Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn

Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi

đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn. Đối tượng và phương pháp:

Nghiên cứu quan sát mô tả cắt ngang trên 14 cặp vợ chồng có chỉ định PGT-A từ 3 - 11/2020

tại Viện Mô phôi Lâm sàng Quân đội. Nuôi cấy phôi theo quy trình nuôi cấy đơn giọt. Kết quả:

Tuổi trung bình 35,71 ± 3,17, AMH trung bình 2,32 ng/ml, số nang thứ cấp trung bình: 12,07 ± 4,12,

tổng liều FSH dùng trong chu kỳ kích thích buồng trứng có kiểm soát: 2.578,57 ± 483,66 IU,

thời gian dùng FSH trung bình trong chu kỳ IVF: 10,14 ± 1,1 ngày, số phức hợp noãn nang chọc

hút được trung bình: 8,5 ± 4,55. Số noãn sau tách trung bình: 8,07 ± 3,87, noãn MII: 7,14 ± 3,63.

Hợp tử 2PN trung bình: 5,21 ± 2,94, tỷ lệ noãn MII trung bình: 89,84 ± 14,73%. Tỷ lệ thụ tinh:

73 ± 18%, tỷ lệ phôi phân cắt ngày 3: 98,41 ± 4,03%, tỷ lệ phôi nang: 58,08 ± 27,8%. Kết luận:

Việc nuôi cấy phôi đơn giọt có thể được tiến hành để phục vụ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ

không xâm lấn.

Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn trang 1

Trang 1

Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn trang 2

Trang 2

Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn trang 3

Trang 3

Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn trang 4

Trang 4

Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn trang 5

Trang 5

Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn trang 6

Trang 6

pdf 6 trang minhkhanh 6160
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn

Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2021 
40 
KHẢO SÁT TỶ LỆ PHÁT TRIỂN PHÔI NANG, PHÔI PHÂN CẮT 
TRONG ĐIỀU KIỆN NUÔI CẤY PHÔI ĐƠN GIỌT PHỤC VỤ 
CHẨN ĐOÁN DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ KHÔNG XÂM LẤN 
Hoàng Văn Ái1, Trịnh Thế Sơn1, Đặng Tiến Trường2 
 Nguyễn Thanh Tùng1, Quản Hoàng Lâm1 
 Nguyễn Thục Anh1, Lê Thanh Huyền1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy phôi 
đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn. Đối tượng và phương pháp: 
Nghiên cứu quan sát mô tả cắt ngang trên 14 cặp vợ chồng có chỉ định PGT-A từ 3 - 11/2020 
tại Viện Mô phôi Lâm sàng Quân đội. Nuôi cấy phôi theo quy trình nuôi cấy đơn giọt. Kết quả: 
Tuổi trung bình 35,71 ± 3,17, AMH trung bình 2,32 ng/ml, số nang thứ cấp trung bình: 12,07 ± 4,12, 
tổng liều FSH dùng trong chu kỳ kích thích buồng trứng có kiểm soát: 2.578,57 ± 483,66 IU, 
thời gian dùng FSH trung bình trong chu kỳ IVF: 10,14 ± 1,1 ngày, số phức hợp noãn nang chọc 
hút được trung bình: 8,5 ± 4,55. Số noãn sau tách trung bình: 8,07 ± 3,87, noãn MII: 7,14 ± 3,63. 
Hợp tử 2PN trung bình: 5,21 ± 2,94, tỷ lệ noãn MII trung bình: 89,84 ± 14,73%. Tỷ lệ thụ tinh: 
73 ± 18%, tỷ lệ phôi phân cắt ngày 3: 98,41 ± 4,03%, tỷ lệ phôi nang: 58,08 ± 27,8%. Kết luận: 
Việc nuôi cấy phôi đơn giọt có thể được tiến hành để phục vụ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ 
không xâm lấn. 
* Từ khóa: Nuôi cấy phôi đơn giọt; Thụ tinh ống nghiệm; niPGT; Chẩn đoán di truyền tiền 
làm tổ không xâm lấn. 
Investigation of Cleavage Rate and Blastulation Rate in Individual 
Embryo Culture for Non-invasive Pre-implantation Genetic Test 
Summary 
Objectives: To investigate the embryo’s development blastulation rate in individual embryo 
culture (single-droplet for each embryo) for non-invasive pre-implantation genetic test. 
Materials and methods: A cross-sectional descriptive observational study on 14 couples with 
indication of PGT-A from March 2020 to November 2020 at the Military of Institute Clinical 
Embryology and Histology. The embryos were cultured using a single-drop culture procedure. 
1Viện Mô phôi Lâm sàng Quân đội, Học viện Quân y 
2Bộ môn Giải phẫu, Học viện Quân y 
Người phản hồi: Trịnh Thế Sơn (trinhtheson@vmmu.edu.vn) 
 Ngày nhận bài: 25/02/2021 
 Ngày bài báo được đăng: 28/4/2021 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2021 
41 
Results: Mean age was 35.71 ± 3.17, mean AMH level was 2.32 ng/mL, mean number of antral 
follicle count was 12.07 ± 4.12. Total FSH dose used in controlled ovarian stimulation cycle was 
2,578.57 ± 483.66 IU, mean time of FSH administration was 10.14 ± 1.1 days, average number 
of aspirated oocyte corona complexes was 8.5 ± 4.55. Mean number of oocytes after 
denudation was 8.07 ± 3.87. MII oocyte was 7.14 ± 3.63. Mean 2PN zygote was 5.21 ± 2.94. 
Mean MII oocyte rate was 89.84 ± 14.73%. The fertilization rate was 73.0 ± 18%, day-3 
cleavage embryo rate was 98.41 ± 4.03%, blastulation rate was 58.08 ± 27.8%. Conclusion: 
Single-drop embryo culture might be performed in non-invasive pre-implantation genetic testing. 
* Keywords: Single-drop embryo culture; Individual embryo culture; In vitro fertilization; niPGT; 
Non-invasive pre-implantation genetic testing. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, xét nghiệm di truyền tiền làm 
tổ là xu hướng mới trong lĩnh vực hỗ trợ 
sinh sản. Đây là kỹ thuật chẩn đoán di 
truyền nhằm loại trừ những phôi bất thường 
về mặt di truyền trước khi cấy vào buồng 
tử cung người mẹ mà không cần sinh thiết. 
Các phương pháp thu thập mẫu xét nghiệm 
di truyền tiền làm tổ bao gồm: Sinh thiết 
thể cực, sinh thiết tế bào phôi của phôi 
phân cắt, sinh thiết tế bào lá nuôi của 
phôi nang. Để thu thập được các mẫu này, 
cần có một tác động cơ học (dùng kim 
đục thủng, hút và kéo), hoặc tác động hóa 
học (sử dụng acid tyrode làm thủng màng 
trong suốt), hoặc tác động vật lý (sử dụng 
laser hồng ngoại). Một số nghiên cứu cho 
rằng các tác động này gây ảnh hưởng 
đến sự phát triển phôi, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ 
trẻ sinh sống. Nghiên cứu của Kim (2012) 
cho thấy acid tyrode làm tỷ lệ thai lâm sàng, 
thai diễn tiến, tỷ lệ làm tổ thấp hơn đáng 
kể so với phương pháp cơ học [1]. Nhiều 
nghiên cứu đã chứng minh sinh thiết phôi 
bào ảnh hưởng tới sự phát triển phôi, sự 
làm tổ của phôi thai. Nghiên cứu của Scott 
(2013) cho thấy sinh thiết phôi bào người 
làm giảm tiềm năng của phôi, giảm 39% 
tỷ lệ thai lâm sàng so với nhóm không 
sinh thiết [2]. Các nghiên cứu hiện nay 
trên người mới chỉ đánh giá được biến 
chứng gần mà chưa đánh giá được biến 
chứng xa. 
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ không 
xâm lấn là một kỹ thuật chẩn đoán di truyền 
nhằm loại trừ những phôi bất thường về 
mặt di truyền trước khi cấy vào buồng tử 
cung người mẹ mà không cần sinh thiết. 
Năm 2013, Palini nghiên cứu lấy dịch 
nang của phôi trong quá trình thủy tinh 
hóa phôi và tiến hành Realtime PCR, thấy 
90% mẫu phôi có chứa DNA, mục đích để 
sàng lọc bệnh liên kết với nhiễm sắc thể 
giới tính qua phát hiện gen TSPY và TBC13 
[3]. Ngoài ra, Assou và CS nghiên cứu 
xác định cfDNA tồn tại trong dịch nuôi cấy 
(SCM) đủ lớn để xét nghiệm di truyền 
trước chuyển phôi [4]. Có 3 phương thức 
chính để thu thập DNA tự do bao gồm: 
Thu dịch phôi nang (BF); thu dịch nuôi cấy 
(SCM) và kết hợp thu dịch phôi nang và 
dịch nuôi cấy (BF + SCM). Thu dịch phôi 
nang được một số tác giả xem như là 
phương pháp xét nghiệm di truyền trước 
chuyển phôi ít xâm lấn (mini-invasive PGT). 
So với nuôi gộp phôi, sinh thiết phôi không 
xâm lấn cũng cần phải nuôi cấy phôi đơn 
giọt (1 phôi trong 1 giọt môi trường). 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục 
tiêu: Khảo sát tỷ lệ phát triển phôi nang, 
phôi phân cắt trong điều kiện nuôi cấy 
phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán di truyền 
tiền làm tổ không xâm lấn. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2021 
42 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
75 phôi từ 14 cặp vợ chồng được 
tuyển chọn theo phương pháp lấy mẫu 
thuận tiện, có chỉ định PGT-A, thời gian 
từ tháng 3 - 11/2020 tại Viện Mô phôi 
Lâm sàng Quân đội. 
* Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân có 
chỉ định làm PGT-A, có đủ hồ sơ và đồng 
ý tham gia nghiên cứu. 
* Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân không 
đồng ý tham gia nghiên cứu; quá trình 
thực hiện không tuân thủ đúng quy trình 
kỹ thuật. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
* Thiết kế nghiên cứu: Quan sát mô tả 
cắt ngang. 
* Quy trình nuôi cấy đơn giọt: 
- Hoàn thiện hồ sơ bệnh án, kích thích 
buồng trứng có kiểm soát bằng phác đồ 
GnRH/Antagonist, chọc hút noãn. 
- Tìm phức hợp noãn - nang, ủ noãn, 
loại bỏ tế bào nang bằng enzyme 
hyaluronidase. 
- Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn, 
theo dõi thụ tinh. 
- Đánh giá sự phát triển, hình thái phôi 
phân cắt tại ngày 3, rửa phôi, chuyển 
phôi sang môi trường nuôi cấy đơn giọt (15 
µl), hỗ trợ thoát màng bằng laser. 
- Đánh giá sự phát triển phôi nang và 
hình thái phôi (blastocyst) tại ngày 5 hoặc 
ngày 6. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Đặc điểm chung về mẫu nghiên cứu 
Tuổi trung bình của vợ là 35,71 ± 3,17, 
trẻ nhất 30 tuổi, lớn nhất 40 tuổi. Tuổi 
trung bình của chồng là 42,71 ± 5,06, trẻ 
nhất 34 tuổi, lớn nhất 52 tuổi. Thời gian 
vô sinh trung bình 4,86 ± 3,37 năm, ngắn 
nhất 1 năm, dài nhất 15 năm. Vô sinh 
nguyên phát gặp 2 trường hợp (14,29%), 
vô sinh thứ phát chiếm phần lớn (85,71%).
2. Đặc điểm về chu kỳ kích thích buồng trứng có kiểm soát cơ bản 
Bảng 1: Đặc điểm về chu kỳ kích thích buồng trứng có kiểm soát. 
Chỉ tiêu nghiên cứu 
 ± SD Nhỏ nhất Lớn nhất 
FSH ngày 2 CKK (mIU/ml) 7,41 ± 2,3 3,45 11,70 
LH ngày 2 CKK (mIU/ml) 6,49 ± 3,1 3,00 13,30 
AMH ngày 2 CKK (ng/ml) 2,32 ± 1,04 1,18 5,09 
Số nang AFC ngày 2 CKK 12,07 ± 4,12 8 23 
Tổng liều FSH sử dụng (IU) 2.578,57 ± 483,66 1.800 3.600 
Số ngày dùng FSH (ngày) 10,14 ± 1,1 8 12 
Nội tiết E2 ngày 8 CKK (pg/ml) 2.031,85 ± 756,83 840,9 2.918 
(CKK: Chu kỳ kinh, FSH: Follicle stimulating hormone, LH: Luteinizing hormone, 
E2: Estradiol, IU: International unit) 
Nồng độ FSH, LH trung bình trong ngưỡng bình thường của tham chiếu xét nghiệm. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2021 
43 
3. Kết quả noãn, phôi của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 2: Kết quả noãn, phôi của đối tượng nghiên cứu. 
Chỉ tiêu nghiên cứu 
 ± SD Nhỏ nhất Lớn nhất 
Số phức hợp noãn nang chọc được 8,5 ± 4,55 1 17 
Số noãn sau tách 8,07 ± 3,87 1 14 
Noãn GV 0,14 ± 0,53 0 2 
Noãn MI 0,5 ± 1,09 0 4 
Noãn M2 7,14 ± 3,63 1 12 
Noãn thoái hóa 0,36 ± 0,74 0 2 
Tỷ lệ noãn GV (%) 1,02 ± 3,82 0 14,28 
Tỷ lệ noãn MI (%) 5,37 ± 12,10 0 44,44 
Tỷ lệ noãn MII (%) 89,84 ± 14,73 55,55 100,00 
Tỷ lệ noãn thoái hóa (%) 4,56 ± 10,31 0 33,33 
Số noãn ICSI 7,21 ± 3,72 1 12 
Hợp tử 2PN 5,21 ± 2,94 1 10 
Số phôi phân cắt ngày 3 5,29 ± 2,70 1 10 
Số phôi nang 2,93 ± 1,69 0 6 
Tỷ lệ thụ tinh (%) 73,0 ± 18,0 42,85 100 
Tỷ lệ phôi phân cắt ngày 3 (%) 98,41 ± 4,03 88,88 100 
Tỷ lệ tạo phôi nang (%) 58,08 ± 27,80 0 100 
(GV: Noãn túi nhân, MI: Noãn gian kỳ I, MII: Noãn gian kỳ II, ICSI: Tiêm tinh trùng 
vào bào tương noãn, 2PN: Hợp tử 2 tiền nhân) 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ 
lệ thụ tinh trung bình là 73 ± 18%. Ebner 
và CS (2010) ghi nhận tỷ lệ thụ tinh ở 
nhóm ICSI là 80,7%, ở nhóm IVF là 69%. 
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của 
chúng tôi là 35,71 ± 3,17, cao hơn nghiên 
cứu của Ebner và CS (31,6 năm). Trong 
khi đó, chỉ số AMH (2,32 ± 1,04 ng/ml) 
thấp hơn nghiên cứu của Ebner (6,0 
ng/ml) [5]. Ngoài ra, Ebner chỉ lựa chọn 
những đối tượng có ít nhất 9 hợp tử. 
Tỷ lệ noãn trưởng thành trong nghiên 
cứu của Ebner (2020) là 89,3%, tương 
đương nghiên cứu của chúng tôi (89,84%) 
[5]. Tỷ lệ phôi phân cắt ngày 3 của chúng 
tôi là 98,41 ± 4,03%, của Ebner là 95 - 96%. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nuôi 
phôi đơn giọt có tỷ lệ phôi nang là 
58,08 ± 27,8%, tỷ lệ phôi nang khi nuôi 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2021 
44 
đơn giọt trong nghiên cứu của Ebner là 
45,2%, khi nuôi gộp là 55,8%. Mặc dù có 
những quan điểm cho rằng nuôi phôi gộp 
làm cho phôi có những yếu tố tự tiết 
(autocrine) và cận tiết (paracrine), góp 
phần làm cho các phôi nang phát triển. 
Tuy nhiên, một số nhược điểm khi nuôi 
phôi gộp bao gồm: Tích lũy nhiều hơn các 
yếu tố có thể gây độc cho phôi (embryo 
toxic), từ đó làm giảm sức sống, năng lực 
của phôi trong giọt nuôi gộp, cạn kiệt một 
số chất thiết yếu với phôi do chuyển hóa 
của các phôi khác nhau, một số chất 
chuyển hóa trung gian của phôi có thể là 
độc tố với phôi khác, không thể theo dõi 
động học của phôi mặc dù động học phôi 
là một yếu tố quan trọng để đánh giá chất 
lượng phôi. Rebollar-Lazaro và Matson 
(2010) báo cáo việc nuôi cấy phôi gộp từ 
ngày 1 - 3 không tác động đến tỷ lệ có 
thai và tỷ lệ làm tổ so với những phôi 
được nuôi cấy đơn giọt [6]. 
Thể tích nuôi phôi đơn giọt ảnh hưởng 
đến sự phát triển của phôi và yêu cầu của 
nuôi cấy phôi đơn giọt phục vụ chẩn đoán 
di truyền tiền làm tổ không xâm lấn. Nuôi 
cấy phôi thể tích lớn dẫn tới tình trạng 
nồng độ sản phẩm DNA của phôi thấp 
hơn, từ đó hiệu quả khuếch đại gen giảm. 
Yeung (2016) tiến hành nuôi cấy phôi đơn 
giọt với thể tích 30 µl thấy tỷ lệ khuếch 
đại thành công là 89% [7]. Rubio (2020) 
nuôi cấy phôi đơn giọt với thể tích 10 µl, 
tỷ lệ khuếch đại gen là 97,4% [8]. Năm 
2015, Minasi tiến hành so sánh nuôi phôi 
đơn giọt ở các thể tích khác nhau (35 µl, 
15 µl và 7 µl). Kết quả cho thấy sự phát 
triển phôi giữa các nhóm không khác biệt, 
tuy nhiên tỷ lệ blastocyst ở nhóm nuôi 
phôi 7 µl cao hơn so với nhóm 35 µl. Tác 
giả nhận định việc nuôi phôi thể tích thấp 
làm tăng nồng độ các yếu tố cận tiết của 
phôi [9]. 
Hiện nay, với những tiến bộ mới trong 
labo hỗ trợ sinh sản, việc nuôi đơn phôi 
có tỷ lệ tạo phôi nang cao. Nghiên cứu 
của chúng tôi sử dụng môi trường nuôi 
cấy phôi kín, có phủ dầu, do đó tránh 
được tạp nhiễm DNA từ môi trường cũng 
như sự bốc hơi nước của dịch nuôi cấy. 
Việc nuôi phôi đơn giọt có thể được tiến 
hành để phục vụ xét nghiệm di truyền tiền 
làm tổ không xâm lấn. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ phôi phân cắt ngày 3 là 98,41 ± 
4,03%, tỷ lệ tạo phôi nang khi nuôi cấy 
đơn giọt là 58,08 ± 27,8%. Việc nuôi cấy 
phôi đơn giọt có thể được tiến hành để 
phục vụ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ 
không xâm lấn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Kim HJ, Kim CH, Lee SM, et al. 
Outcomes of preimplantation genetic diagnosis 
using either zona drilling with acidified 
Tyrode’s solution or partial zona dissection. 
Clin Exp Reprod Med 2012; 39(3):118-124. 
2. Scott RT, Upham KM, Forman EJ, et al. 
Cleavage-stage biopsy significantly impairs 
human embryonic implantation potential while 
blastocyst biopsy does not: A randomized and 
paired clinical trial. Fertil Steril 2013; 
100(3):624-630. 
3. Palini S, Galluzzi L, De Stefani S, et al. 
Genomic DNA in human blastocoele fluid. 
Reprod Biomed Online 2013; 26(6):603-610. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2021 
45 
4. Assou S, Aït-Ahmed O, El Messaoudi S, 
et al. Non-invasive pre-implantation genetic 
diagnosis of X-linked disorders. Med 
Hypotheses 2014; 83(4):506-508. 
5. Ebner T, Shebl O, Moser M, et al. Group 
culture of human zygotes is superior to 
individual culture in terms of blastulation, 
implantation and life birth. Reproductive 
BioMedicine Online 2010; 21(6):62-768. 
6. Rebollar-Lazaro I, Matson P. The culture 
of human cleavage stage embryos alone or in 
groups: Effect upon blastocyst utilization rates 
and implantation. Reprod Biol 2010; 10(3): 
227-234. 
7. Yeung QSY, Zhang YX, Chung JPW, et al. 
A prospective study of non-invasive 
preimplantation genetic testing for aneuploidies 
(NiPGT-A) using next-generation sequencing 
(NGS) on spent culture media (SCM). J Assist 
Reprod Genet 2019; 36(8):609-1621. 
8. Rubio C, Navarro-Sánchez L, García-
Pascual CM, et al. Multicenter prospective 
study of concordance between embryonic 
cell-free DNA and trophectoderm biopsies 
from 1,301 human blastocysts. Am J Obstet 
Gynecol 2020. 
9. Minasi MG, Fabozzi G, Casciani V, et al. 
Improved blastocyst formation with reduced 
culture volume: Comparison of three different 
culture conditions on 1,128 sibling human 
zygotes. J Assist Reprod Genet 2015; 32(2): 
215-220.

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_ty_le_phat_trien_phoi_nang_phoi_phan_cat_trong_dieu.pdf