Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả và an toàn của can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu

thuật ung thư dạ dày.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, 60 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật cắt dạ dày

do ung thư tại khoa ngoại II bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ tháng 1 đến tháng 9/2020 được chia làm 2

nhóm: nhóm can thiệp dinh dưỡng và nhóm điều trị thường quy.

Kết quả: Nhóm can thiệp dinh dưỡng ít sụt cân hơn sau mổ (-1,9kg vs -5kg lúc xuất viện, -1,6kg vs -

7,8kg lúc 1 tháng sau mổ, p < 0,05); phục hồi các chỉ số dinh dưỡng như sức cơ, albumin, hemoglobin,

lympho bào tốt hơn ở 1 tháng sau mổ; thời gian phục hồi lưu thông ruột sau mổ sớm hơn (65 giờ vs 82

giờ, p = 0,045); rút ngắn thời gian nằm viện hậu phẫu 1,5 ngày so với nhóm chứng. Tỉ lệ kém dung nạp

nuôi ăn sớm cao hơn ở nhóm can thiệp (20% vs 0%) nhưng đều được điều trị nội khoa ổn định. Nuôi ăn

sớm không làm tăng biến chứng hậu phẫu.

Kết luận: Can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày đem lại hiệu quả rõ ràng

và an toàn.

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày trang 1

Trang 1

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày trang 2

Trang 2

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày trang 3

Trang 3

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày trang 4

Trang 4

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày trang 5

Trang 5

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày trang 6

Trang 6

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày trang 7

Trang 7

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày trang 8

Trang 8

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 8500
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày

Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 430 
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP DINH DƯỠNG 
TRÊN BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT UNG THƯ DẠ DÀY 
ĐÀO ĐỨC MINH1, ĐỖ NGỌC PHƯƠNG2, TRẦN THỊ ANH TƯỜNG3, PHẠM HÙNG CƯỜNG4 
Địa chỉ liên hệ: Đào Đức Minh 
Email: bsdaoducminh@gmail.com 
Ngày nhận bài: 07/10/2020 
Ngày phản biện: 03/11/2020 
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 
1 ThS.BSCKII Khoa Ngoại Ngực - Bụng-Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
2 BSCKI. Khoa Ung Bướu-Bệnh viện Đa khoa Tư nhân Triều An 
3 ThS.BSCKII. Trưởng Khoa Dinh dưỡng - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
4 PGS.TS. Trưởng Khoa Ngoại Ngực - Bụng-Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư dạ dày (UTDD) là một trong những 
bệnh ung thư phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt 
Nam. Đây là loại ung thư có tử suất cao. Cho đến 
nay, đã có nhiều tiến bộ trong điều trị, nhưng phẫu 
thuật vẫn là phương thức điều trị chủ yếu cho bệnh 
nhân UTDD ở giai đoạn sớm. 
Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng với bệnh 
nhân phẫu thuật ung thư, đặc biệt là ung thư đường 
tiêu hóa. Nhiều nghiên cứu cho thấy việc cung cấp 
dinh dưỡng không đầy đủ cho bệnh nhân sẽ làm ảnh 
hưởng đến kết quả phẫu thuật như: tăng nguy cơ 
nhiễm trùng, chậm lành vết thương, kéo dài thời 
gian nằm viện và tăng chi phí điều trị[4]. Ngoài ra, 
điều này còn ảnh hưởng đến tái phát và sống còn do 
bệnh nhân kém dung nạp và tuân thủ điều trị hỗ trợ 
sau đó[3]. 
Can thiệp dinh dưỡng là một phần quan trọng 
trong chương trình phục hồi sớm sau phẫu thuật 
(Enhance Recovery After Surgery: ERAS). Đây là 
một chương trình can thiệp chu phẫu với sự hợp lực 
nhiều chuyên khoa, mục đích là giúp cho bệnh nhân 
phục hồi tốt nhất sau cuộc mổ. ERAS bắt đầu triển 
khai trên thế giới từ năm 2010 cho ung thư đại tràng 
và năm 2014 ứng dụng cho ung thư dạ dày[10]. 
Chăm sóc dinh dưỡng trong ERAS bao gồm: tư vấn 
và hỗ trợ dinh dưỡng, nạp Carbohydrate (CHO) 
trước mổ, nuôi ăn sớm sau mổ[9]. Can thiệp dinh 
dưỡng chu phẫu đã làm thay đổi kết quả điều trị ung 
thư dạ dày,đặc biệt là ở nhóm bệnh nhân suy dinh 
dưỡng[2],[16]. 
Trên thế giới,can thiệp dinh dưỡng chu phẫu đã 
được chứng minh an toàn, hiệu quả[13],[14] và được 
khuyến cáo từ các hiệp hội dinh dưỡng Châu Âu, 
Châu Mỹ[10],[15]. 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả và an toàn của can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu 
thuật ung thư dạ dày. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, 60 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật cắt dạ dày 
do ung thư tại khoa ngoại II bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ tháng 1 đến tháng 9/2020 được chia làm 2 
nhóm: nhóm can thiệp dinh dưỡng và nhóm điều trị thường quy. 
Kết quả: Nhóm can thiệp dinh dưỡng ít sụt cân hơn sau mổ (-1,9kg vs -5kg lúc xuất viện, -1,6kg vs -
7,8kg lúc 1 tháng sau mổ, p < 0,05); phục hồi các chỉ số dinh dưỡng như sức cơ, albumin, hemoglobin, 
lympho bào tốt hơn ở 1 tháng sau mổ; thời gian phục hồi lưu thông ruột sau mổ sớm hơn (65 giờ vs 82 
giờ, p = 0,045); rút ngắn thời gian nằm viện hậu phẫu 1,5 ngày so với nhóm chứng. Tỉ lệ kém dung nạp 
nuôi ăn sớm cao hơn ở nhóm can thiệp (20% vs 0%) nhưng đều được điều trị nội khoa ổn định. Nuôi ăn 
sớm không làm tăng biến chứng hậu phẫu. 
Kết luận: Can thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày đem lại hiệu quả rõ ràng 
và an toàn. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 431 
Tại Bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí 
Minh, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu 
nào về can thiệp dinh dưỡng chu phẫu cho bệnh 
nhân ung thư. 
Xuất phát từ nhận định trên, chúng tôi mong 
muốn thực hiện đề tài này nhằm mục đích đánh giá 
hiệu quả và an toàn của can thiệp dinh dưỡng trên 
bệnh nhân phẫu thuật ung thư dạ dày. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Địa điểm nghiên cứu 
Khoa Ngoại II Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM. 
Thời gian nghiên cứu: 01/01/2020 đến 30/9/2020. 
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân ung thư dạ dày, 
có chỉ định phẫu thuật cắt dạ dày với các tiêu chuẩn 
như sau: 
Tiêu chuẩn chọn 
Phẫu thuật cắt dạ dày không kèm theo cắt tạng 
lân cận (ruột non, đại tràng, tụy). 
Tuổi ≤ 80. 
ASA ≤ 3. 
Bệnh nhân tỉnh táo, sáng suốt, có người nhà 
nuôi, đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Có thai. 
Suy gan, suy tim, suy hô hấp, suy thận. 
Tiểu đường. 
Hẹp môn vị. 
Bệnh nhân mổ cấp cứu cắt dạ dày. 
Dị ứng lactose. 
Thiết kế nghiên cứu: Tiền cứu, can thiệp lâm sàng 
có nhóm chứng. 
Nhóm 1: Nhóm can thiệp dinh dưỡng (n = 30). 
Nhóm 2: Nhóm chứng (n = 30). 
Quy trình nghiên cứu 
Bước 1: Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn được nhận vào 
nghiên cứu chia làm 2 nhóm. 
Bước 2: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng (theo 
PGSGA), năng lượng và đạm trong khẩu phần ăn 
/24 giờ (Cả 2 nhóm). 
Bước 3: Tư vấn dinh dưỡng trước mổ (nhóm can 
thiệp) 
Bệnh nhân không suy dinh dưỡng: Bác sĩ dinh 
dưỡng tư vấn và hướng dẫn chế độ ăn để bệnh 
nhân ăn uống đủ nhu cầu (năng lượng 
30 - 35kcal/kg/ngày; đạm 1,5 - 2g/kg/ngày). 
Bệnh nhân suy dinh dưỡng: Bác sĩ dinh dưỡng 
tư vấn chế độ ăn và bổ sung dinh dưỡng đường 
miệng, nuôi tĩnh mạch hỗ trợ khi bệnh nhân ăn không 
đủ nhu cầu (≤ 60%). Tất cả bệnh nhân đều được 
sử dụng dinh dưỡng miễn dịch 5 ngày trước mổ. 
Bước 4: Nạp Carbohydrate trước mổ (nhóm can 
thiệp). 
Đêm trước mổ: Bệnh nhân uống 500ml 
Maltodextrin 20% (#100g). 
2 giờ trước mổ: Bệnh nhân uống 250ml 
Maltodextrin 20% (# 50g). 
Bước 5: 
Nhóm chứng: Điều trị thường quy sau mổ 
Rút sonde mũi dạ dày hậu phẫu 2. 
Bắt đầu cho ăn sau khi bệnh nhân trung tiện. 
Truyền dịch từ hậu phẫu 1 - 4: Lactase Ringer 
1000ml, Glucose 5% 1000ml. 
Nhóm can thiệp: Nuôi ăn sớm sau mổ 
Trong vòng 24 - 48 giờ rút sonde mũi dạ dày và 
bắt đầu nuôi ăn qua đường miệng bất kể bệnh nhân 
có trung tiện hay chưa, kết hợp tập vật lý trị liệu. 
Chế độ ăn do khoa dinh dưỡng thiết kế và cung cấp. 
Nuôi tĩnh mạch có tính toán bằng hỗn hợp 3 dung 
dịch đạm, đường, béo đối  ... 2,8 
8,1 ± 3,9 
28,4 ± 8,0 
1158 ± 491 
48,4 ± 17,3 
12.8 ± 2,5 
2307 ± 670 
41,6 ± 3,3 
53,1 ± 5,6 
58 ± 9,8 
4/1 
4.3 ± 3,2 
23 (77,6%) 
4,9 ± 1,8 
20 (66,7%) 
1 (3,3%) 
4 (13,3%) 
20 (66,7%) 
5 (16,7%) 
26 
4 
56,5 ± 10,1 
21 ± 3,2 
8,4 ± 3,6 
30,4 ± 7,7 
1268 ± 451 
56,5 ± 16,1 
12,5 ± 2,3 
2504 ± 744 
41,1 ± 4,0 
53,6 ± 5,9 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 433 
Tình hình nuôi dưỡng sau phẫu thuật 
Hình 1. Năng lượng cung cấp theo ngày hậu phẫu 
Hình 2. Lượng đạm cung cấp theo ngày hậu phẫu 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 434 
Kết quả điều trị 
Sự thay đổi các chỉ số dinh dưỡng trước và sau can thiệp 
Bảng 2. Sự thay đổi các chỉ số dinh dưỡng lúc nhập viện và xuất viện 
Chỉ số dinh dưỡng Nhóm can thiệp Nhóm chứng p 
Cân nặng 
Sức cơ 
Hemoglobin 
Tế bào lympho 
Albumin 
-1,9 ± 1,5 
0,5 ± 2,9 
-1,4 ± 1,3 
-759 ± 532 
-7,7 ± 3,6 
-5 ± 2,3 
-4 ± 2,5 
 -2,3 ± 1,1 
-1009 ± 600 
-9,4 ± 3 
< 0,05 
< 0,05 
< 0,05 
< 0,05 
< 0,05 
Bảng 3. Sự thay đổi các chỉ số dinh dưỡng lúc nhập viện và sau 1 tháng 
Chỉ số dinh dưỡng Nhóm can thiệp Nhóm chứng p 
Cân nặng 
Sức cơ 
Hemoglobin 
Tế bào lympho 
Albumin 
-1,6 ± 2,4 
2,0 ± 3,5 
-0,7 ±1,4 
-32 ± 550 
-1,2 ± 2,7 
-7,8 ± 3,1 
-4,4 ± 3,2 
-1,7 ± 1,2 
-633 ± 578 
-7 ± 2,7 
< 0,05 
< 0,05 
< 0,05 
< 0,05 
< 0,05 
Sự thay đổi năng lượng khẩu phần ăn và lượng đạm trong 24 giờ lúc một tháng so với nhập viện 
Hình 3. Sự thay đổi năng lượng khẩu phần ăn lúc nhập viện và một tháng 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 435 
Hình 4. Sự thay đổi lượng đạm trong khẩu phần ăn lúc nhập viện và một tháng 
Sự thay đổi kết quả điều trị hậu phẫu 
Bảng 4. Kết quả điều trị hậu phẫu 
 Nhóm can thiệp Nhóm chứng p 
Thời gian phục hồi lưu thông ruột (giờ) 65,5 ± 7,5 81,8 ± 10,5 0,045 
Thòi gian nằm viện hậu phẫu (ngày) 6,2 ± 0,4 7,7 ± 0,6 0,026 
Sự an toàn của can thiệp dinh dưỡng chu phẫu 
Biến chứng hậu phẫu 
Trong nghiên cứu này, cả 2 nhóm đều không có 
trường hợp nào bị xì miệng nối, nhiễm trùng ổ bụng 
hay viêm phổi hít sặc. 
Không có trường hợp nào bị nhiễm trùng vết 
mổ, tắc ruột sớm sau mổ, hay các biến chứng khác. 
Không có tử vong trong nghiên cứu. 
Sự kém dung nạp đường tiêu hóa 
Theo thang điểm I-FEED[6], trong 30 trường hợp 
nhóm can thiệp nuôi ăn sớm có 24 trường hợp 
(80%) dung nạp tốt (0 - 2 điểm), 5 trường hợp dung 
nạp trung bình (3 - 5 điểm) và một trường hợp dung 
nạp kém (≥6 điểm). Ở nhóm chứng 100% dung nạp 
tốt ở thời điểm bắt đầu cho ăn đường miệng. Sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Bảng 5. Sự kém dung nạp nuôi ăn đường miệng 
sau phẫu thuật 
Tổng điểm I-
FEED 
Nhóm can 
thiệp Nhóm chứng p 
0 - 2 24 (80%) 30 (100%) 
< 0,05 3 - 5 5 (16,7%) 0 
≥ 6 1 (3,3%) 0 
BÀN LUẬN 
Hiệu quả của can thiệp dinh dưỡng 
Sự cải thiện các chỉ số dinh dưỡng 
Cân nặng 
Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận tình 
trạng sụt cân sau mổ diễn ra ở cả 2 nhóm, tuy nhiên 
nhóm can thiệp sụt cân ít hơn. Cân nặng trung bình 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 436 
lúc xuất viện ở nhóm can thiệp giảm 1,9kg, trong khi 
đó cân nặng ở nhóm chứng giảm 5kg so với lúc 
nhập viện. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p < 0,05). 
Sau một tháng, cân nặng trung bình ở nhóm 
can thiệp tiếp tục giảm 1,6kg so với lúc nhập viện 
trong khi ở nhóm chứng giảm đến 7,8kg. Và sự khác 
biệt này cũng có ý nghĩa (p <0,05). 
Qua đó, chúng tôi nhận thấy can thiệp dinh 
dưỡng chu phẫu là có hiệu quả. Hiệu quả này đến từ 
ba yếu tố: tư vấn hỗ trợ dinh dưỡng trước mổ, nuôi 
ăn sớm sau mổ và tư vấn hướng dẫn chế độ ăn lúc 
xuất viện. Kết quả này cũng phù hợp với nhiều 
nghiên cứu trên thế giới. Theo nghiên cứu của 
Ohkura, nhóm bệnh nhân được can thiệp dinh 
dưỡng sau mổ sẽ giảm sụt cân ở thời điểm sau một 
tháng có ý nghĩa so với nhóm chứng (p= 0,012)[12]. 
Sức cơ 
Sức cơ trung bình tính theo nhóm tuổi và giới 
nhưng trong nghiên cứu này do nhóm tuổi và giới 
của 2 nhóm người bệnh tương đồng nên chúng tôi 
lấy chỉ số trung bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
sức cơ trung bình lúc xuất viện ở nhóm can thiệp 
không thay đổi trong khi ở nhóm chứng giảm so với 
lúc nhập viện. Sau một tháng, sức cơ của nhóm can 
thiệp đã cải thiện, tăng nhẹ trong khi nhóm chứng 
vẫn giảm. Sự khác biệt giữa 2 nhóm có ý nghĩa 
(p <0,05). Kết quả cũng tương đồng với nghiên cứu 
của Keele. Tác giả đã nghiên cứu trên 86 bệnh nhân 
có đại phẫu vùng bụng được bổ sung dinh dưỡng 
qua đường miệng trong thời gian nằm viện cho thấy, 
ở nhóm can thiệp sức cơ giảm vào ngày hậu phẫu 3 
nhưng lúc xuất viện sẽ phục hồi như trước mổ, trong 
khi ở nhóm chứng sức cơ giảm có ý nghĩa trong 
suốt thời gian nằm viện (p <0,01)[11]. 
Các chỉ số xét nghiệm máu 
Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận, sau 
phẫu thuật cả 2 nhóm đều có giảm hemoglobin, tế 
bào lympho và albumin. Nhóm can thiệp giảm ít hơn 
nhưng không có ý nghĩa (p > 0,05). Tuy nhiên, sau 
một tháng các chỉ số xét nghiệm ở 2 nhóm bắt đầu 
hồi phục và nhóm can thiệp hồi phục tốt hơn có ý 
nghĩa so với nhóm chứng (p < 0,05). Nhiều nghiên 
cứu cũng cho thấy các chỉ số hemoglobin, tế bào 
lymho và albumin thường bắt đầu hồi phục sau một 
tháng, ổn định 6 tháng đến 2 năm sau phẫu thuật cắt 
dạ dày[7]. 
Sự cải thiện thời gian phục hồi lưu thông ruột và 
thời gian nằm viện 
Thời gian phục hồi lưu thông ruột 
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận thời gian 
trung tiện trung bình ở nhóm can thiệp là 65 giờ và ở 
nhóm chứng là 82 giờ. Sự khác biệt này có ý nghĩa 
thống kê (p = 0,045). Kết quả nghiên cứu của Hur và 
cộng sự thì thời gian trung tiện ở nhóm có can thiệp 
dinh dưỡng sau mổ là 1,9 ngày so với nhóm chứng 
là 2,9 ngày, giảm có ý nghĩa (p = 0,036) [8] 
Thời gian nằm viện 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian nằm 
viện ở nhóm can thiệp là 6,2 ngày, nhóm chứng là 
7,7 ngày. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p = 0,026). Theo Zhang B và cộng sự, phân tích 
hậu kiểm 56 nghiên cứu trên 6370 bệnh nhân có can 
thiệp dinh dưỡng cho thấy thời gian nằm viện trung 
bình giảm 1,58 ngày[16]. 
Sự an toàn của can thiệp dinh dưỡng chu phẫu 
Biến chứng liên quan can thiệp dinh dưỡng 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cho bệnh nhân 
nhóm can thiệp uống 250ml Maltodextrin 20% 2 giờ 
trước khởi mê. Chúng tôi hoàn toàn không ghi nhận 
các biến chứng có liên quan.Một phân tích gộp gồm 
7 nghiên cứu của tác giả Bilku và cộng sự đã chỉ ra 
rằng thể tích và độ pH của dịch dạ dày gần như 
giống hệt nhau giữa nhóm nhịn đói và nhóm cho 
uống đến 2 giờ trước mổ[1]. 
Theo sinh lý, thời gian để ruột non có nhu động 
trở lại sau phẫu thuật là 6 - 12 giờ, dạ dày là 12 - 24 
giờ, và đại tràng là 48 - 120 giờ. Vì vậy có thể cho 
ăn bằng đường miệng từ 12 - 48 giờ sau mổ khi dạ 
dày bắt đầu hoạt động trở lại[5]. Chúng tôi ghi nhận 
thời gian rút ống thông mũi dạ dày ở 2 nhóm tương 
đương nhau (43 giờ), tuy nhiên sau rút ống, nhóm 
can thiệp chúng tôi bắt đầu cho bệnh nhân ăn lại 
bằng đường miệng ngay trong khi ở nhóm chứng 
tiếp tục nhịn và chỉ bắt đầu ăn đường miệng khi có 
trung tiện (trung bình là 107 giờ). Sự khác biệt này 
có ý nghĩa (p <0,05). Chúng tôi cũng không ghi nhận 
trường hợp nào có biến chứng hậu phẫu liên quan 
đến nuôi ăn sớm như xì dò miệng nối, nhiễm trùng ổ 
bụng. Ở nhóm can thiệp có 4 trường hợp phẫu thuật 
cắt toàn bộ dạ dày, chúng tôi vẫn thực hiện nuôi ăn 
sớm an toàn. 
Sự dung nạp nuôi ăn sớm 
Sau phẫu thuật, bệnh nhân ở nhóm can thiệp 
bắt đầu cho ăn đường miệng trung bình là 43 giờ 
trong khi ở nhóm chứng bệnh nhân bắt đầu cho ăn 
sau khi có trung tiện, thời gian trung bình là 107 giờ. 
Chúng tôi ghi nhận và xử trí các trường hợp kém 
dung nạp với nuôi ăn sớm theo thang điểm I-FEED. 
Ở nhóm can thiệp, chúng tôi ghi nhận có 6 trường 
hợp kém dung nạp (chiếm tỉ lệ 20%), trong đó 5 
trường hợp dung nạp trung bình (3 - 5 điểm) và 1 
trường hợp dung nạp kém. Đối với những trường 
hợp dung nạp trung bình, chúng tôi cho bệnh nhân 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 437 
tạm nhịn ăn từ 12 - 24 giờ, điều trị chống nôn, sau 
đó tiếp tục nuôi ăn lại dần dần. Riêng 1 trường hợp 
dung nạp kém, chướng bụng nhiều kèm nôn ói, 
chúng tôi đặt thông mũi dạ dày giải áp 24 giờ, điều 
trị thuốc chống nôn, khi bệnh nhân ổn định rút thông 
dạ dày và nuôi ăn trở lại. Ở nhóm chứng không có 
trường hợp nào kém dung nạp theo thang điểm I-
FEED. Sự khác biệt giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống 
kê (p = 0,00). Nhìn chung các trường hợp trong 
nhiên cứu của chúng tôi đều dung nạp tốt với nuôi 
ăn sớm (80%), những trường hợp kém dung nạp 
(20%) đa số ở mức độ trung bình, nhanh chóng cải 
thiện với điều trị và tiếp tục nuôi ăn sau đó. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy can 
thiệp dinh dưỡng trên bệnh nhân phẫu thuật ung thư 
dạ dày là có hiệu quả (giảm sụt cân sau mổ, cải 
thiện sức cơ, trung tiện sớm hơn, rút ngắn thời gian 
nằm viện) và an toàn (không làm tăng biến chứng 
hậu phẫu). Vì vậy, chúng tôi đề xuất áp dụng can 
thiệp dinh dưỡng chu phẫu thường quy vào thực 
hành lâm sàng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bilku DK, Dennison AR, Hall TC, Metcalfe MS, 
Garcea G (2014), “Role of preoperative 
carbohydrate loading: A systematic review”, Ann 
R Coll Surg Engl, 96, pp.15-22. 
2. Choi WJ, Kim J (2016), “Nutritional Care of 
Gastric Cancer Patients with Clinical Outcomes 
and Complications: A Review”, Clin Nutr Res, 5, 
pp.65-78. 
3. Fujiya K, Kawamura T, Omae K et al (2018), 
“Impact of Malnutrition After Gastrectomy for 
Gastric Cancer on Long-Term Survival”, Ann 
Surg Oncol, 25, pp.974-983. 
4. Fukuda Y, Yamamoto K, Hirao M et al (2015), 
“Prevalence of malnutrition among gastric cancer 
patients undergoing gastrectomy and optimal 
preoparative nutritional support for preventing 
surgical site infections”, Ann Surg Oncol, 22 (3), 
pp.778-785. 
5. Fukushima R (2018), “ERAS for Gastric 
Surgery”, Springer Nature Singapore, chapter 9, 
pp.93-100. 
6. Hedrick TL, McEvoy MD, Mythen MG et al 
(2018), “American society for enhanced recovery 
and perioperative quality initiative joint 
consensus statement on postoperative 
gastrointestinal dysfunction within an enhanced 
recovery pathway for elective colorectal surgery”, 
Anesth Analg, 126(6), pp.1896-1907. 
7. Heneghan HM, Zaborowski A, Fanning M et al 
(2015), “Prospective study of malabsorption and 
malnutrition after esophageal and gastric cancer 
surgery”, Annals of Surgery, 262(5), pp.803-808 
8. Hur H, Kim SG, Shim JH, Song KY, Kim W, Park 
CH, et al (2011), “Effect of early oral feeding 
after gastric cancer surgery: a result of 
randomized clinical trial ”, Surgery, 149, pp.561-
568. 
9. Mariette C (2015), “Role of the nutritional support 
in the ERAS programme”, J Visc Surg, 152(1), 
pp.18-20. 
10. Mortensen K, Nilsson M, Slim K et al (2014), 
“Consensus guidelines for enhanced recovery 
after gastrectomy: Enhanced Recovery After 
Surgery (ERAS®) Society recommendations”, Br 
J Surg, 101, pp.1209-1229. 
11. Norman K, Stobaus N, Gonzalez MC et al 
(2011), “Hand grip strength: Outcome predictor 
and marker of nutritional status”, Clinical 
Nutrition, 30, pp.135-142. 
12. Ohkura Y, Haruta S, Tanaka T, Ueno M, 
Udagawa H (2016), “Effectiveness of 
postoperative elemental diet in elderly patients 
after gastrectomy”World J Surg Oncol, 14(1), 
pp.268. 
13. Selby LV, Rifkin MB, Yoon S et al (2016), 
“Decreased length of stay and earlier oral 
feeding associated with standardised 
postoperative clinical care for total gastrectomies 
at a cancer center”, J Surg, 160(3), pp.607-612. 
14. Vavricka SR and Greuter T (2019), 
“Gastroparesis and Dumping Syndrome: Current 
Concepts and Management”, Journal of Clinical 
Medicine, 8, pp.1-10. 
15. Wischmeyer PE, Carli Franco, Evans DC et al 
(2018), “American Society for Enhanced 
Recovery and Perioperative Quality Initiative 
Joint Consensus Statement on Nutrition 
Screening and Therapy Within a Surgical 
Enhanced Recovery Pathway”, Anesth Analg, 
126(6), pp.1883-1895. 
16. Zhang B, Najarali Z, Ruo L et al (2019), “Effect of 
Perioperative Nutritional Supplementation on 
Postoperative Complications-Systematic Review 
and Meta-Analysis”, J Gastrointestinal Surg, 
23(8), pp.1682-1693. 
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 
 438 
ABSTRACT 
Objectives: To evaluate the efficacy and safety of nutritional interventions in patients with gastric cancer 
surgery. 
Subjects and methods: Prospective, 60 patients indicated for cancer gastrectomy at the 2nd Surgery 
Department of Ho Chi Minh City Oncology Hospital from January to September 2020 divided into 2 groups: 
Nutrition intervention group and conventional treatment group. 
Results: Nutritional intervention group lost less weight after surgery (-1.9kg vs -5kg at discharge, -1.6kg vs 
-7.8kg at 1 month postoperative, p < 0.05); better nutritional indicators such as hand grip strength, albumin, 
hemoglobin, lymphocytes were restored in 1 month after surgery; recovery time of intestinal circulation after 
surgery earlier (65 hours vs 82 hours, p = 0.045); Shortened postoperative hospital stay by 1.5 days compared 
to the control group. The rate of early oral feeding intolerance was higher in the intervention group (20% vs 0%) 
but was well controlled with medical treatment. Early oral feeding does not increase postoperative 
complications. 
Conclusion: Nutritional intervention in patients with gastric cancer surgery is efficacious and safe. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_can_thiep_dinh_duong_tren_benh_nhan_phau_t.pdf