉ lệ nhiễm giun móc/mỏ giảm 
xuống chỉ còn 1,57% (11/700), sau 12 tháng tẩy 
giun tỉ lệ nhiễm giun móc/mỏ là 1,71% (12/700). 
Nhìn chung tỉ lệ nhiễm trước lúc tẩy giun 
của loài giun đũa và giun tóc thấp chỉ 7/699 mẫu 
nhiễm giun đũa và 5/699 mẫu nhiễm giun tóc 
nên khi sử dụng biện pháp tẩy giun dựa vào 
cộng đồng hiệu quả thấp. Trong khi đó tỉ lệ 
nhiễm giun móc/mỏ trước lúc tẩy giun 67/699 
mẫu cao hơn giun tóc và giun nên khi áp dụng 
biện pháp tẩy giun dựa vào cộng đồng thì kết 
quả cho thấy hiệu quả cao. Từ đó, có thể kết luận 
quy trình tẩy giun dựa vào cộng đồng này có 
hiệu rất cao khi áp dụng vào những vùng lưu 
hành giun truyền đất và vùng có tỉ lệ nhiễm 
giun cao. 
Kết quả ở Bảng 2 và Bảng 5, cho thấy cường 
độ nhiễm giun truyền qua đất sau khi tẩy giun 
đã giảm: 
Trước lúc tẩy giun 
Có 79/699 mẫu phân nhiễm giun truyền qua 
đất. Trong đó giun đũa 7/699 mẫu với 100,00% 
(7/7) cường độ nhiễm nhẹ, giun tóc 5/699 mẫu 
với 100,00% (5/5) cường độ nhiễm nhẹ, giun 
móc/mỏ 67/699 với 66% (46/67) cường độ nhiễm 
nhẹ, 25,37% (17/67) cường độ nhiễm trung bình, 
5,97% (4/67%) cường độ nhiễm nặng. 
Sau tẩy giun 6 tháng 
Có 12/700 mẫu phân nhiễm giun truyền qua 
đất. Trong đó giun đũa 1/700 mẫu với 100,00% 
(1/1) cường độ nhiễm nhẹ, giun tóc 0/700 mẫu, 
giun móc/mỏ 11/700 với 100,00% (11/11) cường 
độ nhiễm nhẹ. 
Sau tẩy giun 12 tháng 
Có 14/700 mẫu phân nhiễm giun truyền qua 
đất. Trong đó giun đũa 2/700 mẫu với 100,00% 
(2/2) cường độ nhiễm nhẹ, giun tóc 0/700 mẫu, 
giun móc/mỏ 12/700 mẫu với 100,00% (12/12) 
cường độ nhiễm nhẹ. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ nhiễm giun trước tẩy giun là 11,30% 
(79/699), cường độ nhiễm giun trước tẩy giun ở 
mức độ nhiễm nặng 4/699 mẫu (chỉ có giun 
móc/mỏ), trung bình 17/699 mẫu (giun móc/mỏ), 
nhẹ 58/699 mẫu (giun đũa 7/699 mẫu, giun tóc 
5/699 mẫu, giun móc/mỏ 46/699 mẫu). 
Tỉ lệ nhiễm giun sau 6 tháng tẩy giun giảm 
xuống còn 1,71% (12/700). Trong đó giun đũa 
0,14% (1/700) với 100% (1/1) nhiễm nhẹ, giun tóc 
0% (0/700), giun móc/mỏ 1,57% (11/700) với 
100% (11/11) nhiễm nhẹ; Tỉ lệ nhiễm giun truyền 
qua đất sau 12 tháng tẩy giun là 2,00% (14/700). 
Trong đó giun đũa 0,29% (2/700) với 100% (2/2) 
nhiễm nhẹ, giun tóc 0% (0/700), giun móc/mỏ 
1,71% (12/700) với 100% (12/12) nhiễm nhẹ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thu Hương, Nguyễn Lương Tỉnh (2012). Tình hình 
nhiễm các bệnh giun truyền qua đất ở ;học sinh tiểu học tại tỉnh 
Cao Nguyên Lâm Đồng. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các 
bệnh ký sinh trùng, số 5. 
2. Silver ZA, Kaliappan SP, Samuel P, et al (2018). Geographical 
distribution of soil transmitted helminths and the effects of 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 123
community type in South Asia and South East Asia – A 
systematic review. PLoS Negl Trop Dis, 12(1):e0006153. 
3. Trần Thị Huệ Vân, Trần Thị Kim Chi, Lê Thị Xuân, Phan Anh 
Tuấn, Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Văn Tiến (2015). Nghiên 
cứu tỉ lệ nhiễm giun móc/mỏ và yếu tố liên quan của người dân 
trong độ tuổi 15-65 tại xã Bến Củi, huyện Dương Minh Châu, 
tỉnh Tây Ninh, năm 2012. Tạp chí Phòng chống bệnh sốt rét và các 
bệnh ký sinh trùng, số 6. 
4. Van der Hoek W, Nguyen Van De, Konradsen F, Phung Dac 
Cam, Nguyen Thi Viet Hoa, Nguyen Duy Toan and Le Dinh 
Cong (2003) Urrent status of soil-transmitted helminths in 
Vietnam. Southeast Asian journal of Tropical Medicine and Public 
Health, 34(S1):1-11. 
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_quy_trinh_tay_giun_dua_vao_cong_dong.pdf